1. Bàn thờ Địa-Mẫu Từ-tôn Ở chính giữa bài vị, là: Địa-Mẫu Từ-tôn, còn phụ ở hai bên tả hửu, là: Trạch dân tiên thánh và Chánh trực thiện thần. Đức Địa-Mẫu nói nay chánh là Hậu-Thổ ghi trong kinh sách xưa. Trong bài kinh Địa-mẫu của đạo Minh-Lý có câu: Từ Bàn-cổ khai thiên tịch địa, Đại Từ-tôn oai nghĩa giúp đời, Ân cao Địa-Mẫu vơi vơi, Người người gội đức tày Trời hoá sanh. ……………………………………………………………… Công Hậu-Thổ đức dày đạo cả, Hoá dưỡng sanh hoa quả, lúa, khoai. Kim ngân, châu bửu, dượctài, Nuôi người đặng sống lâu dài Trần-dương. Mấy câu kinh đó đủ chỉ rõ công đức của Địa-mẫu đối với nhơn loại, là nuôi nấng về phần vật chất, cũng như Trời là nguồn sống về phần tinh-thần vậy. (Thỉnh coi kinh Nhựt-Tụng của đạo Minh-lý). 2. Bàn thờ Lịch-Đại Tổ-Tiên Ở chính giửa bài vị là: Lịch-đại tổ tiên, tức là ông bà nhiều đời của Minh lý môn-sanh. Còn phụ ở hai bên tả hữu, là: Tiền hiền sáng nghiệp, tức là các bực tiền-bối có công khai sáng đạo và Chùa, và Hậu-hiền thủ thành, tức là các bực hậu lai có công gìn giữ đạo và Chùa. Nay là chỗ niệm công-đức của ông bà cha mẹ và các bực hữu đại công. Vậy thì Bửu-điện là điện thờ chính giữa tượng-trưng cho Trời, bàn thờ Địa-Mẫu tượng-trưng cho Đất, bàn thờ Tổ-tiên tượng trưng cho Người. Thiên, Địa, Nhơn tức là ba khía cạnh của hình tam-giác ở chính giữa cái Hoả-Hậu của đạo Minh-lý, đã giải bày ở chương trước rồi. 3. Bàn thờ Thập-Điện Diêm-vương: Thập điện là mười điện của vua coi các địa ngục. Nay tuy nói mười điện, mà kỳ thiệt chỉ có 8 điện hành hình. Còn điện thứ nhứt là để đón tiếp và tra hỏi tội nhơn mới xuống, rồi tuỳ theo tội phạm mà gởi đi mỗi ngục để chịu hình phạt. Và điện thứ mười là để thâu nạp các tội-nhơn đã mãn tội hình và cho đi đầu thai trong lục đạo.
Kinh Chánh-Pháp-Niệm nói: sự khổ ở A-Tì địa ngục, thắng hơn các bảy địa ngục trước một ngàn lần. Chữ A-Tì, người Trung-hoa dịch là: Vo-gián, nghĩa là: hành hình không lúc nào nghĩa tay (Thỉnh coi kinh sám-hối của đạo Minh lý). 4. Bàn thờ Thanh-Phước Chánh-thần Thanh-Phước Chánh-Thần tên tục là Bá-Giám, nguyên xưa là tổng-binh của vua Huỳnh-đế. Lúc đánh giặc Xuy-vưu, Ngài bị thất trận, sa xuống biển Bắc mà chết. Tương truyền: Hồn của Ngài ở đó mà chịu khổ lạnh cả ngàn năm. Sau Ngài đặng Khương-Thượng nguyên-soái nhà Châu đem về coi giữ đài Phong-thần, có công tiếp dẫn các vong-hồn chiến sĩ đời ấy, nên đặng sắc phong là: Thanh-Phước Chánh-Thần. Chữ Thanh có nghĩa là: trong sạch, là cõi trên, đối với hồng-trần, là cõi phàm. Phước là phước đức, quả lành. Thanh-Phước Chánh-thần tức là vị Chánh-thần Dẫn vong của đạo Minh-Lý. Mỗi khi có người trong đạo Minh-Lý quả vãng, Ngài có phận sự là dẫn vong hồn ấy về cõi Thiên-đàng, Cực-lạc, ngõ hưởng phước thanh nhàn, hoặc là đến các động-thiên, phước-địa, để tiếp-tục tu hành, cho tới thành chánh-quả. Thỉnh xem hai câu liễn thờ đây thì rõ: Thành thần thành thánh bằng quân dẫn, Chiêu phước chiêu tài trượng đức tôn. Nghĩa là: Thành thần, thành thánh nhờ Ngài dẫn, Cầu phước, cầu tiền cậy đức cao. |
CÁC BÀN THẦN
( HOLY SPIRIT ALTARS) 5. Bàn thờ Long-Thần Hộ-pháp Phật học từ-điển có ghi Bát-bộ chúng là:
Đủ rõ Long-Thần Hộ-Pháp thờ nay chẳng phải một ông, mà có nhiều vị lắm. Những hạng quỉ thần, tuy chưa tu hành được, mà có thệ trước mặt Phật để phò trì Phật pháp… cho đến vua các cõi Trời như Tứ Thiên-vương, Đế-Thích, đều cũng là thần bảo hộ Phật pháp cả. Xin đừng lộn các Long-thần Hộ-pháp với vị Hộ-pháp là nhơn-danh, là một vị bồ tát xuất sanh ở Nam Ấn-độ, một ngàn năm sau Phật nhập diệt. Tên (Phạm ngữ) là Dharmapâla. Theo Từ-nguyên, cũng có một tên khác nữa là Vi-Đà Hộ-pháp. Đây là một vị thần của đạo Phật, ở dưới quyền của trời Tứ Thiên-vương, làm đầu cả 32 tướng, bảo hộ Phật pháp, khu trừ tà ma, mặc thiết giáp, đội kim-khôi, tay cầm kim-cang xử, dáng mạo như đồng-tử, để tượng-trưng tấm lòng thuần khiết. Tục truyền rằng: Ma-vương đoạt xá lợi của Phật mà đào tẩu, Vi-Đà đuổi theo lấy lại được. Cho nên cũng gọi là Vi-Đà là “Thiện-tẩu chi thần” (thần chạy giỏi). 6. Bàn thờ Môn Quan Thổ Địa Phía ngoài cửa Chánh điện thờ Môn Quan Thổ Địa. Môn quan Thổ địa là vị thần giữ Chánh điện, hoặc gọi là Giám môn quan hay là Thủ môn quan cũng được. Ngoài phận sự môn quan, vị thần này còn có quyền xét công và ban phước. Ban phước lành bằng đồng vàng là Tài-thần. Hai bên bàn thờ có câu đối: Đầu Dinh Bạch Phát Tri Công Lão Thủ Ốc Huỳnh Kim Tứ Phúc Nhân Dịch: Đầu đầy tóc bạc, xét công cán, Tay nắm đồng vàng, ban phước lành. Ý nghĩa: - Biết được công lao của người già tóc đã bạc - Tay nắm vàng ròng ban cho người có phước đức. HẬU ĐƯỜNG TỀ VẬT ĐÀN Ngoài ra, dưới hậu đường có hai bàn thờ ở hai bên. Ở phía tay trái ( hoặc là phía tay mặt nếu nhìn từ phía dưới lên Tề Vật Đàn) có bàn thờ Vạn Niên An Lạc để thờ các môn sanh Minh Lý quá vãng mà chưa được sắc phong. Bài vị: VẠN NIÊN AN LẠC Nghĩa: Yên vui ngàn năm Bên dưới là các chi vị ghi tên người quá vãng Hai bên bàn thờ có câu đối: HUỲNH AI HỮU LỘ QUI HƯƠNG QUỐC PHÁP VŨ VÔ THINH BIẾN DẠ ĐÀI. Dịch: Gió bụi cát vàng tìm về cố hương Ơn mưa móc lặng lẽ trải khắp dạ đài Nghĩa : Tuy ở cõi trần ai biển khổ, nhưng hãy còn có đường về đến nước Phật. Mưa pháp (chỉ điển lực, huyền diệu trong kinh sách) tuy không có tiếng tăm, nhưng soi rọi thấu đến cõi Âm ty (miền âm cảnh) ....... Ở phía tay mặt ( hoặc là phía tay trái nếu nhìn từ phía dưới lên Tề Vật Đàn) có bàn thờ Một Thế Bất Vong để thờ cha mẹ và thân nhân các môn sanh Minh Lý Bài vị: MỘT THẾ BẤT VONG Nghĩa: Trọn đời không quên Bên dưới là các chi vị ghi tên người quá vãng Hai bên bàn thờ có câu đối: XUÂN LỘ THU SƯƠNG VÔ HẠN CÃM THỦY NGUYÊN MỘC BỔN HỮU HÀ TƯ. Dịch: Mưa móc xuân thu không ngừng cãm kích Cặn kẽ cội nguồn luôn nghĩ xa xôi Nghĩa : Xuân lộ( móc mùa xuân) ví như ơn đức. Thu sương ví oai nghiêm. Ơn đức và oai nghiêm của Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, làm cho kẻ hậu thế cãm động vô hạn(vô ngằn). Cây cội nước nguồn là sự tưởng niệm lâu dài, mãi mãi không bao giờ quên được. Vertical Divider
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |