“Tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông” Nghĩa là : lẳng lặng, vô niệm, vô tâm, ý bất động, mà cảnh vừa đến cảm xúc thì ta biết ngay (thọ cảm theo tiên-thiên).
CON ĐƯỜNG TU TẬP THIỀN ĐỊNH
Cái mục đích cứu cánh của MINH LÝ là con đường “phản bổn huờn nguyên” , giải thoát cho tâm linh ngoài vòng huyển hóa, xác nhận cái lẽ chơn thật chỉ có nằm gọn trong thâm tâm của con người, ngoài cái thân không có CHƠN không có THẬT .
Tất cã cõi vũ trụ bao la, trên trời dưới đất, đâu đâu cũng huyển hóa, ảo ảnh, giả tượng; khắp vũ trụ, suốt vạn vật, thấu hết thân người, không đâu không là hiện tượng của âm dương tiêu trưởng, mà âm dương là cái diệu dụng của Trời đất, chưa phải cái nguyên thể linh không vô cực, là cái tự tánh thanh tịnh như như bất động của chính mình. Cái linh không ấy mới chơn thật thường còn; phải hướng tâm về đó, tập trung tất cả, qui gọn vào đó; mắt, tai, mũi, miệng, tình, ý, tưởng, niệm hội tụ ở đó, nhồi trộn đúc kết tất cả trở thành một khối nguyên vẹn, gọi là phản hoàn trở lại bổn thể. Đó là cái mặt thật của chính mình, được Một rồi là Phật, Tiên, là Đạo, là Thành, thay Trời mà điều động âm dương và vạn pháp.
Cái hân hạnh của BẦN TĂNG là thấy đồng đạo đã thực hành thiền định tịnh tu, đi sâu vào tâm địa, để phát giác cái bởi đâu gây ra tan tác, đau khổ, loạn lạc, bất nhứt, phân ly trong xã hội loài người. Cái món thuốc độc đó phải chăng là tâm thức phóng thành hiện tượng, hiện tượng trở lại nhiễu loạn, buộc trói, gây tan tác khổ đau cho xã hội và con người?
Muốn cứu giải con người cũng chỉ có bắt tâm thức quay ngược trở về chỗ cội nguồn của tâm thức. Khi tâm thức theo gốc bỏ ngọn thì thiên hạ thái bình. Cũng món thuốc đó, nếu biết chế sao, thì chất độc trở thành chất bổ; thấu đáo cái nguyên nhân, tức thời giải quyết được ngay, chuyển loạn thành trị vậy!
Vậy mong mỏi đồng đạo của chúng ta, nếu cơ duyên đã đến, mau lo dọn mình cho trong sạch để đón rước CHÚA, để phiền não hóa bồ đề, siêu phàm nhập thánh, y theo bài kệ của DI LẶC :
Buông lòng không u tối,
Rắc rối làm gì sanh?
Nhờ được cái không được,
Mặt thật hiện nguyên hình.
Rổng rang bình đẳng suốt,
Tục lụy biến thanh bình.
Cái bí khuyết là :
Tu cái không tu,
Làm cái không làm,
Nói cái không nói.
Cho nên biết cái dốt nát của loài người chỉ là không biết làm cái không làm và đại phát minh duy nhứt của loài người cũng chỉ là cái không làm mà thôi. Chỉ có khả năng không làm gì hết mới làm nổi tất cả (thiên hà ngôn tai)
Rổng rang không làm gì cả là cái dễ làm nhứt, siêu tuyệt nhứt, vì thế mà cũng là cái khó làm nhứt, cái thiên hạ sợ nhứt!
Người tu mà thấu cái lẽ KHÔNG, cái thần diệu của cái KHÔNG, thì mới dám từ bỏ mọi huyển tướng hữu vi không luyến tiếc. Cái KHÔNG là cái chơn thật nhất! Hết thảy sự mất mát đều qui vào cái CÓ, chớ chưa hề nghe ai nói mất cái KHÔNG. Thế mới biết cái không có gì hết mới là cái vững chải nhứt. Cái KHÔNG ấy ứng hiện là Thần. Thần thì linh không diệu dụng.
(TN Đức BNTS dạy MLMS)
THE PATH OF MEDITATION
The ultimate goal of MINH LY is the path of "returning to the origin," liberating the spirit from the cycle of illusion, affirming that the true essence lies only within the depths of human consciousness, and that there is no TRUTH outside of oneself. The vast universe, heaven and earth, are all illusions and false appearances.
Throughout the universe, all things, including the human body, are manifestations of the waxing and waning of yin and yang, which are the wondrous functions of Heaven and Earth, but not yet the original spiritual void of the absolute, which is one's own inherently pure and unmoving true nature. This spiritual void is the only true and eternal reality; one must direct the mind towards it, concentrate everything, and return to it. Eyes, ears, nose, mouth, emotions, thoughts, and ideas should all converge there, blending and merging into a single, complete whole, called returning to one's original nature. This is one's true face; achieving Oneness is to become Buddha, Immortal, the Way, and Perfection, replacing Heaven in controlling yin and yang and all phenomena.
My joy is seeing fellow practitioners engage in meditation and quiet cultivation, delving deep into the mind to discover the root causes of fragmentation, suffering, chaos, disunity, and division in human society. Is this poison not the mind projecting into phenomena, which in turn disturb, bind, and cause suffering for society and individuals?
To save humanity, we must only make the mind turn back to its source. When the mind follows the root and abandons the branches, the world will be at peace. The same poison, if properly refined, can become medicine; understanding the cause allows for immediate resolution, transforming chaos into order!
Therefore, I hope our fellow practitioners, if the time is right, will quickly purify themselves to welcome the LORD, transform afflictions into enlightenment, and transcend the mundane to enter sainthood, according to DI LAC's verse:
Let go of darkness in the heart,
How can complications arise?
By attaining the unattainable,
The true face appears in its original form.
Emptiness pervades equally,
Worldly attachments transform into peace.
The secret key is:
Cultivate the non-cultivation,
Do the non-doing,
Speak the non-speaking.
Thus, know that human ignorance is simply not knowing how to do non-doing, and the only great discovery of humanity is also non-doing.
Only the ability to do nothing can accomplish everything (heaven has no words). Being empty and doing nothing is the easiest and most transcendent thing to do, which is why it's also the hardest thing to do, what people fear most!
A practitioner who understands the principle of EMPTINESS, the divine wonder of NOTHINGNESS, will dare to abandon all illusory forms without regret. EMPTINESS is the most real! All losses belong to HAVING, but no one has ever heard of losing NOTHINGNESS. This shows that having nothing is the most stable. That NOTHINGNESS manifests as Spirit. Spirit is miraculous without wondrous function.
(TN Duc BNTS teaches MLMS)
THỰC HÀNH CÔNG PHU TU TỊNH
I. Chuẩn bị :
III. Đi vào Tịnh
IV. Xả Tịnh
I. Chuẩn bị :
- Nghỉ ngơi trước khi vào chỗ tịnh
- Chỗ ngồi tịnh
- Chọn thời tịnh
- Thắp nhang & Đọc bài Dâng Hương[2]
- Niệm 3 lần Hồng danh Bác Nhã Thiền Sư
- Đọc bài Tín Tâm Minh
- Điều Thân
- Tập Khử Trược Lưu Thanh (3lần)
- Điều Tức
- Điều Tâm
III. Đi vào Tịnh
IV. Xả Tịnh
- Đọc bài Hồi Hướng Công Đức
Xem thêm
I. CHUẨN BỊ
Trước giờ tịnh, nên giải quyết cho xong những gì cần làm như gọi điện thoại, dọn dẹp phòng … và sau đó, cần nghỉ ngơi, để tâm trí, tinh thần thanh thản, thân thể được nghỉ ngơi (tất cả chừng từ 15 đến 30 phút). Không ăn trước giờ tịnh ít nhất hai tiếng đồng hồ.
Mặc quần áo chỉnh tề không quá chật (không được mặc áo ngắn tay), lưng quần không xiết chặt, để lúc ngồi tịnh được dễ chịu, thoải mái. Lúc trời lạnh, có thể mặc áo ấm.
Lựa chọn chỗ ngồi tịnh thích hợp, ít tiếng động ồn ào, không có ánh sáng sáng lắm và cũng không tối lắm.
Chọn thời tịnh: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, hay tùy theo thời giờ của mỗi cá nhân, nhưng quyết tâm khi đã chọn thời nào thì xin giữ nguyên thời đó, giờ đó, phải cương quyết đi vào phòng để tịnh. Lâu ngày sẽ thành thói quen, nếu đúng giờ đó mà không tịnh, thì thấy như thiếu một cái gì.
Lúc mới tập có thể ngồi chừng 20 phút, nhưng lần lần tăng lên đến 45 phút.
Lúc đầu nếu tê hoặc đau chân, có thể bị vọp bẻ, thì đưa hai chân duổi thẳng ra trước, hai bàn chân để thẳng đứng lên, hai bàn tay úp lên đầu gối cho vững, chừng một phút thì hết tê chân. Nhưng rồi ngày nào cũng tập ngồi lâu quen dần đi, không còn bị tê chân hay vọp bẻ nữa.
II. VÀO PHÒNG TỊNH
Nếu phòng tịnh (hay chỗ ngồi tịnh) có bàn thờ Chí Tôn hay bàn thờ Phật, thì thắp nhang rồi quì xuống đọc bài Dâng Hương.
Xá một xá, trước khi ngồi xuống vào chỗ Tọa Thiền .
Sau đó, niệm thầm: Nam Mô Bác Nhã Thiền sư, Tam Tông Pháp Chủ, Nguyên Quân Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Đọc bài Tín Tâm Minh.
Xong, bắt đầu Điều Thân, Điều Tức, Điều Tâm.
II.1. Điều Thân:
Khi ngồi thiền, trải tọa cụ và bồ đoàn (gối) ngồi cho êm, giữ oai nghi tề chỉnh. Rồi sau mới:
1. Ngồi kiết già, lấy chân mặt đặt lên bắp vế trái, hay chân trái đè lên bắp vế mặt, chân trái đặt lên bắp vế mặt. Hoặc ngồi bán già hoặc ngồi xếp bằng hay ngồi trên ghế (nếu vì bị đau chân) cũng được, chỉ đem chân trái đè lên chân mặt, hay chân mặt đè lên chân trái, bàn tay trái nằm trên bàn tay mặt, cho hai ngón tay cái cụng đầu vào nhau.
2. Kế nhè nhẹ ngả mình ra phía trước, nghiêng qua trái, qua mặt, rồi sửa thân mình ngay ngắn mà ngồi, chẳng đặng ngả bên trái hay bên phải, gục xuống phía trước hay ngữa ra sau, khiến cho các khớp xương sống đứng vững như tháp phù đồ vậy[3].
Muốn cho cách ngồi đúng, thì lấy hai tay đưa ra trước, cúi gập mình xuống sát thềm, xong ngồi thẳng trở lại.
Người lớn tuổi, hoặc có bệnh không thể ngồi, bán già hay xếp bằng được có thể ngồi trên ghế, hai chân thòng xuống đặt trên một lớp nệm hay hay gối nhỏ để cách đất[4].
Lại chẳng kềm thân (gồng mình, tay chân) thái quá, làm cho thở dốc không yên. Phải giữ sao cho lổ tai ngay xuống chả vai; lỗ mũi, chót mũi và rún thành một đường thẳng, lưỡi chống ổ gà, môi răng nhíp lại, con mắt hơi mở một chút (xũ rèm), mới khỏi mê tâm ngủ gục[5].
II.1.1 Khử Trược Lưu Thanh
Có thể chọn một trong ba cách tập sau:
1. Cách tập do đức Quan Âm Bồ Tát dạy: “Về hấp khí chơn nguyên, ngồi thế liên hoa, hai tay nắm chặt, cúi mình xuống sâu gần cụng đất, thở ra tưởng tượng ác khí, bịnh tật xấu xí chi chi trong người đều theo hơi thở đi ra sạch; rồi tiếp đó ngước lên, hít vào một hơi đến rún, tưởng thâu nhiếp khí thanh tịnh của Trời Đất bao la vào bồi dưỡng cho thân mình”. Cứ vậy mà làm gọi là “Thổ cố nạp tân”[6].
2. Miệng phải hà hơi trược, mà phép hà hơi chẳng nên mạnh và gấp, phải thở nhẹ và dài; đồng thời phải tưởng tới chỗ nào mạch máu trong mình bất thông, hà hơi cho khí nghẹt theo đó mà ra, rồi ngậm miệng lại, mũi hít khí thanh, như vậy đủ ba lần. Nếu thân thể và hơi thở điều hòa, thì chỉ nên làm một lần[7].
3. Khi ngồi xuống thở đều một hai hơi, kế hít vào càng nhiều càng tốt, vừa hít vào vừa dùng ý nghĩ “Tôi hít khí Tiên Thiên vào khắp châu thân”. Ngưng 2 hay 3 giây, rồi thở ra từ từ. Vừa thở vừa nghĩ “Tôi xả hết trược khí, ác khí ra khỏi thân thể tôi”. Ngưng một chút, tập lại chừng 3 lần.
Khử Trược Lưu Thanh 3 lần.
Xong, thở điều hòa (thở bình thường) hai ba hơi, rồi bắt đầu Điều Tức.
Lưu ý:
- Khi tập, cố gắng đừng để cho vọng niệm xen vào khi dùng ý dẫn hơi thở, vì vọng niệm làm khí tản không đi đúng đường hướng xuyên qua các mạch.
II.2. Điều Tức[8] (điều hòa hơi thở):
Mới tập, thở bình thường, cố gắng định thần theo hơi thở, để tránh tạp niệm và đi vào cơn buồn ngủ”. Để tránh 2 điều nầy thì “Hoặc niệm Phật, hoặc nương theo hơi thở ra vào”. (Pháp môn “Đại Thừa Vô Niệm” của BNTS và Đức HĐĐV chỉ dạy).
II.2.1 Khi mới tập, hơi thở chưa điều hòa, có ba (3) tướng thở thường gặp là phong, suyển, khí.
II.2.2 Khi hơi thở điều hòa thì gọi là Tức tướng. Hành giả không còn nghe gió, không hen suyễn, không thô, hơi thở ra vào đều và dài, phây phây mà thôi. Như thế thần yên ổn, tình đặng đẹp vui, đó là tướng của chơn tức.
Để điều tức, hành giả buông lơi thân thể tưởng tượng khí ra vào khắp các lỗ chân lông, thông đồng chẳng có chi ngăn ngại... Nếu thâu nhỏ cái tâm lại, đó là làm cho hơi thở nhỏ nhẹ. Hễ hơi thở đều, thì các bịnh hoạn không sanh, tâm mình dễ định. Sau một thời gian hơi thở sẽ điều hòa nhẹ nhàng chậm rải.
II.3 Điều Tâm[9]:
Muốn điều tâm, phải theo hai pháp sau đây:
a. Đem tâm đặt yên ở một chỗ.
b. Thư giản, buông xả các sự ràng buộc, câu thúc.
Đó là phương pháp điều tâm khi mới nhập định. Nhập định phải bắt đầu từ thô mà đi vào tế. Nghĩa là điều thân (sửa thế ngồi, ngay ngắn …), kế đến điều tức (hơi thở) sau hết điều tâm. Tất cả cho điều hòa.
Nên nhớ lúc nào Tâm, Tức cũng nương nhau.
Lúc mới tập Tọa Thiền, chưa quen, tâm có thể có tướng trầm, bổng, gấp, huởn. Như vậy phải điều tâm.
Cách điều chỉnh khi tâm trầm, bổng, gấp, hưỡn.
- Sao gọi là tướng trầm?
- Nếu lúc ngồi thiền, mà trong tâm hôn muội, không còn ghi nhớ chi cả, đầu hay ngả gục, đó là tướng trầm. Lúc đó, nên hệ niệm (buộc trói niệm tưởng) vào chót sóng mũi (tỉ đoan), khiến tâm trụ tại duyên-trung (Tâm định vào đâu thì chỗ đó là duyên-trung), không cho ý phân tán, thế mới trị được tướng trầm.
- Sao gọi là tướng bổng ?
- Nếu lúc ngồi thiền, tâm hay xao động, thì thân cũng không yên; lại tâm tưởng qua việc khác bên ngoài, đó là tướng bổng.
Lúc đó, phải đem tâm đặt yên phía dưới, buộc vào tề trung (tại rún) để kềm chế các loạn niệm. Hễ tâm đặng định trụ, thì nó dễ yên tịnh.
Nói tóm lại, không trầm không bổng, là tướng tâm điều (tâm đã điều hòa).
Cái tâm định cũng có tướng gấp huỡn.
Nếu tâm có tướng bịnh gấp, là do lúc ngồi thiền, nhiếp tâm dụng niệm, nhờ đó mà nhập định. Nhưng cũng vì cớ đó mà khí xông lên, lồng ngực bị xói mạnh mà đau. Vậy phải phóng xả cái tâm tưởng niệm, thì khí đi trở xuống, tự nhiên hết bịnh.
Nếu tâm có tướng bịnh huỡn, nghe tâm mình tản mác, thân thường bị bại xuội, hoặc miệng chảy nước dãi, hoặc có lúc tối tăm. Lúc ấy nên kềm thân, mau dùng niệm thâu nhiếp, khiến tâm trụ lại duyên-trung, thân thể giữ gìn nhau, để mà trị tâm.
Xong, thở vài hơi thở bình thường (điều hòa) trước khi đi vào tịnh.
III. ĐI VÀO TỊNH
Tịnh là không còn nghĩ quá khứ, vị lai, chỉ nhớ hiện tại là mình đang quyết tâm ngồi tập tu tịnh với chánh niệm: tự giác, giác tha, tự độ, độ tha.
Người mới tập ngồi thiền, sau khi tập quen Điểu Thân, Điều Tức, Điều Tâm, bắt đầu tịnh:
Chú thích: Người mới bắt đầu tập, thì có thể trong lúc rổi rảnh ngồi tập nhìn vào sóng mũi, trụ Thần vào Ấn Đường, Sơn Căn chừng 5, 10 phút. Một thời gian sau thì từ từ tập chiếu xuống Đơn Điền.
Lưu ý:
1. Chướng ngại:
Vọng niệm: Khi ngồi tịnh, ai cũng gặp phải vọng niệm, hết vọng niệm nầy tới vọng niệm khác, liên miên bất tuyệt. Vọng niệm nổi lên là vì quên hơi thở, để trí óc suy nghĩ việc khác.
Để giảm bớt vọng niệm:
* Khi niệm khởi thì tập ngơ nó đi.
* Niệm trong đầu hồng danh Bác Nhã Thiền Sư, thì bao nhiêu vọng niệm sẽ biến mất.
Cứ gan lì, thung dung ngồi tịnh, không màng tới nó nữa.
Nên nhớ: Niệm trước vừa dứt, niệm sau chưa sanh, thì cái biết khoảng giữa không có niệm đó gọi là “Giác”. Cố gắng tập cho “Giác” càng kéo dài càng tốt.
Hôn trầm: cảm thấy buồn ngủ, mơ mơ màng màng, không còn tỉnh táo, thì lập tức tập trung tinh thần, hai mắt chiếu xuống chót mũi, thở điều hòa, chừng 5 hay 6 lần thì sẽ hết buồn ngủ.
Trạo cử: cảm thấy rối loạn, nóng nảy, tạp niệm xuất hiện liên miên, thì trụ Tâm vào Đơn Điền cho đến khi các chướng ngại đó biến mất. Nếu không dứt thì nên xả tịnh, rồi ngồi tịnh tâm. Năm phút sau thì có thể ngồi tịnh trở lại.
2. Không nên hi vọng, mong đợi sẽ đạt được kết quả gì: Nếu mong đợi, hi vọng mà không có kết quả thì sẽ sanh ra chán nản, thối chí, ngả lòng, nghi ngờ Chánh Pháp Tu Tịnh. Cũng không nên vui mừng quá độ khi thấy mình có tiến bộ chút ít. Cả hai trạng thái nầy đều là chướng ngại rất lớn cho sự tu tịnh.
Cần phải tỉnh giác và áp dụng phương pháp chữa trị ngay khi chúng vừa xuất hiện, và khi nhận biết chúng thì ngơ chúng đi, tự nhiên chúng biến mất.
IV. Xả Tịnh
Trước khi xả tịnh, tưởng thầm:
Hiệp thần kết tụ toàn thể điển quang,
Phóng trọn không gian toả ra khắp chốn.
Hồi hướng vô lượng chúng sanh[11].
Rồi mở miệng hà hơi. Tư tưởng theo trăm mạch tùy ý mà tản mác, rồi sau nhẹ nhẹ nhích động thân thể.
Kế đó, đọc bài Hồi Hướng Công Đức (đính kèm). Đọc xong, niệm “Nam Mô Bác Nhã Chư Thiên”.
Tiếp theo, Thực hành xoa bóp toàn thân:
Chà nóng hai bàn tay áp vào mắt trước khi mở mắt ra, kế là dùng 2 bàn tay vuốt mặt từ dưới lên trên, rồi từ trước ra sau. Xoa nóng 2 lổ tai, sau ót; dùng tay này bóp nhẹ tay kia từ cổ, vai …đến bàn tay, ngón tay. Bóp nhẹ các đầu ngón tay; đan 2 bàn tay vào nhau rồi từ từ kéo giãn ra; các đầu ngón tay co lại dùng bàn tay này bóp nhẹ các ngón tay kia.
Chà nóng hai bàn tay. Dùng bàn tay mặt đặt trên rún xoa bụng theo chiều kim đồng hồ 36 lần, dùng bàn tay trái xoa ngược lại 24 lần.
Áp 2 bàn tay vào vùng thắt lưng, hai bên cột sống, xoa nhẹ vùng ấy 24 lần.
Xong, xoa bóp 2 chân từ trên (từ vùng háng) xuống đến bàn chân. Chà ấm gan bàn chân. Xoa bóp các khớp, ngón chân.
Cuối cùng là Nằm xả cân: Để hồi phục sức khỏe, khi về chổ nghỉ, nằm ngửa, buông xả tay chân, thần kinh, mắt nhắm, hơi thở nhẹ, không nghĩ tưởng một việc nào, tập
[1] Bổ túc và hoàn chỉnh từ bài “ Thực hành công phu tu tịnh” của huynh Đại Khai -2009
[2] Việc thắp nhang & dâng hương thực hiện tại nhà.
[3] Nguyễn Minh Thiện, Dự Bị Huyền Công, Trường Lư Từ Giác Trách thiền sư nói về phép tọa thiền tr 21
[4] Đông Phương Chưởng Quản dạy ngài Ngô Minh Chiêu
[5] Nguyễn Minh Thiện, Dự Bị Huyền Công, Trường Lư Từ Giác Trách thiền sư nói về phép tọa thiền tr 22
[6] QABT TN ngày 22/1/1983
[7] Chỉ Quán Tọa Thiền tr.37
[8] Chỉ Quán Tọa Thiền, tr.38
[9] Trích và tóm lược Chỉ Quán Tọa thiền, Ch.V. Điều Tâm, trang 40-44
[10] Đạo Học Chỉ Nam, Chương 3 tr.42
[11] BNTS TN 21/6/1976
Trước giờ tịnh, nên giải quyết cho xong những gì cần làm như gọi điện thoại, dọn dẹp phòng … và sau đó, cần nghỉ ngơi, để tâm trí, tinh thần thanh thản, thân thể được nghỉ ngơi (tất cả chừng từ 15 đến 30 phút). Không ăn trước giờ tịnh ít nhất hai tiếng đồng hồ.
Mặc quần áo chỉnh tề không quá chật (không được mặc áo ngắn tay), lưng quần không xiết chặt, để lúc ngồi tịnh được dễ chịu, thoải mái. Lúc trời lạnh, có thể mặc áo ấm.
Lựa chọn chỗ ngồi tịnh thích hợp, ít tiếng động ồn ào, không có ánh sáng sáng lắm và cũng không tối lắm.
Chọn thời tịnh: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, hay tùy theo thời giờ của mỗi cá nhân, nhưng quyết tâm khi đã chọn thời nào thì xin giữ nguyên thời đó, giờ đó, phải cương quyết đi vào phòng để tịnh. Lâu ngày sẽ thành thói quen, nếu đúng giờ đó mà không tịnh, thì thấy như thiếu một cái gì.
Lúc mới tập có thể ngồi chừng 20 phút, nhưng lần lần tăng lên đến 45 phút.
Lúc đầu nếu tê hoặc đau chân, có thể bị vọp bẻ, thì đưa hai chân duổi thẳng ra trước, hai bàn chân để thẳng đứng lên, hai bàn tay úp lên đầu gối cho vững, chừng một phút thì hết tê chân. Nhưng rồi ngày nào cũng tập ngồi lâu quen dần đi, không còn bị tê chân hay vọp bẻ nữa.
II. VÀO PHÒNG TỊNH
Nếu phòng tịnh (hay chỗ ngồi tịnh) có bàn thờ Chí Tôn hay bàn thờ Phật, thì thắp nhang rồi quì xuống đọc bài Dâng Hương.
Xá một xá, trước khi ngồi xuống vào chỗ Tọa Thiền .
Sau đó, niệm thầm: Nam Mô Bác Nhã Thiền sư, Tam Tông Pháp Chủ, Nguyên Quân Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
Đọc bài Tín Tâm Minh.
Xong, bắt đầu Điều Thân, Điều Tức, Điều Tâm.
II.1. Điều Thân:
Khi ngồi thiền, trải tọa cụ và bồ đoàn (gối) ngồi cho êm, giữ oai nghi tề chỉnh. Rồi sau mới:
1. Ngồi kiết già, lấy chân mặt đặt lên bắp vế trái, hay chân trái đè lên bắp vế mặt, chân trái đặt lên bắp vế mặt. Hoặc ngồi bán già hoặc ngồi xếp bằng hay ngồi trên ghế (nếu vì bị đau chân) cũng được, chỉ đem chân trái đè lên chân mặt, hay chân mặt đè lên chân trái, bàn tay trái nằm trên bàn tay mặt, cho hai ngón tay cái cụng đầu vào nhau.
2. Kế nhè nhẹ ngả mình ra phía trước, nghiêng qua trái, qua mặt, rồi sửa thân mình ngay ngắn mà ngồi, chẳng đặng ngả bên trái hay bên phải, gục xuống phía trước hay ngữa ra sau, khiến cho các khớp xương sống đứng vững như tháp phù đồ vậy[3].
Muốn cho cách ngồi đúng, thì lấy hai tay đưa ra trước, cúi gập mình xuống sát thềm, xong ngồi thẳng trở lại.
Người lớn tuổi, hoặc có bệnh không thể ngồi, bán già hay xếp bằng được có thể ngồi trên ghế, hai chân thòng xuống đặt trên một lớp nệm hay hay gối nhỏ để cách đất[4].
Lại chẳng kềm thân (gồng mình, tay chân) thái quá, làm cho thở dốc không yên. Phải giữ sao cho lổ tai ngay xuống chả vai; lỗ mũi, chót mũi và rún thành một đường thẳng, lưỡi chống ổ gà, môi răng nhíp lại, con mắt hơi mở một chút (xũ rèm), mới khỏi mê tâm ngủ gục[5].
II.1.1 Khử Trược Lưu Thanh
Có thể chọn một trong ba cách tập sau:
1. Cách tập do đức Quan Âm Bồ Tát dạy: “Về hấp khí chơn nguyên, ngồi thế liên hoa, hai tay nắm chặt, cúi mình xuống sâu gần cụng đất, thở ra tưởng tượng ác khí, bịnh tật xấu xí chi chi trong người đều theo hơi thở đi ra sạch; rồi tiếp đó ngước lên, hít vào một hơi đến rún, tưởng thâu nhiếp khí thanh tịnh của Trời Đất bao la vào bồi dưỡng cho thân mình”. Cứ vậy mà làm gọi là “Thổ cố nạp tân”[6].
2. Miệng phải hà hơi trược, mà phép hà hơi chẳng nên mạnh và gấp, phải thở nhẹ và dài; đồng thời phải tưởng tới chỗ nào mạch máu trong mình bất thông, hà hơi cho khí nghẹt theo đó mà ra, rồi ngậm miệng lại, mũi hít khí thanh, như vậy đủ ba lần. Nếu thân thể và hơi thở điều hòa, thì chỉ nên làm một lần[7].
3. Khi ngồi xuống thở đều một hai hơi, kế hít vào càng nhiều càng tốt, vừa hít vào vừa dùng ý nghĩ “Tôi hít khí Tiên Thiên vào khắp châu thân”. Ngưng 2 hay 3 giây, rồi thở ra từ từ. Vừa thở vừa nghĩ “Tôi xả hết trược khí, ác khí ra khỏi thân thể tôi”. Ngưng một chút, tập lại chừng 3 lần.
Khử Trược Lưu Thanh 3 lần.
Xong, thở điều hòa (thở bình thường) hai ba hơi, rồi bắt đầu Điều Tức.
Lưu ý:
- Khi tập, cố gắng đừng để cho vọng niệm xen vào khi dùng ý dẫn hơi thở, vì vọng niệm làm khí tản không đi đúng đường hướng xuyên qua các mạch.
II.2. Điều Tức[8] (điều hòa hơi thở):
Mới tập, thở bình thường, cố gắng định thần theo hơi thở, để tránh tạp niệm và đi vào cơn buồn ngủ”. Để tránh 2 điều nầy thì “Hoặc niệm Phật, hoặc nương theo hơi thở ra vào”. (Pháp môn “Đại Thừa Vô Niệm” của BNTS và Đức HĐĐV chỉ dạy).
II.2.1 Khi mới tập, hơi thở chưa điều hòa, có ba (3) tướng thở thường gặp là phong, suyển, khí.
- Phong: Lúc ngồi thiền hơi thở trong mũi ra vào nghe như có tiếng gió.
- Suyễn: Lúc ngồi thiền, tuy hơi thở không nghe tiếng, mà ra vào như bị nghẹt, không thông như bị hen suyển.
- Khí: Lúc ngồi thiền, hơi thở tuy không nghe như gió, như hen suyễn, nhưng ra vào không nhỏ nhẹ, còn thô.
II.2.2 Khi hơi thở điều hòa thì gọi là Tức tướng. Hành giả không còn nghe gió, không hen suyễn, không thô, hơi thở ra vào đều và dài, phây phây mà thôi. Như thế thần yên ổn, tình đặng đẹp vui, đó là tướng của chơn tức.
Để điều tức, hành giả buông lơi thân thể tưởng tượng khí ra vào khắp các lỗ chân lông, thông đồng chẳng có chi ngăn ngại... Nếu thâu nhỏ cái tâm lại, đó là làm cho hơi thở nhỏ nhẹ. Hễ hơi thở đều, thì các bịnh hoạn không sanh, tâm mình dễ định. Sau một thời gian hơi thở sẽ điều hòa nhẹ nhàng chậm rải.
II.3 Điều Tâm[9]:
Muốn điều tâm, phải theo hai pháp sau đây:
a. Đem tâm đặt yên ở một chỗ.
b. Thư giản, buông xả các sự ràng buộc, câu thúc.
Đó là phương pháp điều tâm khi mới nhập định. Nhập định phải bắt đầu từ thô mà đi vào tế. Nghĩa là điều thân (sửa thế ngồi, ngay ngắn …), kế đến điều tức (hơi thở) sau hết điều tâm. Tất cả cho điều hòa.
Nên nhớ lúc nào Tâm, Tức cũng nương nhau.
Lúc mới tập Tọa Thiền, chưa quen, tâm có thể có tướng trầm, bổng, gấp, huởn. Như vậy phải điều tâm.
Cách điều chỉnh khi tâm trầm, bổng, gấp, hưỡn.
- Sao gọi là tướng trầm?
- Nếu lúc ngồi thiền, mà trong tâm hôn muội, không còn ghi nhớ chi cả, đầu hay ngả gục, đó là tướng trầm. Lúc đó, nên hệ niệm (buộc trói niệm tưởng) vào chót sóng mũi (tỉ đoan), khiến tâm trụ tại duyên-trung (Tâm định vào đâu thì chỗ đó là duyên-trung), không cho ý phân tán, thế mới trị được tướng trầm.
- Sao gọi là tướng bổng ?
- Nếu lúc ngồi thiền, tâm hay xao động, thì thân cũng không yên; lại tâm tưởng qua việc khác bên ngoài, đó là tướng bổng.
Lúc đó, phải đem tâm đặt yên phía dưới, buộc vào tề trung (tại rún) để kềm chế các loạn niệm. Hễ tâm đặng định trụ, thì nó dễ yên tịnh.
Nói tóm lại, không trầm không bổng, là tướng tâm điều (tâm đã điều hòa).
Cái tâm định cũng có tướng gấp huỡn.
Nếu tâm có tướng bịnh gấp, là do lúc ngồi thiền, nhiếp tâm dụng niệm, nhờ đó mà nhập định. Nhưng cũng vì cớ đó mà khí xông lên, lồng ngực bị xói mạnh mà đau. Vậy phải phóng xả cái tâm tưởng niệm, thì khí đi trở xuống, tự nhiên hết bịnh.
Nếu tâm có tướng bịnh huỡn, nghe tâm mình tản mác, thân thường bị bại xuội, hoặc miệng chảy nước dãi, hoặc có lúc tối tăm. Lúc ấy nên kềm thân, mau dùng niệm thâu nhiếp, khiến tâm trụ lại duyên-trung, thân thể giữ gìn nhau, để mà trị tâm.
Xong, thở vài hơi thở bình thường (điều hòa) trước khi đi vào tịnh.
III. ĐI VÀO TỊNH
Tịnh là không còn nghĩ quá khứ, vị lai, chỉ nhớ hiện tại là mình đang quyết tâm ngồi tập tu tịnh với chánh niệm: tự giác, giác tha, tự độ, độ tha.
Người mới tập ngồi thiền, sau khi tập quen Điểu Thân, Điều Tức, Điều Tâm, bắt đầu tịnh:
- Mắt xủ rèm, lưỡi chống lên nóc vọng (chống ổ gà), đầu hơi cúi một chút. Phía trước chót mũi hướng xuống rún, phía sau lưng thẳng để đường đi từ xương sống lên Ngọc Chẫm thẳng lên tới Nê Hườn. Bắt đầu dùng ý tụ hai mắt vào giữa hai chân mày, nhưng cao hơn một chút (Mi Tâm) một thời gian cho Thần được định, tức là không có phóng tâm, trong khi vẫn thở bình thường (Hai mắt là Thần[10]). Sau khi đã quen định vào đây thì gọi là Thần Quang. Lúc ấy, chuyển Thần Quang xuống Rún.
- Hít hơi vô, thở ra bình thường; ý để tại Đơn Điền hoặc Tề Trung (rún). Thở ra, hít vào vài ba hơi như vậy, rồi tiếp tục nhưng chỉ nghĩ đến hơi thở vô ra mà thôi.
Chú thích: Người mới bắt đầu tập, thì có thể trong lúc rổi rảnh ngồi tập nhìn vào sóng mũi, trụ Thần vào Ấn Đường, Sơn Căn chừng 5, 10 phút. Một thời gian sau thì từ từ tập chiếu xuống Đơn Điền.
Lưu ý:
1. Chướng ngại:
Vọng niệm: Khi ngồi tịnh, ai cũng gặp phải vọng niệm, hết vọng niệm nầy tới vọng niệm khác, liên miên bất tuyệt. Vọng niệm nổi lên là vì quên hơi thở, để trí óc suy nghĩ việc khác.
Để giảm bớt vọng niệm:
* Khi niệm khởi thì tập ngơ nó đi.
* Niệm trong đầu hồng danh Bác Nhã Thiền Sư, thì bao nhiêu vọng niệm sẽ biến mất.
Cứ gan lì, thung dung ngồi tịnh, không màng tới nó nữa.
Nên nhớ: Niệm trước vừa dứt, niệm sau chưa sanh, thì cái biết khoảng giữa không có niệm đó gọi là “Giác”. Cố gắng tập cho “Giác” càng kéo dài càng tốt.
Hôn trầm: cảm thấy buồn ngủ, mơ mơ màng màng, không còn tỉnh táo, thì lập tức tập trung tinh thần, hai mắt chiếu xuống chót mũi, thở điều hòa, chừng 5 hay 6 lần thì sẽ hết buồn ngủ.
Trạo cử: cảm thấy rối loạn, nóng nảy, tạp niệm xuất hiện liên miên, thì trụ Tâm vào Đơn Điền cho đến khi các chướng ngại đó biến mất. Nếu không dứt thì nên xả tịnh, rồi ngồi tịnh tâm. Năm phút sau thì có thể ngồi tịnh trở lại.
2. Không nên hi vọng, mong đợi sẽ đạt được kết quả gì: Nếu mong đợi, hi vọng mà không có kết quả thì sẽ sanh ra chán nản, thối chí, ngả lòng, nghi ngờ Chánh Pháp Tu Tịnh. Cũng không nên vui mừng quá độ khi thấy mình có tiến bộ chút ít. Cả hai trạng thái nầy đều là chướng ngại rất lớn cho sự tu tịnh.
Cần phải tỉnh giác và áp dụng phương pháp chữa trị ngay khi chúng vừa xuất hiện, và khi nhận biết chúng thì ngơ chúng đi, tự nhiên chúng biến mất.
IV. Xả Tịnh
Trước khi xả tịnh, tưởng thầm:
Hiệp thần kết tụ toàn thể điển quang,
Phóng trọn không gian toả ra khắp chốn.
Hồi hướng vô lượng chúng sanh[11].
Rồi mở miệng hà hơi. Tư tưởng theo trăm mạch tùy ý mà tản mác, rồi sau nhẹ nhẹ nhích động thân thể.
Kế đó, đọc bài Hồi Hướng Công Đức (đính kèm). Đọc xong, niệm “Nam Mô Bác Nhã Chư Thiên”.
Tiếp theo, Thực hành xoa bóp toàn thân:
Chà nóng hai bàn tay áp vào mắt trước khi mở mắt ra, kế là dùng 2 bàn tay vuốt mặt từ dưới lên trên, rồi từ trước ra sau. Xoa nóng 2 lổ tai, sau ót; dùng tay này bóp nhẹ tay kia từ cổ, vai …đến bàn tay, ngón tay. Bóp nhẹ các đầu ngón tay; đan 2 bàn tay vào nhau rồi từ từ kéo giãn ra; các đầu ngón tay co lại dùng bàn tay này bóp nhẹ các ngón tay kia.
Chà nóng hai bàn tay. Dùng bàn tay mặt đặt trên rún xoa bụng theo chiều kim đồng hồ 36 lần, dùng bàn tay trái xoa ngược lại 24 lần.
Áp 2 bàn tay vào vùng thắt lưng, hai bên cột sống, xoa nhẹ vùng ấy 24 lần.
Xong, xoa bóp 2 chân từ trên (từ vùng háng) xuống đến bàn chân. Chà ấm gan bàn chân. Xoa bóp các khớp, ngón chân.
Cuối cùng là Nằm xả cân: Để hồi phục sức khỏe, khi về chổ nghỉ, nằm ngửa, buông xả tay chân, thần kinh, mắt nhắm, hơi thở nhẹ, không nghĩ tưởng một việc nào, tập
[1] Bổ túc và hoàn chỉnh từ bài “ Thực hành công phu tu tịnh” của huynh Đại Khai -2009
[2] Việc thắp nhang & dâng hương thực hiện tại nhà.
[3] Nguyễn Minh Thiện, Dự Bị Huyền Công, Trường Lư Từ Giác Trách thiền sư nói về phép tọa thiền tr 21
[4] Đông Phương Chưởng Quản dạy ngài Ngô Minh Chiêu
[5] Nguyễn Minh Thiện, Dự Bị Huyền Công, Trường Lư Từ Giác Trách thiền sư nói về phép tọa thiền tr 22
[6] QABT TN ngày 22/1/1983
[7] Chỉ Quán Tọa Thiền tr.37
[8] Chỉ Quán Tọa Thiền, tr.38
[9] Trích và tóm lược Chỉ Quán Tọa thiền, Ch.V. Điều Tâm, trang 40-44
[10] Đạo Học Chỉ Nam, Chương 3 tr.42
[11] BNTS TN 21/6/1976
Rút gọn
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |