KHAI THÔNG BÁT MẠCH
Người mới học Đạo, khởi tập ngồi thiền, yêu nhãn thiếu sự vận động, tứ chi trăm mạch bị trược trần bịt nghẹt, khí huyết chẳng thông. Chỗ nào huyết mạch không chẳng suốt, liền nghe tê rần, khó chịu. Bài quyết này chuyên nói về huyết dịch lưu thông, làm cho tay chưn rần tê, lập tức tiêu mất. THÔNG KHÍ BÁT MẠCH - Hỏi: đệ tử lúc tham thiền, ống chưn bàn cẳng bị rần tê như trước, xin thầy chỉ dạy cách nào, theo từng giai đoạn, thứ lớp. - Thân người đặng thông khí là nhờ khiếu Sanh tử, tức là tổng căn của tám mạch, trên thông với Nê huờn, dưới thông với Dũng tuyền. Chơn khí tụ tán đều do khíêu đó di chuyển, huyết mạch châu lưu, toàn thân quán thông, hòa khí triều đi lên, dương lần lớn, âm lần tiêu, trong nước lửa phát, trong tuyết huê nở. Thiệu Khương Tiết nói: Thiên căn nguyệt khốt nhàn lai vảng, Tam thập lục cung đô thị xuân. Đó là căn bổn sanh khí. Bá tánh dùng nó hằng ngày, mà không biết nó là trò vào đây mà nói. Con trai mất đứt ống mạch này thì lập tức trong yết hầu hiện cảnh không còn khí. Tiếng nói đối với nử tử không có chi khác nhau. Trong tâm mà không tự lập được, thì làm việc không chuẩn tắc, qui củ giống như nội hoạn đời Thanh. Đó là chổ tráng đởm con người (bổ đởm cho mạnh), phát uy anh hùng, chớ không phải nói về thể dược thôi mà đâu. Cái đởm con người mà mạnh, thì người có tinh thần thượng vỏ, tư tưởng đích xác, khí sắc tươi đẹp, dung nhan hoá trẻ, thân thể càng ngày càng cường tráng, chẳng có một cái chi không do nơi chổ này mà phát tiết. Khí huyết lưu thông, trăm bệnh mới do đâu mà sanh được, đó là sanh địa (nguồn gốc) thông khí cho cả thân thể. Cho nên mỗi ngày thức dậy, sáng sớm, thì nên trước khơi suốt tám mạch bằng khí (dường như bế khí ở miệng mũi) tâm ý trước hết khởi vận tại khiếu Sanh Tử. Sớm mai thức dậy, trước khi vận khí thông tám mạch ( bế hơi thở miệng mũi), tâm ý khởi vận từ khiếu Sanh tử. 1. Hấp, bắt đầu từ khiếu Sanh Tử ra sau mạch Đốc, mà lên đảnh đầu, tiếp liền với mạch Nhâm (tại cung Nê Huờn). 2. Hô, từ đầu mạch Nhâm ( Nê Huờn) đi xuống khiếu Sanh Tử. 3. Hấp từ khiếu Sanh Tử lên tới mạch Đái, tẻ ra hai bên tả hửu tới sau Yêu Nhản, song song lên tới hai chổ nhọn hai chả vai mà đình trụ. 4. Hô, từ hai chổ nhọn chả vai, song song chạy dài theo hai cánh tay, phía ngoài cùi chỏ, gọi là mạch Dương Duy, tới ngón tay giửa, vào hai lòng bàn tay thì đình trụ. 5. Hấp, từ hai lòng bàn tay, gọi là mạch Âm du, song song trở về phía trước ngực ( chỗ đối với hai chả vai phía sau) thì đình trụ. 6. Hô, từ phía trước ngực, hai bên song song đi xuống tới mạch Đái, hiệp làm một mối, mà trở về Sanh Tử khiếu. 7. Hấp, từ Sanh Tử khiếu đi lên tới phía dưới tâm thì đình trụ , gọi là mạch Xung, chớ lên quá tâm. 8. Hô, từ dưới tâm đi xuống khiếu Sanh tử, chạy song song hai bên bắp vế phía ngoài, gọi là mạch Dương Kiều, tới huyệt Dũng tuyền thì đình trụ. 9. Hấp, từ huyệt Dũng tuyền trở về hai bên bắp chuối, phiá trong bắp vế, gọi là mạch Âm Kiều, song song đi lên, tới Chơn Khí Huyệt 10. Hô, từ Chơn Khí Huyệt đi xuống tới khiếu Sanh tử thì đình trụ. Đó là 8 bộ mạch, phải lấy khí mà khơi suốt nó, mới là xua đuổi hết các khí âm tà trong bá khiếu của châu thân. Nếu âm khí không trừ được, đó là chướng ngại cho công phu kiết đơn Các pháp quyết trên, cứ mổi ngày hành trì theo đó, thì quả nhiên sẻ có cảm giác được khí nhít động trong các mạch, đó là cái tiên triệu của sự thông sướng. Nếu không khơi suốt 8 mạch này, thì không đuổi được tà khí, mà không đuổi được tà khí, thì không thể nào thể (thái) dược. Dầu có thể, cũng không hi vọng kiết đơn. Độc giả xem qua, chớ nên khinh thường nhé! - Hỏi : Thầy dạy tẩu khí trong 8 mạch, đệ tử trong lúc ngồi thiền, luôn luôn bị ống chưn bàn cẳng tê rần, nên không ngồi thêm được lâu. Vậy muốn giải trừ rần tê, xin thầy truyền cho biết phải theo phương pháp nào? - Đáp : lúc mới tập ngồi thiền, chưn cẳng rần tê là bị ngồi chưa quen. Khi ngồi thiền, mổi lần muốn kéo dài, thì bị tê đau khó chịu. đó là trong ngoài chưn cẳng, mấy ống mạch máu, bị áp lực đè lên nên bế tắc, khí huyết bị trở trệ, không chảy thông suốt được, nên sanh ra rần tên. Lúc này nên bế hơi thở miệng mủi; dũi cẳng ra, dựng đứng hai bàn chưn lên, gót chấm hẳn phía dưới đất, rồi hấp khí, tâm ý từ Dũng tuyền song song leo lên mạch Âm Kiều, cho tới Khí Huyệt. Lại hô khí, tâm ý do Khí Huyệt song song chạy từ mạch Dương Kiều cho tới Dũng Tuyền thì dừng lại Tập như vậy vài lần, rần tê tự nó dứt. Đừng để ai lạ dòm thấy việc mình tập mới là đặng kết quả tốt. …………………………. Người học khẩu quyết rồi , mới biết bài quyết khơi suốt 8 mạch , làm cho thân thể khí huyết tuần huờn châu lưu, giải trừ bao thống khổ……. Cái linh tánh của con người toàn ở tại não: · Tiểu não chủ về vận động mau lẹ, · Đại não chủ về tinh thần ghi nhớ · Trung não chủ về tánh mạng chơn khí diên tủy, hình như hai cây cột đứng song lập, mà dính ở khoảng giữa. Gân ở trong não, chia ra hai bên tả hữu mà chạy khắp châu thân. Cho nên tay, chơn, thân thể có rần tê, thì mau dùng tâm ý khơi suốt nó. Hễ khí huyết thông suốt rồi, thì hết còn tê rần nữa. Luyện Tiểu ngọc dịch: a) Khi miệng có nhiều tân dịch, hãy nuốt nó xuống và dùng ý mà dẫn nó qua Trùng lầu, tới Giáng cung, Trung huỳnh, Khí huyệt, Sanh tử khiếu. b) Bắt từ Sanh tử khiếu mà chia ra hai nẻo, rồi xuống bắp đùi tả, hữu (phía ngoài chơn), qua khỏi đầu gối, tới mắt cá ngoài, tột đầu ngón chơn cái. c) Chuyển nhập vào Dũng tuyền, mà lên mắt cá trong, theo sau bắp chuối, qua nhượng, tới bắp vế (phía trong háng) mà hiệp tại Vỉ lư. d) Bắt từ Vĩ lư mà lên Giáp tích, chia ra hai vai (phía lưng), theo hai cánh tay, qua khỏi cùi chỏ, chạy trên lưng bàn tay tới đầu ngón tay giữa.[1] e.- Chuyển nhập vào thủ tâm, dài theo cánh tay (phía trong), tới hai vai (phía ngực), lên sau gò má, mà thẳng lên đỉnh đầu. f.- Rồi trở lại Minh đường, xuống ổ gà, lấy lưỡi mà nghinh nó (tân dịch) tới Huyền ưng, vào miệng là giáp một vòng[2]. Nghỉ một chút, rồi dẫn hoặc 3 lần, hoặc 5 lần, như nói trước. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU DƯỠNG CHƠN KHÍ QUAN ÂM BỒ TÁT giáng đàn tiền, Chỉ dạy nữ đồ gắng chí chuyên. Học đạo từ bi lòng vắng lặng, Cho nên quyền pháp mới nên hiền. Con người sở dĩ bịnh tật phát sinh, tuổi còn thơ mà sức yếu như người già, nên xét đó do nơi tham cầu quá sức. Bịnh hoạn sở dĩ có là do bảy tình : mừng, vui, lo, sợ ..... nên chánh khí tiêu mòn. Cần được nhiếp sinh mới đủ sức làm tròn sứ mạng và hành thiền mới không trở ngại. Nước chảy thì sông rạch lưu hành, cửa thường mở thì then chốt được thông ích. Vậy hôm nay Bần Đạo ban cho hiền đồ vận dụng phương pháp điều dưỡng chơn khí, bảo sinh thân mạng : 1.- Thường ngày vận dụng phương pháp điều nhiếp Tinh-Khí-Thần : lấy lưỡi quấy đầu trên dưới nướu răng cho ra nước miếng. Khi đầy miệng thì súc súc cho được 7 tới 9 lần, thấy ngọt ngọt thì chia làm 3 lần nuốt ực có tiếng kêu, dụng ý đưa tới rún, rồi định thần nhíu hậu môn đưa luồng khí từ dưới hậu môn ấy ngược lên hội với luồng khí trên tại rún. Ngưng một tí, rồi vận thần đưa thẳng lên Nê huờn. Nhớ nuốt 3 lần có tiếng kêu, hít một hơi thở, đè nó xuống tới rún, rồi nhíu hậu môn, đưa khí dưới lên cùng hội tại rún, rồi nghỉ một tí, sẽ vận lên sau não, nhập vào Nê Huờn. Làm vậy nhiều lần : tối thiểu một thời sáng, tối : 7, 14, 21 lần. Làm vậy thì quyết bịnh tật nào cũng tiêu, sức khỏe còn tăng gia gấp bội. 2.- Thường ngày nên đánh hai hàm răng cho kêu có tiếng, chừng 32 đến 50 lần. 3.-Thường xoa xát bụng trên, bụng dưới cho ấm. Lấy 2 tay xoa nóng rồi đặt tay mặt lên phía trên rún, quay tới chiều thuận 36 vòng; rồi kế lấy tay trái, cũng đặt lên phía trên rún, xoa ngược lại 24 vòng. Nếu có thể, làm nhiều lần để cho ôn dưỡng chơn nguyên. Rồi sau đó, cũng tiếp xoa 2 tay cho nóng, vuốt sau lưng xương cùn Vĩ Lư, đưa lên ngang rún phía trước. Làm 36 lần, càng nhiều càng tốt. 4.- Ngoài bao nhiêu đó, thì giờ rỗi, sau thiền hay tịnh định, nên vận dụng phương án ma : Lấy hai tay bóp các đầu ngón chân, lóng ngón, kẻ ngón, bàn chân, cổ chân, khuỷu chân, đầu gối; đến các ngón tay, bàn tay, cổ tay, khuỷu tay, cùi chỏ, các lắc léo. Chỗ nào cũng ấn, bóp, xoa, chà, cho các cơ tiết, kinh lạc, huyết khí của tạng phủ lưu thông. Làm mãi, làm nhiều, cho khỏe mạnh, cho hết bịnh, rồi ngày hôm sau sẽ thấy trong người đổi khác, tinh thần, thể phách thơ sướng, an vui. 5.- Về hấp khí chơn nguyên, ngồi thế liên hoa, hai tay nắm chặt, cúi mình xuống sâu gần cụng đất, thở ra, tưởng tượng ác khí, bịnh tật, xấu xí chi chi trong người đều theo hơi thở đi ra sạch; rồi tiếp đó ngước lên, hít vào một hơi đến rún, tưởng tượng thâu nhiếp khí thanh tịnh của Trời Đất bao la vào bồi dưỡng cho thân mình. Cứ vậy mà làm, gọi là “Thổ cố nạp tân”. Bần Đạo chào chư thiên ân ./. [1] Bắt từ Vĩ Lư lên Giáp Tích lên đến vai ( phía lưng) rồi xuống theo 2 cánh tay (phía ngoài) qua khỏi cùi chỏ chạy trên lưng bàn tay tới đầu ngón giữa ( Ông Tổng Lý Tường Định giải thích lại cho dễ hiểu) [2] Rồi xuống trở lại Minh Đường đến Ổ gà tới Huyền Ưng, vào miệng lấy lưỡi mà nghinh tân dịch là giáp một vòng( Ông Tổng Lý Tường Định giải thích lại cho dễ hiểu) |
HÌNH ĐỒ THỰC HÀNH
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |