THÁNH SỞ TAM TÔNG MIẾU

Theo dòng thời gian lịch sử hình thành Minh Lý Đạo, thì trong thời kỳ thứ nhứt (1924-1940) có Thần Tiên dùng Huyền Cơ mà gieo tín ngưỡng, sau mới dùng Thần cơ mà tổ chức các việc hữu hình của một tôn giáo cho đạo Minh Lý. Trước cho kinh sách Việt Ngữ tụng đọc, mà Minh Lý Đạo đã có ấn tống như Kinh Bố Cáo, Kinh Sấm Hối, Kinh Tịnh Nghiệp Vãn, Kinh Nhựt Tụng, Kinh Giác Thế , để dùng trong các các cuộc lễ, như Cầu An, Cầu Siêu, v.v . . ., hoặc dạy thuyết pháp giảng kinh để tiếp xúc với đại chúng. Kế dạy cất chùa, thứ tự chức sắc, . . .
Về mặt đạo, chỉ dạy tượng trưng hai quẻ Phục và Tùy làm căn bản cho đạo Minh Lý.
Thời kỳ nầy có thể gọi là thời kỳ tổ chức hữu hình.
Trong thời kỳ này, đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN lại dạy phải lập một cảnh chùa và còn cho hai đôi liễn như sau đây:
- MINH chánh giáo, Đạo truyền thiện hạnh,
LÝ trực đàm, đức hóa cường ngôn.
LÝ hiểu đạt thâm uyên.
Đây là đôi liễn để đặt tên cho các vị khai sáng viên. Hai chữ ở mỗi đầu câu : “Minh Lý” là đạo hiệu của đấng Giáo Chủ vô hình lúc ban sơ khai đạo. Đó cũng là hiệu của Đạo chúng tôi.
Còn 12 chữ sau là những tên ban cho các vị khai sáng mối Đạo Minh Lý, mỗi người đều lấy chữ Minh làm họ. Ví dụ như : Minh Chánh, Minh Giáo, Minh Đạo, Minh Truyền v.v…
Còn đôi liễn sau nầy là đôi liễn để làm họ:
Minh khai tường đại đạo,
Lý hiểu đạt thâm uyên.
Đôi liễn nầy có 10 chữ, mỗi chữ là một họ. Trước hết là họ Minh, kế họ Khai, kế họ Tường, kế họ Đại v.v…
Các vị khai sáng hiệp chung lại (vì Đạo Minh Lý không có thầy và trò riêng) mà đặt một đôi liễn, để làm tên cho những người kế tiếp họ Minh, tức là họ Khai, như đôi liễn: Các Đấng Thiêng Liêng ban Thánh danh cho họ Khai theo hai câu liễn sau:
Sắc Minh Diệu Sắc, Tâm Trừng Tịch,
Không Ngộ Chơn Không, Tánh Tịnh Tinh.
thì thành những pháp danh: Khai Minh, Khai Diệu, Khai Sắc, Khai Tâm … (chừa hai chữ Sắc, Không ở mỗi đầu câu). Cứ đặt pháp danh như vậy cho đến chữ chót đôi liễn làm họ “Uyên” nói trên, thì cầu Thần Tiên cho đôi liễn khác làm họ cho lớp sau.
Môn sanh mới vào Đạo thọ pháp danh do các vị Chủ trì đặt. Khi được tấn phong vào Tịch đạo thì được thọ Thánh danh.
Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN lại cho một bài thơ:
NHỨT niệm tu hành, vạn sự khinh,
TÂM chuyên từ thiện, chí năng MINH.
THÀNH tư tôn giáo, cầu chơn LÝ,
KỈNH tụng thường xuyên, luyện tánh tình.
Nghĩa nôm :
Một niệm tu hành, muôn việc khinh,
Lòng chuyên từ thiện, chí quang Minh.
Thành tin tông giao, tìm chơn Lý,
Kĩnh tụng hằng ngày, sửa tánh tình.
Ngài có dạy lấy hai chữ MINH LÝ mà làm đạo hiệu nên từ đó về sau, cứ gọi là MINH LÝ ĐẠO”.
Chúng tôi lấy bốn chữ “NHỨT TÂM THÀNH KỈNH” mà làm sắc lịnh, nên Ngài mới cho thêm hai câu liễn để hai bên như sau:
KỈNH GIÁO NĂNG TU ĐỨC
THÀNH TÂM ĐẠO KHẢ HÀNH
- Khởi đầu xây dựng:
Chúng tôi cúng Sấm Hối tại Linh Sơn Tự hơn 18 tháng, bước qua đầu năm Đinh Mão (2-2-1927) mới về Chùa Mới.
Bởi chúng tôi thờ Tam Giáo Đạo Chủ, nên Ngày 3/1/1926, Đức DIÊU TRÌ KIM MẪU ban cho chữ hiệu của chùa là “TAM TÔNG MIẾU”.
Đức Đấu Chiến Thắng Phật cũng cho cho một đôi liễn Chùa như sau:
TAM GIÁO HIỂN LINH, ÂN QUANG PHỔ CHIẾU, THÔNG TỨ HẢI,
PHIẾN TÂM THANH TỊNH, NHO THÍCH ĐẠO TÔNG, BỔ ĐỒNG NGUYÊN.
Người một đạo càng ngày càng đông, nên chúng tôi có xin phép chính quyền lập ra một cái hội, gọi là “Hội TAM TÔNG MIẾU”, đặng tiện bề tụ tập mà cúng kiến và giúp đỡ nhau để lo việc tu hành.
Kể từ ngày 22-12-1924, là ngày tiếp đặng bài “Tặng Thiên Đế” cho đế nay. Thì chúng tôi tiếp thêm nhiều bài kinh khác nữa, là những kinh tụng, các bài khuyên đời, và những bài giải đạo đức.
Bổn-phận của nền giáo lý mới ra đời, không lập một pháp gì khác hơn là kết tinh giáo lý, học thuyết đông tây kim cổ làm một chương trình để tự tu, tự độ, mà độ dần loài người.Cái tinh ba thuần nhứt đó được qui tựu, trở thành một tổ-chức dung-hòa, đó là MINH LÝ ĐẠO – TAM TÔNG MIẾU.
Tam 三 là: Tam thể đồng nhứt, Tam giáo đồng nguyên,Tam tài nhứt thể,…
Tông 宗 là thừa kế, tiếp sau (Tổ là trước, Tông là kế Tổ) để hoàn thành sứ-mạng cho công cụôc Thiên-lý kết chung (Tông đây cũng có nghĩa là qui gia nhận tổ).
Miếu 廟là tòa ngự của Thượng-đế và Tam–giáo tại thế-gian, để truyền đạo lập pháp, cũng gọi là Thiên-triều, tòa ngự nầy là Bạch-ngọc kinh tại thế.
Đức ĐẠT MA SƯ TỔ giáng cơ tại Chùa Tam Tông Miếu, do đồng tử trung Hoa :
TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN, TẾ TẾ NHỨT ĐƯỜNG,
THÀNH THÔNG TIÊU HÁN,
TÔNG ĐÀN VỤ BỔN, BÀNG BÀNG ĐẠI ĐỊA, THIỆN BIẾN VIỆT NAM.
Nghĩa là :
Tam Giáo đồng một nguồn, rộn rịp một chùa, tâm thành thấu đến Tiêu Hán (cửa tiêu, hay là chín từng trời),
Tông đàn đồng một gốc, lan tràn mặt đất, đức thiện trải khắp Việt Nam.
Đôi liễn nầy khắc bằng chữ Thiên gia, y như bút tích của Đức Đạt Ma truyền lại, để làm vật kỷ niệm Tổ Sư giáng lâm tại Chùa.
Các đôi liễn khác do Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN giáng bút để nơi mặt tiền Chùa :
Tại chính giữa:
THỐNG TAM GIÁO DĨ SÙNG, TÂN TỰ TRÚC THÀNH, HƯNG CHÁNH PHÁP,
HIỆP VẠN NHƠN NHI GIẢNG LUẬN, CỰU KINH ĐÀM BÃI, DỤC LINH CĂN.
Nghĩa là :
Gồm ba giáo để kính thờ, Chùa mới cất xong, toan chấn hưng Chánh Pháp,
Hiệp muôn người cùng giản luận, kinh xưa giải dứt, dốc hàm dưỡng Linh Căn.
Bên Nam giới :
THÍCH, ĐẠO, NHO, KHUYẾN THIỆN TRỪNG GIAN, TAM GIÁO NGUYÊN ĐỒNG NHỨT LÝ,
NÔNG, CÔNG, CỔ, QUI CHƠN CHÁNH NGHIỆP, VẠN GIA TỀ TRÍ THIÊN ĐƯỜNG.
Nghĩa là :
Thích giáo, Đạo gia, Nho giáo, khuyên làm lành, phạt việc dữ, ba giáo vốn đồng một Chánh Lý,
Canh nông, kỷ nghệ, thương mãi. Theo chơn thiệt, chánh nghề mình, muôn nhà đểu gặp lắm điều may.
Bên Nữ giới:
TẰNG VÂN : BẠCH TẨU, HUỲNH ĐỒNG, TỀ TỤNG THIÊN BAN KINH CÚ DIỆU,
DUY NGUYỆN : DÂN THÊ QUAN PHỤ, VẬT VONG TAM GIÁO LỄ NGHI TÔN
Nghĩa là :
Từng nghe : Ông tóc bạc, kẻ đầu xanh, đều có đọc nhiều pho kinh huyền diệu,
Chỉ nguyện : Cô vợ dân, bà quan chức, chớ quên gìn Tam Giáo lễ tôn nghiêm.
Đoạn trên nầy vừa giải nghĩa hiệu đạo và chỉ bày sơ mục đích và tông chỉ của Đạo Minh Lý.
2. Hình thức xây dựng Chùa :
a. Theo Thuyết Tam Ngũ Nhứt
Chùa Tam Tông Miếu dựa theo Thuyết Tam Ngũ Nhứt mà xây dựng. Ba chữ Tam Ngũ Nhứt là Tam Gia: Tinh Khí Thần tương kiến. Ba nhà gặp nhau hiệp thành Thái Cực. Tam Ngũ Nhứt là phép trở về với Đạo, từ số 5 trở lại số 3, từ số 3 trở lại số 1, 1 là Thái Cực. Phép nầy gọi là Phản Bổn Hoàn Nguyên. Lấy số Tam Ngũ Nhứt xây cất Chùa Tam Tông Miếu là để tiếp độ chúng sanh, từ ngoài vào trong.
Cất Chùa theo thuyết Tam Ngũ Nhứt như sau:
Nóc Chùa : chia ra làm ba phần, từ ngoài đi vô trong:
- Phần thứ nhứt: chỗ thờ Môn Quan Thổ Địa, hay là Lầu Chuông (Chung Lầu) có 5 nóc.
- Phần thứ nhì: là Lễ Bái đường, tức là chỗ bổn đạo tề tựu mà làm lễ Trời Phật, có 3 nóc.
- Phần thứ ba: là Bửu điện, tức là chỗ thờ Thượng đế và Phật, Tiên Thánh, có 1 nóc tròn mà thôi.
Tam Tông Miếu kiến trúc theo một hình thức Đạo pháp gồm đủ ba đài, lấy số Nhứt, Tam, Ngũ, để tượng trưng sự sanh hóa của Trời Đất.
Châu Thiên Đài : tượng thể Đạo pháp. Ngôi nầy là chỗ Thiên triều, mà Thượng Đế và các đấng Thiên Tiên làm tòa ngự lập pháp. Tòa ngự đó là phần hồn của Đạo, là nơi các cấp tín đồ trong Đạo làm xong bổn phận, nghĩa là khi liễu đạo, sẽ được vào hội họp nơi đó. Đó là Bạch Ngọc Kinh, hay cảnh “Tối Thượng Niết Bàn”.
Tam Cực Linh Đài : là cơ sở hành pháp gồm các đẳng lương sanh giữ đạo và hành đạo. Đài nầy lấy Hoàng Cực làm phương châm qui Nhứt, làm phương pháp tu học, làm cơ sở truyển Đạo và sự liên lạc cùng Trời và các Thần Thánh Tiên Phật, ở thế giới nầy và các thế giới bên kia.
Hoàng Cực lập lại hế đạo, để “chuyển thế thành Đạo”, là một trung tâm hành pháp, giáo hóa chúng sanh, nối liền giữa Thiên Nhơn làm Một.
Ngũ Hành Đài: trên có một vọng đài, biểu thị một cái chuông, để đánh vọng lên, mà thúc giục quần mê, thức tỉnh bốn phương còn đương trong giấc mộng. rước một cây pháp tràng (cột phướn), để tượng trưng tiếp độ phần hồn, đưa về Thiên Quốc. Ngũ Hành Đài là mấu chốt của vạn sự vạn vật”
Đó cũng là ám chỉ chỗ cương yếu lam người. Một là hợp Tam qui Nhứt gọi là qui Tam Giáo, gọi là hợp Ngũ Chi, đồng nhứt làm một, tức la bản thể của Trời Đất vạn vật. Bản thể đó là hồn, là phần vô vi, nên sự sắp đặt của ngôi thờ trên thuộc phần Pháp Thân.