CÁC NGÀY LỄ CHÁNH TẠI MINH LÝ ĐẠO (Theo Âm lịch)
Mỗi tháng vào tối 14 và 30 (tháng thiếu là 29), có thiết lễ cúng Cầu an cầu phước cho bá tánh.
Các lễ chính khác trong năm được cúng theo lịch trình sau:
* Cập Tưởng niệm Đức Quảng Đức Chơn Tiên tối 14 tháng 10.
Các lễ chính khác trong năm được cúng theo lịch trình sau:
- Vía Ngọc Hoàng Thượng Đế và giải hạn nhương tinh: tối mùng 8 tháng giêng.
- Rằm Thượng nguơn - Thiên Quan Tứ Phước: tối 14 và trưa 15 tháng giêng.
- Vía Đức Thái Thượng Lão Quân: tối 14 tháng 2.
- Vía Đức Thích Ca Phật Tổ: tối 14 tháng 4.
- Lễ tưởng niệm Đức Vạn hạnh Thiền Sư . . . chiều 15 tháng 5.
- Vía Đức Hồng Quân Lão Tổ: tối mùng 6 tháng 7.
- Rằm Trung Nguơn - Địa Quan Xá Tội: tối 14 và trưa 15 tháng 7.
- Vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu: tối 17 tháng 7
- Lễ tưởng niệm Đức Hà Tiên Cô . . . chiều mùng 8 tháng 8.
- Lễ tưởng niệm Đức Hưng Đạo Đại Vương . . . chiều 20 tháng 8.
- Vía Đức Văn Tuyên Khổng Thánh: tối 26 tháng 8.
- Rằm Hạ nguơn - Thủy Quan Giải Ách: tối 14 và trưa 15 tháng 10.
- Vía Đức A Di Đà Phật và lễ tưởng niệm Đức Bác Nhã Thiền Sư qui vị: tối 16 tháng 11.
- Lễ kỷ niệm Minh Lý Đạo Khai: tối 26 tháng 11.
- Tư Mạng Táo Quân triều thiên và đưa thần: tối 23 tháng chạp.
- Lễ rước ông bà (ở Hậu đường): chiều 29 hay 30 tháng 12.
- Lễ rước Tư Mạng Táo Quân và chư Thần hồi vị: chiều 29 hay 30 tháng 12.
- Lễ cúng giao thừa, tế Trời và Cầu an: tối 29 hay 30 tháng 12.
* Cập Tưởng niệm Đức Quảng Đức Chơn Tiên tối 14 tháng 10.
CÁCH THỜ PHƯỢNG Trong Chùa, nơi Chánh điện có 7 bàn thờ. Đứng phía ngoài ngó vô, ngay chính giữa là nơi thờ Đức Thượng Đế (THIÊN), còn được gọi là Bạch Ngọc Kinh. Phía trên có xây 5 cấp bằng đá cẩm thạch trắng để thờ các bài vị như sau, tính từ trên xuống dưới: - Cấp thứ nhứt: Diêu Trì Kim Mẫu (1 bài vị) - Cấp thứ nhì: Hồng Quân Lão Tổ (2 bài vị) Ngọc Hoàng Thượng Đế Ba Đấng đại diện của 3 ngôi Thượng Đế Văn Tuyên Khổng Thánh - Cấp thứ ba: Thích Ca Phật Tổ (3 bài vị) Thái Thượng Lão Quân Ba vị Tổ Sư hay 3 ngôi Giáo Chủ của Tam Giáo - Cấp thứ tư: Quan Âm Bồ Tát (4 bài vị) Văn Thù Bồ Tát Phổ Hiền Bồ Tát Địa Tạng Bồ Tát Bốn vị (Tứ đại Bồ tát) - Cấp thứ năm: Nam Đẩu Tinh Quân (5 bài vị) Đông Đẩu Tinh Quân Tây Đẩu Tinh Quân Bắc Đẩu Tinh Quân Trung Đẩu Tinh Quân Năm vị (Ngũ ĐẩuTinh quân) Thêm 2 bài vị để ngoài bìa là: Lôi Âm Chư Phật Bồng Đảo Chơn Tiên. Cộng tất cả là 17 vị, ráp thành một cái hình tam giác, mà ngôi TÂY PHƯƠNG PHẬT TỔ (tức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) ở chính giữa, ngay ngọn đèn lưu ly (Vô Cực đăng) để trong cái khung hình tam giác treo tại Bửu Điện, tiêu biểu cho TRUNG ĐẠO. Ở giữa ngay trước bài vị “Trung Đẩu Tinh Quân” có thùng đựng sắc lịnh của Đức Diêu Trì Kim Mẫu và 3 bài vị: - Bài vị lớn ở giữa: NHỨT TÂM THÀNH KỈNH - Bài vị nhỏ bên trái: KỈNH GIÁO NĂNG TU ĐỨC - Bài vị nhỏ bên phải: THÀNH TÂM ĐẠO KHẢ HÀNH. Lưu ý: Ngọn đèn lưu ly và chữ Phật trong bài vị “Thích Ca Phật Tổ” phải cùng trên một đường thẳng nằm ngang.
Phía dưới là bàn bằng gỗ cẩm lai, trên mặt có trải tấm nắp bàn lớn phủ trùm 4 phía. Nắp bàn làm bằng 2 màu vải, trong màu đỏ, vòng bìa ngoài màu vàng. Bàn gỗ cẩm lai có ba cấp để sắp xếp lư trầm, lư hương, đèn và các lễ phẩm theo thứ tự như sau: - Bên phải Chánh điện là bàn thờ ĐỊA MẪU TỪ TÔN (ĐỊA). - Bên trái Chánh điện là bàn thờ LỊCH ĐẠI TỔ TIÊN (NHƠN): Thiên đồ, các chức sắc khai Đạo. Đó là TAM TÀI: THIÊN, ĐỊA, NHƠN. - Bên hông phải là bàn thờ THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG. - Bên hông trái là bàn thờ THANH PHƯỚC CHÁNH THẦN. Tại cửa Chánh điện và đối diện với Bửu điện có 2 bàn thờ: - Phía trong là bàn thờ LONG THẦN HỘ PHÁP. - Phía ngoài là bàn thờ MÔN QUAN THỔ ĐỊA. Ngoài ra, tại hậu đường, ở hai bên Tề Vật Đàn còn có hai bàn thờ: - Bên phải là bàn thờ các môn sanh Minh Lý nam nữ đã quá vãng mà chưa được sắc phong. - Bên trái là bàn thờ ông bà, cha mẹ thân nhân môn sanh Minh Lý. MLĐ |
Ý NGHĨA HỒNG DANH CÁC BÀI VỊ ĐỨC DIÊU TRÌ KIM MẪU ĐỨC HỒNG QUÂN LÃO TỔ ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Đức Hồng Quân Lão Tổ và Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là ba ngôi vị cực cao được thờ tại chánh điện Tam Tông Miếu. Ba ngôi này được gọi là Tam Cực hay Tam Thể[1] hay Thượng Đế ba ngôi[2]. Thượng Đế ba ngôi được biểu hiện qua ngọn đèn lưu ly Vô Cực đăng treo lơ lửng giữa Chánh cung và tại ba bài vị thờ tại cấp 1 và cấp 2 của bàn thờ 5 cấp tại Chánh điện Tam Tông Miếu là Diêu Trì Kim Mẫu, Hồng Quân Lão Tổ và Ngọc Hoàng Thượng Đế. 1. Đức Diêu Trì Kim Mẫu 瑤池金母 thay mặt ngôi Vô Cực hiệu là Vô Cực Từ Tôn hay Vô Cực Thiên Tôn. Vô là không, Cực là chỗ cao nhất, lớn nhất, tột cùng Vô cực nghĩa là không có chỗ tột cùng, không chỗ kết thúc, hết sức trống không; chỉ thời kỳ trước chưa có trời đất, muôn vật. Minh Lý Học Thuyết viết “Tuy nói trống không, là vì con mắt phàm chẳng thấy Nhưng trời đất, muôn vật đều sẵn tiềm phục bên trong, chỉ đợi đến thời kỳ, thì phát hiện thiên hình vạn trạng. Vô cực là bổn thể của người vật, là cột của Vũ trụ. …Vô cực vốn là ngôi tịnh tuyệt đối, nghĩa là: một thứ tịnh không bao giờ thay đổi, dầu vào cõi nào, dầu ở lúc nào, tánh thể vẫn giữ trong sạch, yên lặng, làm cốt cho mọi sự, mọi vật,nên bất biến, thường trụ” Từ là nhân từ, từ bi, có lòng thương xót, độ dẫn tất cả chúng sanh.Tôn là cao cả, bực rất mực tôn nghiêm hoặc gọi là Thiên Tôn, nghĩa là bực cao cả, tôn nghiêm ở trên các từng trời. Diêu hay Dao nghĩa là Ngọc quý; Trì là Ao hay hồ. Kim: vàng, kim loại quý, quý trọng, trân quý (kim khẩu, kim ngôn)[3];( về Đạo giáo Kim là kiền kim[4], theo phương vị Hà đồ, Bát quái Tiên thiên, là Trời ở chánh nam, thuộc về Tiên thiên, làm căn bổn cho người tu hành theo Đại Đạo Kim đơn ; Theo phương vị Lạc thơ, Bát quái Hậu thiên, thuộc về hướng tây). Mẫu là Mẹ, là tiếng gọi tôn các bậc nữ tôn trưởng, là chủ thể hữu hình sinh hóa muôn vật Diêu trì cũng để chỉ một cảnh trí, một cung điện, là một tiên cảnh trên chót đỉnh núi Côn Lôn người thường không đến được (nơi Tây Vương Mẫu ở). Lý do Minh Lý Đạo thờ Diêu Trì Kim Mẫu làm ngôi Một Như vậy có thể nói Đức Diêu Trì Kim Mẫu là Đấng sinh hóa muôn vật, là Mẹ linh hồn, là gốc sanh vạn vật đất trời. Minh Lý Đạo là Tiên Thiên Đại Đạo nên Ngài đứng đầu chủ ngôi Vô Cực Truyền thuyết về Diêu Trì Kim Mẫu Truyền Thuyết gọi ngài là Tây Vương Mẫu[8] hay bà Thiên Hậu, thiết nghĩ đây chỉ là ứng hóa thân của Ngài. Theo Minh Lý Học Thuyêt có hai truyền thuyết như sau : ● Tây Vương Mẫu coi về các dịch bệnh ở phía tây, và làm chủ các ôn thần về dịch khí. Người nào muốn đặng hộ vệ, thì phải dán trước cửa mình lá phù của Tây Vương Mẫu. ● Tây Vương Mẫu cũng là một vị ban thuốc trường sanh. Ngài trở thành một vị chủ tể vườn đào, ở cõi trên trời, và cai quản các vị Thần Tiên. Vườn của Tây Vương Mẫu ở trên chót núi Côn Lôn. Ngài ở trong lầu các bằng ngọc, có 9 từng huyền thất và chung quanh có vách thành bằng vàng.Trong lầu có đơn phòng Tử Túy), bên trái có ao Diêu Trì, bên mặt có sông Huờn Túy. Dưới chơn có 9 từng nhược thủy (nước yếu), sóng cao muôn trượng, không có tiên xa, vũ luân thì không thể nào đi đến đó được. Những từ: vườn đào, núi Côn lôn, Diêu trì, nhược thủy, huyền thất, ...đều có ý nghĩa trong việc luyện đan. Để hiểu thêm một ít về ngôi cao tột bậc này chúng ta hãy đọc lời tự giới thiệu của Đức Kim Mẫu khi Ngài giáng tại Tam Tông Miếu: “...Mẹ là ai, thì các con không cần biết, vì quá cao tột, lấy trí người mà tìm hiểu sao thấu đáo; lấy sức người mà đo, thì chẳng khác chi lấy ngao lường biển. Nên các con muốn đạt đến chỗ gốc sanh mạch sống đó, cần được giải thoát lần lần, vì trí con bị nhiều bức màn vô minh làm trở ngại, không sao để hiểu biết tận tường. Ngày mà các con tu, phá lần các chướng duyên ngăn ngại, thì các con đã gần với Mẹ rồi. Mẹ là gốc sanh và mạch sống của Đất Trời. Vạn vật có ra và vạn vật được sống, vạn vật tồn tại trong trật tự của thời gian, vạn vật thần thánh hóa để cải tiến cuộc đời và giải thoát bản thân, đó là bắt nguồn do Mẹ. Cây cối xanh tươi, lòng người sáng suốt là Mẹ. Mẹ là gốc sanh, thì Trời Đất Người vật cũng do Mẹ mà ra, nên gọi là Mẹ, mà các con là con thì không cần nói: Mẹ Linh hồn hay Mẹ của xác thịt. Các con ngày mà mở trực giác, để thông đồng cùng Mẹ, là ngày mà Mẹ sẽ trao cho các con một bộ chìa khóa mở các kho tàng bí mật trong người của các con, để các con hầu hạ cùng Mẹ mà làm chủ vũ trụ...”... “…Các con chỉ cần hằng ngày trở về với MẸ, sống cùng MẸ nơi tâm, thì tự khắc con được cải hóa, tự khắc con sẽ chuyễn mê khải ngộ. MẸ là thể Khôn thanh tịnh, thể Khôn ấy là chỗ mà các con những giờ công phu, qui nạp tinh thần, tập trung ý chí, gom trọn các căn để con trở về với MẸ. Người đời gọi chỗ đó là “Khôn phúc” mà pháp môn gọi là “Tỳ lô hải ấn”, con nên để tâm làm việc đó. Những giờ con nghĩ đến là giờ con trở về với MẸ. MẸ là chỗ phát sanh, nhưng các con nên hiểu cái gì bởi đó mà ra thì đó là chơn thật, cái đó là công năng diệu dụng. Nếu không bởi đó mà có, mà ra thì là huyễn hóa, là vô minh, là nghiệp. Nhưng từ khi con đã nhiễm trần cảnh, chướng duyên thì cái chơn thật đó bị ngăn cách, bị đoạn tuyệt, làm cho gốc ngọn chia đôi, trong ngoài mất liên hệ. Tuy có mắt để thấy, nhưng chỉ thấy cái huyễn hóa, tai không thể nghe được thanh âm của tiếng diệu huyền. Nếu các sở dụng của các con thường dùng như: tay, chân, tai, mắt, lưỡi, mũi, miệng, thân, cho chí ý thức tâm tư, nếu các con có vận dụng để xây đắp con người, xây đắp đạo pháp cứu đời giúp chúng, thì phải đem hết bao nhiêu cái sở dụng kia nối lại với cái gốc sinh là nguồn suối hồn nhiên thì mới tác dụng. Bằng không phải sự thấy, nghe, hay, biết, làm lụng đó, không bởi từ cái gốc mà phát ra, thì cái đó toàn là nghiệp chướng gây rối cho mình và cho thiên hạ. Nên các con muốn thấy thì nên tập đừng thấy, muốn nghe thì nên tập đừng nghe, cũng như muốn sống nên tập chết. Cái siêu đọa đều do 6 căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Các con phải quay cái sở dụng thấy, nghe hay biết đó nhập vào “Tỳ lô hải ấn” để nối thông nguồn suối thiêng liêng...” . Theo Ngài Minh Thiện: Người nào hiểu biết cuộc trần thế là giả tạm, xây đổi bất thường, nên chuyên chú vào bổn thể Vô cực, gìn lòng thanh tịnh, mở lòng từ bi, chẳng ham danh lợi, hằng độ chúng sanh, thì sẽ chứng quả, thu về ngôi Vô cực. Xem thêm
2. Hồng Quân Lão Tổ 鴻钧老祖 thay mặt ngôi Hoàng Cực là cũng gọi là: Hoàng cực Lão gia. Hồng 鴻 nghĩa là rộng lớn. Quân钧 là bàn xoay làm đồ gốm, hoặc dùng khuôn đúc. Lão Tổ :ông già, ông Tổ đầu tiên. Vậy Hồng quân Lão Tổ nghĩa là người thợ làm đồ gốm lớn hơn hết, là Thợ Trời (Thượng Đế), sáng tạo ra tất cả muôn loài sinh vật. Hoàng Cực: Chữ Hoàng ở đây có nghĩa là lớn, chữ tôn kính dùng để gọi Trời, vua. Cực là chỗ cao nhất, lớn nhất, tột cùng . Hoàng Cực dùng để chỉ ngôi vua Trời. Tại Tam Tông Miếu tượng trưng cho Hoàng Cực là hình tam giác của đèn Vô cực đăng, tượng trưng Trời, Đất, Người; trong nhiều sách Hoàng Cực còn được tượng trưng như sau: gồm phân nửa âm, và phân nửa dương, đường giữa tượng trưng khí xung hòa. Xung hòa là khí Hạo nhiên do âm dương ngưng kết, bàng bạc, hoảng hốt, huân chưng, mà phát ra. Khí ấy chống vững Trời Đất, sanh dưỡng và trưởng thành cho vạn vật. Minh Lý Học Thuyết giải thích như sau: “Khi Trời sanh ra người vật, luôn luôn có đặt ở trong tâm của mỗi người một điểm linh quang làm tánh, như một điều luật đạo đức, mà ai ai cũng phải tuân theo đó mà cư xử, mới là trọn làm người. Dịch viết: “Nhứt âm nhứt dương chi vị Đạo”, nghĩa là Một âm, một dương hiệp lại, thì gọi là Đạo. Hoàng cực là ngôi âm dương hiệp chung, làm tiêu biểu cho điểm sanh ý trong thân người vật. Hễ điểm này đi xuôi xuống thì sanh nam sanh nữ, còn nó đi nghịch lên, thì thành Phật, thành tiên”. Minh Lý Chơn Giải viết: Hoàng Cực cũng gọi là Nhơn Cực hay là cái phần tinh thần, phần tâm linh cực cao, chẳng phải ở trong vua chúa mà thôi, như người xưa hiểu, mà ở trong tất cả mỗi con người. Nói theo Nho giáo, thông thường, ta có thể gọi Nó là Lương Tâm, là Lương Tri, Lương Năng, là Tánh Lý, là Thiên Lương, là Thiên Chơn, v.v.Đó là hột giống căn bổn để cho người vật nương theo đó mà tu hành, ngõ hầu trở về hiệp một với Trời. Nói một cách khác, mỗi người đều phải thực hiện ngôi Hoàng cực ấy ở trong mình ta, đương bị buộc ràng, nghĩa là: mở dây trói buộc, cho nó đặng giải thoát, là mục đích cứu cánh của Đạo.. Hồng danh Đức Hồng Quân Lão Tổ có xuất hiện trong Khánh Chúc Văn của đạo Minh Sư. Ngài Minh Thiện cũng không tìm thấy các bài viết về ứng hóa thân của Đức Hồng Quân Lão Tổ. Đức Hồng Quân Lão Tổ đã giáng đàn tại tại Tam Tông Miếu ngày 30/12/1930 Bài Xưng Danh của Ngài khi giáng tại HUỜN CUNG ĐÀN Tý Thời Lễ Nguyên Đán Năm Kỷ Dậu (16-02-1969) như sau: HỒNG Mông khí hóa vận triều Thiên, QUÂN chưởng căn cơ hạ điện tiền; LÃO ấu ân ban vi Thượng cổ, TỔ Tông hội ngộ sắc HOÀNG THIÊN. 3. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, thay mặt ngôi Thái Cực, cũng gọi là Thái cực Thánh Hoàng[14]. Ngọc Hoàng nghĩa là Đấng chủ tể trên trời,[15] Thượng Đế: Vua trên trời[16] Thái Cực Thái nghĩa rất lớn. Thái cực là cực thái hay là cực đại. Tượng trưng cho Thái Cực là ngọn đèn trong vòng tròn thay thế cho một chấm ở giữa họa đồ hỏa hậu, tượng trưng ngôi Thái cực. Thái Cực từ Vô Cực mà ra. Thái Cực động sanh dương, tịnh sanh âm, âm dương là hai mặt của Thái Cực: Dương thì phát, âm thì thu. Dương thì tán, âm thì tụ. Theo Kinh Dịch: Dịch có Thái Cực, Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng: Tứ tượng sinh Bát quái v.v nghĩa là Thái Cực sinh âm dương, bốn tượng, tám quẻ…tinh thần, vật chất, vũ trụ, vạn vật. Thiệu khang Tiết (1011 - 1077) cho rằng Thái Cực cũng là Đạo, là Hoàng Cực, là Tâm. Tất cả những danh từ đó đều là nhân tạo, để chỉ định Nguyên Thể vũ trụ. Đức Trần Hưng Đạo giải rõ hơn như sau: Trước khi chưa có Trời Đất, chỉ trong khoảng hồng mông lặng lẽ, có một khí Hư vô. Khí ấy gọi là Vô cực, mà ta quen gọi là Diêu Trì Kim Mẫu. Khí Hư vô mới sanh ra Thái Cực. Thái cực cũng gọi là Trời, là Thượng Đế. Có Trời hay Thượng Đế rồi, mới có vạn hữu chúng sanh. Có vạn hữu chúng sanh mới có Thần Thánh Tiên Phật. Các Thần Thánh Tiên Phật thi thiết hết khả năng bản thể của mình, rồi thì trở lại Hư vô, hiệp nhứt cùng Đạo. Nếu không có khí Hư vô, thì cũng không có Thượng Đế; không có Thượng Đế, thì cũng không có gì hết. Đã không có gì hết, thì làm gì biết được Vô cực, Thái cực, Phật, Thánh, Tiên, Thần. Nên chi Đạo Đức kinh có câu: “Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu”. “Thỉ” là Vô Cực. “Mẫu” là Thái Cực. Thái Cực với Vô Cực không hai mà hai, không một mà một, hai và một là thể và dụng của Đạo. Đạo có sắc, có không, có động, có tịnh. Khi thì hiện gọi Thái Cực. Khi thì ẩn gọi Vô Cực. “Vô Cực nhi Thái Cực” là vậy. Đức Thánh Trần viết[19]: Hư vô, Thái cực cũng đồng ngôi[20] Động tịnh, sắc không, ấy lẽ Trời. Biến hóa nhiệm mầu do một khí, Cơ quan đóng mở có trong người. Về Ứng hóa thân của Ngọc Đế, Ngài Minh Thiện theo kinh Ngọc Hoàng Bổn hạnh, lược dẫn sự tích của đức Ngọc Hoàng Thượng Đế như sau: Xưa kia, có một nước hiệu là Quang nghiêm Diệu lạc. Vua nước Diệu lạc hiệu là Tịnh Đức. Còn Hoàng hậu hiệu là Bửu Nguyệt Quang. Vì không có Thái tử, vua mới truyền lịnh cho các đạo sĩ trong nước làm chay mà cầu con, khắp các chùa chiền. Nửa năm như một ngày các nơi lễ cầu không ngớt hương khói, không chút mỏi lòng. Lòng thành kỉnh ấy cảm động đức Thượng đế. Đức Thái Thượng Lão Quân mới phụng sắc của Thượng đế xuống trần gian. Theo Ngài, Linh Bửu Thiên tôn bồng một linh hồn của Thượng đế chiết ra, ngồi xe ngũ đến nước Quang Nghiêm Diệu lạc, lúc đầu giờ tý. Hào quang trong chơn lông của hài nhi chiếu sáng khắp cả cung điện nhà vua. Bửu Nguyệt Quang hoàng hậu chiêm bao thấy ông tiên bồng một hài nhi, mình có hoàng quang sáng rực. Thời vía Hoàng hậu quì bạch xin Tiên ông cho đứa bé ấy làm con mình, để sau nối ngôi vua mà trị vì thiên hạ. Đức Giáng Sanh Thiên tôn, tức là Thái Thượng Lão quân, nói: “Hoàng hậu muốn xin, thì Ta cho”. Hoàng hậu liền lạy tạ ơn. Khi ấy, Linh Bửu Thiên Tôn bèn giao đứa bé cho bà Hoàng hậu ẳm vào lòng. Rất mừng rỡ, vía Hoàng hậu giựt mình tỉnh giấc, cảm nghe bụng nặng như thọ thai. Bà mới đem tự sự thấy trong lúc chiêm bao, mà thuật lại cho vua nghe. Vua cũng rất mừng rỡ. Đến kỳ sanh ra, thái tử hình dung tốt đẹp lạ thường, ai thấy cũng mến thương cả. Khi lớn lên, thái tử lại có lòng từ nhơn, ưa việc bố thí. Khi vua băng hà, thái tử nối ngôi vua, nhân đức bủa khắp, không ra oai mà nước trị, người người đều ca hát xưng tụng công đức của vị tân quân. Đến sau, vua nhường ngôi cho một vị đại thần đạo đức, mà vào tu trong núi Phổ Minh Hương nghiêm thành. Ngài tu nhiều đời, nhiều kiếp như vậy: Có khi làm vua, có khi làm thầy thuốc cứu bịnh, có khi làm việc bố thí, thi ân rộng khắp, không biết đâu mà kể cho xiết, mới chứng bực Kim tiên, xưng hiệu là Thanh Tịnh Tự nhiên Giác vương Như Lai. Tiếp theo đó, Ngài còn tu không biết là mấy ức kiếp nữa, kiếp nào cũng lo truyền giáo độ nhơn, mới thành Ngọc Hoàng, thay mặt cho Thượng Đế Tạo hóa, mà trị vì một cõi Tam Thiên đại thiên thế giới. Ngọc Hoàng Thượng Đế thường giáng tại Tam Tông Miếu trong những đại đàn ban Sắc Lệnh, ban Quyền Pháp, phong phẩm cho qúy tiền bối... Một trong các bài thơ báo danh của Ngài ngày 2-7-1974 như sau: Ngọc đâu quý sánh được Chơn Tâm, Hoàng phụ thương con mãi lỗi lầm. Thượng đạt gắng tu nên thánh thiện, Đế ngồi chờ trẻ biết tuân khâm. Ngài Minh Thiện viết[21]: Vậy thì ba ngôi chỉ có Nhứt khí, mà mỗi ngôi đều có một vai tuồng riêng biệt, chẳng giống nhau, mà luôn luôn bổ túc cho nhau. Tuy phân ba thời kỳ có dễ hiểu, kỳ thiệt là ba ngôi cùng đồng thời, không phân cao hạ. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát giảng rõ thêm: Minh Lý thì nhận thức theo Đạo học vũ trụ tạo hóa chỉ một nguyên lý tối cao. Nguyên lý ấy gọi là “Tam nguyên nhứt thể”. Tam nguyên là: Vô cực, Thái cực và Hoàng Cực. Còn Tam Giáo , chư Phật Tiên Thánh Thần Tinh Tú . . . đều là sự hiện thân ứng hóa của Người. Có thể nói từ đó mà ra, rồi tất thảy cũng hoàn về nơi đó. Nên người Thiên ân cần hiểu cho chính lý mới khỏi tách ngoài giáo pháp, đối lập các giáo bạn [22] Vậy, ba vị: Kim Mẫu là Mẹ, là gốc của sanh thành: Hồng Quân Lão Tổ là người tạo nên vạn vật và Ngọc Hoàng Thượng Đế[23] phán đoán muôn vật; nên tuy ba mà một bất khả phân. Rut gọn
Vertical Divider
|
CÁC BÀN THẦN
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |