(Trích TN Đức Bác Nhã Thiền Sư ngày 13 tháng 8 năm Đinh Mẹo)
.......
Từ ngày khai Minh Lý Đạo đến nay, tiếp xúc với Thần Tiên qua thần cơ diệu bút, trong tân kinh đã minh định sứ mạng quyền pháp, lập trường và đường hướng, vai trò và mục đích của Minh Lý. Ơn Trên để thần rót điển qua nhiều Thánh ngôn, xiển giáo đầy đủ, hiện bày mọi mặt của chơn lý, lấy đó làm chỉ nam châm. Thật là cái kho tàng báu quí, được giàu có đến thế, không còn chi phải đòi hỏi thêm.
Bây giờ chỉ còn cùng nhau ngồi lại, bằng mọi thành kỉnh thành tâm tụng đọc, suy gẫm, đem liên hệ vào cộng đồng sanh hoạt của tập thể, của sự lãnh đạo, của hàng ngũ tổ chức, của cá nhân và cá nhân trong nội bộ, soát xét lại chỗ ưu chỗ khuyết, rồi nhìn qua sự tu tiến công phu, công quả, lễ bái với mọi tương quan, phê phán mà tìm ra phương bổ cứu và thực hành.
Điều cần hơn cho mọi người : phải biết hướng đi và mục đích cứu cánh của Đạo. Người Minh Lý môn sanh phải thấy cái trọng tâm mà sứ mạng đã đề ra cho Minh Lý chúng ta, trọng tâm ấy không ngoài sự giác ngộ và giải thoát.
Có giác ngộ mới tránh đường tà, theo nẻo chánh, ra nơi tối tăm, vào nơi sáng lạn. Giác ngộ là khi được thấy biết chân thực, suốt thấu mọi nguyên nhân đau khổ và hạnh phúc, hai mặt của tâm lý, rồi quyết tâm mạnh dạn phủ nhận tất cả mọi hiện tượng đối đãi, cả vật chất lẫn tinh thần toàn đều là phù phiếm, giả tạo, ảo ảnh không hoa, hư dối, lệch trệ, bất toàn. Dứt khoát từ bỏ, giải thoát, không chút vấn vương, không bị lệ thuộc, nô lệ, vượt lên lối sống mê lầm của thế gian. Tìm về nhứt nguyên bản tánh hoàn thiện của chính mình, từ lâu bị ngã thân vọng thức che mờ, thì liền được hiện thực cái chơn tướng “Bản lai diện mục”.
Từ ngày khai Minh Lý Đạo đến nay, tiếp xúc với Thần Tiên qua thần cơ diệu bút, trong tân kinh đã minh định sứ mạng quyền pháp, lập trường và đường hướng, vai trò và mục đích của Minh Lý. Ơn Trên để thần rót điển qua nhiều Thánh ngôn, xiển giáo đầy đủ, hiện bày mọi mặt của chơn lý, lấy đó làm chỉ nam châm. Thật là cái kho tàng báu quí, được giàu có đến thế, không còn chi phải đòi hỏi thêm.
Bây giờ chỉ còn cùng nhau ngồi lại, bằng mọi thành kỉnh thành tâm tụng đọc, suy gẫm, đem liên hệ vào cộng đồng sanh hoạt của tập thể, của sự lãnh đạo, của hàng ngũ tổ chức, của cá nhân và cá nhân trong nội bộ, soát xét lại chỗ ưu chỗ khuyết, rồi nhìn qua sự tu tiến công phu, công quả, lễ bái với mọi tương quan, phê phán mà tìm ra phương bổ cứu và thực hành.
Điều cần hơn cho mọi người : phải biết hướng đi và mục đích cứu cánh của Đạo. Người Minh Lý môn sanh phải thấy cái trọng tâm mà sứ mạng đã đề ra cho Minh Lý chúng ta, trọng tâm ấy không ngoài sự giác ngộ và giải thoát.
Có giác ngộ mới tránh đường tà, theo nẻo chánh, ra nơi tối tăm, vào nơi sáng lạn. Giác ngộ là khi được thấy biết chân thực, suốt thấu mọi nguyên nhân đau khổ và hạnh phúc, hai mặt của tâm lý, rồi quyết tâm mạnh dạn phủ nhận tất cả mọi hiện tượng đối đãi, cả vật chất lẫn tinh thần toàn đều là phù phiếm, giả tạo, ảo ảnh không hoa, hư dối, lệch trệ, bất toàn. Dứt khoát từ bỏ, giải thoát, không chút vấn vương, không bị lệ thuộc, nô lệ, vượt lên lối sống mê lầm của thế gian. Tìm về nhứt nguyên bản tánh hoàn thiện của chính mình, từ lâu bị ngã thân vọng thức che mờ, thì liền được hiện thực cái chơn tướng “Bản lai diện mục”.
Xem thêm
Giác ngộ chưa triệt để thì không suốt hết chơn lý, không nắm được ngọn nguồn, cũng chưa thiệt giác ngộ, chưa được giải thoát.
Con người sanh ra trái tim có trước, bộ óc có sau, cho nên cái tâm có trước, cái trí có sau. Tâm là gốc, trí là ngọn; tim là gốc, óc là ngọn. Giờ đây chúng ta bỏ đi một phần thì không thành sự sống. Nếu sống bằng trí óc, cũng như cây mất gốc, như hoa cắm trong lục bình. Nếu buông tâm bỏ tánh, chặt gốc lấp nguồn, thì dẫu cái trí hiểu biết cho đến đâu cũng đều là thứ không biết, khác nào trí thông tuệ của A-nan-đà và Thiện-tinh cả hai là em của Phật : người thì đọa Địa ngục, người thì bị huyển thuật của Ma-đăng-già, cũng vì chưa thấy tánh. Cái trí thông tuệ đó cũng là cái ngọn, phần nhánh nhóc của bản tâm.
Về môn học, môn tu của Minh Lý ta, cái trọng tâm là khám phá con người, mà người thì đều nằm trong rọ đau khổ. Đau hay khổ cũng đều có nguyên nhân, biết cái nguyên nhân phát khởi tại đâu thì dễ trị dứt khổ hết bịnh.
Đã biết trời đất, vạn vật và con người cùng đồng thể như nhau, thì công lệ cũng không khác nhau. Đều chung một luật tắc, thì tại sao có sự sai biệt giữa
Trời người, phàm Thánh, Phật ma, vui khổ, v.v…. Ta cần truy cứu để biết mà giải thoát mọi mâu thuẩn bất nhứt đó.
Vạn pháp, chúng sanh đều do một nguyên lý sanh thành. Cái nguyên lý tối sơ ấy dính liền với vạn vật mà không phải là vạn vật. Vạn vật thì vô thường, biến dịch, nguyên lý thì thường hằng, bất biến dịch.
Vạn vật thì có định thể nằm trong lẽ dinh hư tiêu tức, thành trụ hoại diệt,
tụ tán, giảm tăng, đầy vơi, thiên lệch và ngưng trệ, v.v…. Đạo là vô hình, vượt ngoài đối đãi, không tăng giảm, không sanh diệt, không đầy vơi, không trước sau, không già chết, độc lập tự do, tự tại, không xê dịch lại đi, thường trụ mà khắp nơi, hàm dung mà không lệch trệ. Nó là tự tánh, cái tâm hoàn bị đó không rời người, vì người hay vật có hình khí đều là bất toàn, lăn trôi trong dòng đổi thay biến hóa.
Cái mạng sống bất toàn ấy, bên trong có cái hoàn toàn. Mình là mình, mình là Chủ nhơn ông chủ trì vạn hóa, tồn tại bất biến, khác chi Thượng Đế ở trên trời, Ngài không bị lăn trôi khốn khổ, sao người lại không thoát được cái nguy cơ đó ?
Cần suy gẫm thêm một bước nữa, phải chăng con người đánh mất cái chơn tâm tự tánh của mình mà bơ vơ lạc lỏng, đều chịu sự nương nhờ để tồn sanh, thì không sao còn có tự do, độc lập.
Bản thể là thể của Đạo, vạn tượng vạn hóa là dụng của Đạo. Cũng dụ như con người, cái chơn tâm là thể, tâm chủ trì sự sống, thống nhiếp hết thảy sự động tịnh trong toàn thân. Còn cái dụng của tâm bao gồm sắc tướng như : tim, óc, tạng phủ, kinh lạc, can, mạch, sáu căn, tám thức, bảy tình, thở hít, ấm lạnh, khí huyết, dinh vệ, thịt xương, da lông và tứ chi bá hài, v.v…., nhứt nhứt đều là dụng.
Cái phụ tá cho tâm thể là Thần, tay chân của Thần là Khí, nền tảng của Khí là Tinh. Thể dụng hay hồn xác không hề lìa nhau. Cái chức năng trong bộ máy cơ cấu bất đều mới sanh ra trục trặc, trục trặc sẽ đi đến rối loạn mà bịnh sanh.
Thần trệ thì Khí mới thay vào, thức tình theo óc nảo trí lực hoạt lại, ngã kỷ vọng ngoại, tham cầu đi ngược với bản tâm mà bá bịnh cả xác hồn đều khởi tác. Đó là dụng của tâm trở hóa nên giặc cướp phá hại vậy, khác nào việc đời như câu: “Đức bạc vị tôn, trí thiển nhiệm trọng, cơ nguy”.
Dịch thơ : “Dịch hữu Thái cực, nhi sanh lưỡng nghi, sanh tứ tượng, sanh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng”. Thể là Thái cực, dụng là cái được sanh ra.
Thiệu Tử nói : “Đạo sanh ra Một, Một là Thái cực”.
Đức Thánh nói : “Trời do Đạo mà sanh ra, đất do Đạo mà thành ra, vật do Đạo mà có hình, người do Đạo mà hành động. Trời, đất, người, vật tuy khác nhau nhưng đối với Đạo thì tất cả chỉ là Một”.
Một là cái tâm của trời đất, cái gốc của Tạo Hóa. Trời đất vạn vật tất cả đều lấy Một làm căn bản, Một đó chính là Thái cực do Đạo sanh ra. Từ Thái cực đến âm dương, từ âm dương đến vạn vật, thảy đều Nhứt quán.
Biến dịch tới đâu cũng chỉ có Một. Một thành muôn, rồi muôn về Một, tuy có nhiều tên.
Nếu chuyên một mặt mà nói thì gọi là Đạo, nếu phân ra mà nói :
- về hình thể, gọi là Trời,
- về chủ tể, gọi là Đế,
- về công dụng, gọi là Quỉ,
- về diệu dụng, gọi là Thần,
- về tánh tình, gọi là Kiền.
Tánh tình để nói sự phú bẩm. Tứ đức để thể hiện cái tánh, Lục hòa để thể hiện cái tình.
Đế và Thần là vai quan trọng : Đế là để nói việc chủ tể vạn vật, Thần là để nói cuộc diệu dụng vạn vật. Chủ tể thì bao gồm muôn vật không sót, diệu dụng thì vận hành muôn vật không trệ. Đế, Thần cũng là “Nhứt âm nhứt dương chi vị đạo”.
Lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái là cái được sanh ra. Nếu không có cái được sanh ra thì cũng không sao có trời đất vạn vật để mà bàn nói.
Cái rắc rối nhứt là ở chỗ giữa Thể, Dụng. Xưa nay các Thánh Hiền đã mòn cạn biết bao bút mực tả kinh, viết sách để soi sáng cho đời. Mặt trời chói lọi mà mắt chúng sanh vì một mãy bụi rơi vào làm cho tối tăm cả bầu trời vũ trụ. Còn một chút cái “Tôi”, dù nhỏ đến đâu cũng che mờ cả bầu linh năng muôn thuở. Khi chưa có cái “Tôi” thì tâm với vật không thành vấn đề, kẹt vào cái “Tôi”, tất cả đều đảo điên lộn xộn.
Trở lại vấn đề : Khi lưỡng nghi (âm dương) thành lập thì trời đất hiện đủ, vạn tượng hình thành, vạn hữu cùng chung một trật tự, đều được an bài cùng một nhịp nhàn với lẽ âm dương phù trầm, thăng giáng, tới lui, qua lại, suy thịnh, tán tụ, động tịnh, tiêu tức, theo một tiết điệu của bốn mùa. Cái công lệ hiện hành không trái thường lỗi đạo, cái công dụng của Trời mục đích khiến cho vạn pháp hàm linh phải trải qua trong các cuộc biến hóa để thăng hoa tiến ích, khi hết cuộc tuần hoàn thì trở lại với Trời phối đồng cùng Đạo, đạt phẩm tối tôn. Xưa nay biết bao chúng sanh đã chứng quả Phật Thánh, cùng Trời hóa độ muôn loài.
Trong hàng đẳng ưu tú đã nói trên là họ giác ngộ cái bản nguyên, còn các bậc hiền nhơn quân tử thông thấu lẽ biến dịch sự diệu dụng của Thần, biết khắc kỷ bảo thân thuận Đạo nên tâm trí rất thông tỏ, cuộc sống rất bình dị và an nhàn, không vướng mắc theo ngoại vật.
Còn lại phần đông chúng sanh lại bỏ tâm theo vật, khởi lòng tham đắm mê dục, chuộng cái hư giả, cầu cái thỏa thích mù quáng để nuôi thân, chấp cái Ta không thật có, bám cái pháp huyển trần, tụ hợp muôn duyên nên thân bị trôi lăn, buộc trói. Kết quả làm nô lệ cho đám bảy tình, cho lòng dục vọng, bảo sao không đau khổ khi đã nhận giặc làm con, quên nguồn bỏ gốc, làm tôi tớ cho kẻ thù. Cũng bởi cái lý đó khiến nên con người chết nghẹt trong mê hồn ảo vọng.
Theo Phật giáo nói : “Cái diệu tâm (Thái cực) tròn vình, sáng rở, nó không có vật chi cả. Nếu ai hiểu biết cái tướng không thân tâm thế giái, thì đâu có căn cảnh đối đãi, đâu còn cái tâm duyên ảnh vọng tưởng phân biệt”.
Nguyên Tâm và Cảnh nầy đều do cái diệu tâm bị vô minh bất giác, mê chỗ nhứt tâm mà biến ra thức. Duy thức biến ra hai phần : Kiến phần (tâm), Tướng phần (cảnh), cho nên sự phân biệt trần duyên xấu tốt, lấy bỏ, v.v….
Thế là người đánh mất Thái cực tâm là bản thể của mình, rơi vào hiện tượng lấy đối đãi nhị nguyên tánh, lọt sâu trong chỗ biến dịch.
Kiến phần là dương, Tướng phần là âm.
- Âm là hình, dương là khí.
- Âm là cảnh, dương là tâm.
- Âm là pháp, dương là ngã.
Ngã Pháp Tâm Cảnh khiến cho con người điên đảo khổ đau, mở mắt thấy sự sự vật vật liền khởi niệm tham cầu, dục tình móng dậy, ý thức cũng hùa theo, mới khởi lòng phân biệt, chọn lựa, lấy bỏ, khen chê. Người người cũng cùng một ý gặp nhau, chạy theo cảnh, rượt theo vật, tranh cướp cho được mới thỏa lòng thèm khát mơ tưởng mà gây ra chiến trường thù khích, cũng vì bỏ chơn theo giả, chìm đắm mãi trong mê, theo nẻo đời vô định.
Tiên đạo cũng có nói : Dục thần và Thức thần.
- Dục thần là tánh của khí chất sanh ra do lúc cha mẹ cấu tinh.
- Thức thần nhập vào khi lúc sổ thai, đó là thần của túc mạng.
Thức thần do căn gốc trước mà lại, cho nên kỷ xảo ra trăm, nghĩ xưa cầu nay, không tạm đình một khắc.
Sự nhiễu loạn của hai thần nầy thật là trục trục đam đam, lấp che tự tánh, bảo sao không chìm đắm được.
Người tu nếu rõ tất cả cảnh giới là hí ngôn phân biệt, thì ý không chỗ suy nghĩ, miệng không có việc nói, tâm chuyền níu đã dứt, danh tướng liền không, Chơn tâm diệu minh từ đây hiển hiện.
Nếu ngự chế được tâm ở một chỗ thì các duyên dứt tuyệt. Vì sao thế ?
Một gốc chẳng khởi thì ba dụng không chỗ hiển, trụ ở Như lý thì cửa luân hồi liền đóng. Điều cần yếu là phải an tâm ở chỗ rỗng rang, giữ tâm ở chỗ bình thường, dụng tâm ở chỗ quán chiếu, ngộ tâm ở chỗ quên hết.
Như đoạn trên đã nói : Thái cực là bản thể, là vô hình, lấy vạn vật làm hình. Trời đất vạn vật cùng một cái tâm. Thánh nhơn giữ còn được cái tâm ấy mà đồng cùng với Đạo. Chúng sanh bỏ mất cái tâm ấy mà lũy kiếp trầm luân. Bỏ mất là bỏ cái thực tánh của tâm là chơn thật nhứt như, chạy theo cái động niệm bóng dáng, mới hay tính toán lợi cho mình, được về mình.
Tóm lại : Vọng niệm thiên lưu nãi hữu khứ lai chi tướng,
Chơn tâm tuyệt đải bổn vô kim cổ chi thù.
Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Cho nên, tất cả pháp, từ xưa đến nay, lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự,
Chúng ta thử suy nghiệm sau đây thì rõ: Diệu thể của chơn tâm không động, tuyệt các đối đải, lìa tất cả tướng, nếu người không đạt được thể tánh, chứng chơn thường, thì không thể so lường lý ấy; còn diệu dụng tùy theo duyên, ứng hợp nhiều loại, vọng lập các hư tướng, có hình trạng
Vã lại, Đạo lấy vắng lặng làm thể, tu là lìa tướng làm tông.
Tại sao ta phải lìa tướng ?
Nhứt thiết các tướng có ra chúng nó đều là vô thường, nhơn duyên tổ hợp, không thực có, như bóng trong gương, như mộng huyển, bào ảnh, hay khiến cho chúng sanh điên đảo.
Thiền chủ trương Phá và Trừ. Phá, trừ tận gốc, còn lại cái gì không thể phá, trừ được là cái đó thật. Ví như : cái sân thiệt bằng xi măng, tất cả cái gì trong sân quét trôi được đều là rác cả, còn lại mới là cái sân xi măng là thật tướng.
Tất cả hiện tượng cũng đều do một gốc sanh ra. Chính mình đây là một hiện tượng từ trong tự tánh xuất hiện. Mỗi người đều vốn có tánh Phật, nhưng vì mê nên gọi là “mê trong ngộ”. Bây giờ biết được thân nầy chỉ là hiện tượng mà không kẹt ở trong tướng, nên gọi “ngộ ở trong mê”.
Khi biết tâm vốn rỗng không, là biết tất cả tướng đều là hiện tượng, lòng sẽ không còn kẹt vào cái chấp đóng cứng nữa, thì tất nhiên là “siêu mê ngộ”, nghĩa là ở trong tướng mà không mắc kẹt với tướng, ở trong không mà không mắc với không.
Nó không phải hẳn là món độc, vì chúng sanh chấp chứa mà trở thành thứ độc. Chỉ đừng có chấp chứa, chính thân là Bồ đề.
Kinh nói : “Hang ổ của năm uẩn là thiền viện, rọi vào trong được tỏ ngộ là môn Đại Thừa”, nghĩa là không có cảnh chướng, cảnh nghịch thì không thể lấy đâu để biết được lòng mình. Thánh nhơn biết rõ các thứ độc ấy nên không hề bị độc, xử dụng nó hằng ngày mà không hề nhiễm độc, mà còn dùng độc để trị độc. Bởi vậy Phật nói : “Chúng sanh gọi giặc là con, tai mắt cũng là con, vì không biết kềm chế nó nên trở thành ra giặc”.
.......
Kính thỉnh chư vị thanh tịnh tâm để có thể chiêm nghiệm "THẬP MỤC NGƯU ĐỒ VÀ BÀI CHỮ TAM^"
Rút gọn
THẬP MỤC NGƯU ĐỒ VÀ CHỮ TÂM
Your browser does not support viewing this document. Click here to download the document.
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |