LỜI NÓI ĐẦU
Người vào đạo Minh-Lý thì trước hết phải nguyện : QUI Y TAM BẢO, THỌ TRUYỀN NGŨ GIỚI Và LÃNH PHÁI chứng nhận rằng mình ở trong đạo. QUI Y TAM BẢO Qui y Tam-Bảo có ngoài và có trong. Hàng tín-đồ mới vào học đạo còn đương tập lễ bái, xưng tụng, học kinh, học luật, nên không thể trọn khép vào khuôn khổ của đạo. Vậy tín đồ trước cần lo bề ngoài. Còn hàng môn sanh tu tại gia, hay là xuất gia đều phải đi lần vào bên trong nghĩa là : phải qui y tự tánh. Bực giáo-sư phải kiêm cả đôi bên, mới có thể hoằng pháp độ sanh, quảng khai đại Đạo. Thọ truyền Ngũ giới Hàng tín-đồ (Hướng tịnh) chỉ thọ truyền Ngũ-giới đại lược như thế nầy : 1.- Ăn trai kỳ, ít lắm là lục trai (sáu ngày). Trong mấy ngày trai kỳ, cấm sát mạng hại vật. 2.- Cấm gian tham, sang đoạt, oa trử của gian, trộm cướp. Cấm đánh bạc các thứ. 3.- Cấm dâm bôn trái lẽ, như tư tình với ngoại nhơn, và đặt thơ truyện huê tình, làm lụy phong hóa luân thường. 4.- Cấm nói dối, nói hành, chưởi rủa, xúi giục hai đầu v.v. . . 5.- Cấm uống rượu mạnh và hút nha phiến (Xem cuốn “Giới-luật Hình-phạt” từ điều thứ nhứt tới điều thứ mười). Hàng môn sanh (ba bực: Chí-tịnh, Tâm-tịnh, Thanh-tịnh) tu tại gia giữ đủ năm giới cấm, nhưng vì còn lo việc thế gian, nên cũng giảm chế các điều tế-vi trong mỗi giới, và giữ trai kỳ, hoặc lục trai, hoặc thập trai, hoặc tam nguơn trai, tùy bực cao thấp (Xem “Giới-luật Hình-Phạt” điều thứ 11 tới điều thứ 18). Hàng môn sanh xuất gia và hàng giáo-sư (ba bực : Khiết-tịnh, Vĩnh-tịnh, Siêu-tịnh) cưỡng bách xuất gia phải giữ trọn hết các điều răn ghi trong năm bài giới-cấm, hay là tương tợ như thế, thêm năm điều răn khác nữa, kể ra sau nầy : 6.- Chẳng đặng đeo đồ trang sức, thoa phấn ướp hương (Bất trước hoa mạn, bất hương đồ thân). 7.- Chẳng đặng hát múa, đờn địch và cũng chẳng đặng đến nghe (Bất ca vũ xướng kỵ, bất vãng quan thính). 8.- Chẳng đặng ngủ giường cao rộng, sơn thếp, chạm trổ và dùng đồ tế mỹ (Bất tọa cao quảng đại sàng, nải chi tất thể điêu khắc, sa quyến trướng nhục chi loại, diệc bất nghi dụng). 9.- Chẳng đặng ăn sái giờ, nghĩa là : mỗi ngày chỉ đặng dùng ba bửa (sớm mai, trưa, chiều) mà thôi, ngoài ra chẳng đặng ăn món chi nữa (Bất phi thời thực). 10.- Chẳng đặng lo tư lợi hay là cất giữ bạc vàng, đồ quí báu (Bất tróc trì kim ngân, bửu vật). (Xem cuốn Giới-luật điều thứ 19 tới điều thứ 25). Lãnh phái Người và đạo Minh-Lý phải có lá phái chứng nhận để theo mình luôn luôn. Nên nhớ : Mỗi năm ngày rằm Thượngnguơn, phải cầu chữ ký tên mới của vị Chủ Trì trong lá phái của mình, thì lá phái mới có giá trị. QUI Y TAM BẢO GIẢI Người vào đạo Minh-Lý phải qui y Tam bảo. Qui y là nghĩa gì ? Qui y là tiếng Phạn : Namah hay là Namo, dịch nghĩa ra văn Tàu. Lấy nghĩa từng chữ : Qui là quày đầu, trở về. Y là nƣơng cậy, dựa vào. Ý nói : Trước kia vì hiểu sai, đi lạc đƣờng, nên nay quày đầu trở về, chỉ quyết nƣơng cậy dựa vào đó mà tu thân. Cũng có chỗ dịch là Qui mạng, Qui kỉnh, Kỉnh lễ. - Còn Tam Bảo ? - Tam Bảo nghĩa là ba thứ ngọc báu : Một là Phật-bảo, hai là Pháp-bảo, ba là Tăng-bảo. Cũng đọc là Tam bửu. - - Sao gọi là ba thứ báu ? - Vì Tam bảo làm lợi ích cho nhơn-quần xãhội rất nhiều, và lại những ngƣời có duyên phần lắm, thì mới gặp được ba thứ báu đó. Nếu ai phát tâm qui y theo Phật, Pháp, Tăng, thì đặng tiêu tội mà lại còn có phƣớc nữa. Chư Phật là Phật-bảo. Người đạo Minh-Lý phụng thờ Tam-giáo, nên hiểu rộng là : Phật, Tiên, Thánh, nghĩa là : Các bực đã giác-ngộ, hoàn toàn sáng suốt, vì lòng từ-bi, phát nguyện độ tận chúng sanh. Các thứ kinh và luật của Phật là Pháp-bảo. Kinh để mở nguồn trí-huệ, còn luật để ngăn cấm tội hình. Các vị tì-khưu (xuất gia) tu hành theo giáo pháp ấy là Tăng-bảo. Đó là những ngƣời làm tiêu biểu cho đạo. Qui y Tam bảo tức là quày về, nương cậy vào chư Phật, các kinh luật, các tì-khưu. Dẫn lên là nói về Tam bảo ở ngoài thân. Còn Tam bảo ở trong tự tánh là : Phật là chơn-lý (lẽ phải) trong tự tánh. Hễ ai giác ngộ lẽ phải là Qui y Phật. Pháp là công dụng của lý tự tánh. Người thiệt hành lẽ phải, tức là Qui y Pháp. Tăng là bổn thể của tự tánh. Ai giữ bổn thể nầy chơn thiệt, thanh-tịnh, tức là Qui-y Tăng. Kệ Trên đời Tam bảo quí chi bằng ? Tu phải qui y Phật, Pháp, Tăng. Phật ấy lý chơn, cầu tánh giác, Pháp là dụng chánh, giữ tâm hằng. Tăng nương một thể, huờn thanh tịnh, Đạo hiệp ba ngôi, định bổn căn. Chẳng luận trước sau, cao với thấp, Chánh chơn bình đẳng đặng siêu thăng. Sau nầy , có ba bài giải về mỗi thứ báu vừa nói trên. QUI Y PHẬT GIẢI Phải giác-ngộ học theo hạnh Phật, Bằng muội-mê súc vật Trần-gian. Được vẻ vui, thiệt nẻo Thiên-đàng, Chác phiền-não, là hang Địa-ngục. Buông danh lợi buộc ràng câu thúc, Bỏ ái-ân, lao-lực cực thân. Món uống ăn ngon béo chẳng cần, Nơi trú ngụ, khôn phân huê lệ. Tùy duyên phận, tiện dùng theo thể, Phật từ-bi phổ tế quần sanh, Người chẳng màng ân-ái lợi-danh. Thật rất đứng trọn lành trên thế. Mười điều đủ : SĨ, LIÊM, HIẾU, ĐỂ, Thuần TÍN, TRUNG, NGHĨA, LỄ, chẳng lơi. CHUYÊN LÀM LÀNH, MẢY ÁC KHÔNG VỜI, Qui y Phật gìn lời Phật giáo. QUI Y PHÁP GIẢI Làm việc chánh gọi là Pháp vậy, Theo bàng môn nẻo ấy là tà. Đạo Vô -vi thiệt pháp cao xa, Hữu -vi ấy sanh ra dối giả. Chừa gian -lận, dứt điều xảo -trá, Bớt lửa lòng, chớ khá cang cƣờng. Tinh, khí, thần, là báu Tiên Phương, Luyện cho đặng, khỏi vƣơng Địa -phủ. Pháp chẳng phải vẽ bùa, niệm chú, Khí tiên thiên là chủ nơi hơi. Giềng ngũ luân là pháp ở đời, Ngay với chùa, thảo nơi cha mẹ. Thuận huynh đệ ấy là nhằm lẽ, Hiệp vợ chồng, vui -vẻ, hòa -hài. Lấy lòng tin bậu bạn trƣớc mai, Ngũ luân chớ nguôi ngoai, rối loạn. Tam độc với cữu trùng diệt đọan, Chớ lỗi lầm, làm bạn quỉ ma. Muốn qui y pháp Phật, Tiên gia, Thì phải tránh nẻo tà, lẽ vậy. QUI Y TĂNG GIẢI Tánh ở chơn, ấy gọi là Tăng, Lòng thanh-tịnh mới rằng tu niệm. Còn mê-muội khó tìm lý nhiệm, Lòng sạch lòng, thúc liễm tu hành. Tham thị phi, công quả đâu thành, Tìm cho rõ cội nhành đạo lý, Mà tu luyện giữ lòng bền bĩ. Nãi tiên-thiên Tăng thị nguơn tinh, Tức Chơn-diên khá xét cho minh. Phải bồi bổ trau mình thanh khiết. Trù tứ tướng, tam tâm giải tuyệt, Rán giồi-mài chín tiết cho chơn, Là : TRÚC CƠ, ĐẮC DƯỢC, KIẾT ĐƠN, LUYỆN KỶ, HUỜN ĐƠN, ÔN DƯỠNG, THOÁT THAI với HUYỀN-CHÂU kỹ lưỡng, PHÓ DIÊU-TRÌ đặng hưởng công phu. Chớ dại ngây, giả dạng người tu, Miệng kinh kệ, dạ cầu việc quấy. Sửa hình dạng bề ngoài che đậy, Làm cho người chẳng thấy việc tà. Qui y Tăng, tâm địa thật thà, Chớ chẳng phải bày ra hình tướng. Lãnh phái Người và đạo Minh-Lý phải có lá phái chứng nhận để theo mình luôn luôn. Nên nhớ : Mỗi năm ngày rằm Thượngnguơn, phải cầu chữ ký tên mới của vị Chủ Trì trong lá phái của mình, thì lá phái mới có giá trị. Tam-Tông Miếu, ngày rằm, tháng bảy, năm Canh-Dần (1950) Chủ-trì NGUYỄN-MINH-THIỆN |
THỌ TRUYỀN NGŨ GIỚI GIẢI
Người vào đạo Minh-Lý phải thọ truyền Ngũ giới. Thọ là lãnh lấy. Truyền là trao đƣa. Một đàng ngƣời mới nhập môn cầu Đạo phải lãnh lấy. Một đàng khác, các thầy tì-khưu là bực tiêu biểu của đạo phải trao đưa. Ngũ giới là năm điều răn cấm : 1.- Bất sátsanh, 2.- Bất thâu-đạo, 3.- Bất tà-dâm, 4.- Bất vọng-ngữ, 5.- Bất ẩm-tửu. Nếu ai rủi phạm, thì phải lập tức sám-hối, nghĩa là đến chùa, trƣớc điện thờ Trời Phật, thú tội mình đã làm và nguyện ăn năn chừa cải. Mỗi tháng, có hai kỳ sám-hối: ngày 14 và ngày 30 (tháng thiếu 29). Con ngƣời ở đời sát hại lẫn nhau, gây ra nhiều tội lỗi, cho nên phải lăn lộn trong vòng sanh tử, mà trả vay cho nhau, chịu nhiều quả báo rất đau khổ. Nếu ai muốn : lúc sống khỏi khổ mà đặng vui, lúc thác về gần Tiên Phật, thì phải giữ trọn năm giới cấm nầy : KỆ: Đạo ở thị thiền dẫu khó tu, Cứ theo năm giới giữ làm đầu. Sát sanh dứt trọn, từ-bi rộng, Thâu đạo trừ xong, tiết-tháo cao. Sắc chẳng mê xa, dâm phải tuyệt, Rượu không ghiền-gập, tánh đâu xao. Có sao nói vậy, đừng lừa dối, Ngày tháng tiêu dao, phước biết bao ! Phía sau đây là năm bài giới cấm, chỉ rõ thêm chi tiết về những điều nên chừa bỏ. 1. - GIỚI SÁT SANH Điều thứ nhứt: sát sanh hại mạng, Kẻ thác oan, thù oán rất sâu. Báo đời nầy cho tới kiếp sau, Nghiệt -oan ấy chừng nào đặng giải ? Nay vào đạo, trau lòng nhân ái, Xét con ngƣời đến loại côn -trùng. Chúng sanh đều có một tánh chung, Hình thế khác, nhưng đồng sợ chết. Vì lẽ đó, ta đừng cố giết, Hay xúi người thế giết cho mình Hoặc thấy ai toan việc sát sinh, Mà lại nỡ làm thinh, ý đẹp. Nhiều ngƣời nói câu nầy quá hẹp : “Thú Trời sanh để giết mà ăn”. Vậy kẻ nào bị cọp bắt ăn, Muỗi mòng cắn, cũng rằng Trời định ? Vì ngon miệng, sao đàng quấy tính, Chẳng xót -thương, liều -lĩnh dao đâm. Hoặc bẩy dò, bắt sống giam cầm, Hại sanh mạng, đang tâm chẳng kinh. Cũng gọi sát, khi mình còn tánh : Hoặc giận hờn, mưu tính độc sâu; Hoặc bước chơn, trùng kiến đạp nhầu; Hoặc tay bẻ cộng rau vô cớ, Phàm đã quyết tu hành phải nhớ, Răn sát -sanh từ chỗ tế -vi. Người xót -thương mạng vật thế ni, Thần Thánh cũng nể vì, mến đức . 2. - GIỚI THÂU ĐẠO Thứ hai : chớ phạm điều thâu-đạo, Thấy của người : châu báu, bạc vàng. Bụng tham lam, cướp giựt hung tàng, Hoặc thầm lén, đoạt sang cho được. Nay vào đạo, gìn lòng mực thước, Chẳng còn theo lối trước nghinh-ngang. Tuy là không trộm cắp quả tang, Nhưng chánh nghĩa chưa hoàn toàn mấy. Như mượn vật, không người tự lấy, Chừng trả giao thì thấy tổn hao. Hoặc bày ra cờ bạc, chứa xâu, Hại người khổ biết đâu mà kể ! Dụng quyền thế, ép người dưng lễ, Tiếng thở than, há dễ đành ngơ. Hoặc của công đem dụng việc tư, Mà tự tưởng khư khư là trí. Nên dám nói câu nầy nghịch lý : - “Trộm quốc gia xét kỷ lỗi gì”? - Lấy của công, tội lớn xiết chi, Đồ Tam bảo, phạm thì khó gở ! Vật dầu nhỏ : chỉ, kim, rau, cỏ, Tự hỏi mình : Nó có chủ không ? Vậy mỗi khi, trước hỏi vui lòng, Sau mới đặng phép dùng của ấy. Cho tới món ai cho cũng vậy, Không thiết cần, mà lấy là tham. Lòng thanh-cao, liêm-khiết siêu phàm, Thì thiền-định mới kham nhập thánh. Thâu nghĩa là : trộm cắp. Đạo nghĩa là : cướp giựt. Hai chữ đều có nghĩa là tham lam , mà chữ trước nhẹ hơn chữ sau. 3. - GIỚI TÀ DÂM Thứ ba : cấm tà -dâm cẩu thả, Có tình riêng, mong thỏa dục tâm. Cùng vợ chồng kẻ khác âm thầm, Làm sái l ẽ, nữ nam rối loạn. Muôn việc ác, dâm là đầu đảng, Hằng gây ra thảm trạng vô ngằn. Chẳng tìm phương trảm thảo trừ căn, Biết bao thuở dứt ngăn hậu hoạn. Nay vào đạo, suy cùng nghĩ cạn, Giữ vợ chồng đôi bạn sắt cầm. Việc gió, trăng, mựa chác lỗi lầm, Làm bại hoại chơn tâm đạo đức. Khi trọng bịnh tà -dâm đã dứt, Chớ tưởng mơ, hồi ức hoan tình. Mà lấy lời rù yến, quến anh, Hoặc tà địa, tự mình lui tới, Tánh phóng túng, dục tâm dễ khởi, Muốn tu hành, trì giới mới kham. Chẳng khinh khi lỗi nhỏ, dám làm, Giữ sơ tánh, đâu ham bóng sắc ! Người ở thế nhơn luân giữ chặt, Điều nguyệt -hoa dè -dặt là ngoan. Chẳng những là bảo đặng thân an, Con cháu cũng kiện toàn, sáng trí. Huống tu luyện phải càng bền chí, Tinh để hao thì khí phải suy. Khí đã suy, thần dễ thoát ly, Thần bằng thoát, mong chi thành Đạo. 4.- GIỚI VỌNG NGỮ Thứ tư: phải chừa điều vọng ngữ, Lời nói ra, nên giữ thiệt-thà. Một mảy lông, chớ chịu sai-ngoa, Tròn chữ tín, mới là quân-tử. Bốn điều cấm thuộc về vọng-ngữ : -Một: nói ra tráo trở phải chăng. Có nói không, không có vô bằng, Mất chơn thiệt gọi rằng nói dối. -Hai : bịa đặt, thêu thùa nhiều lối Xúi giục ngƣời sôi nổi bất bình. Một xích hai, khêu gợi sóng tình, Khiến phong hóa phải sinh đồi bại. -Ba : xuyên tạc, buông lời chưởi bới, Làm cho người bối rối, đảo điên. -Bốn là : hay đót thọc hai bên. Khiến chồng vợ, anh em rời rã. Nay vào đạo, mau mau cải quá, Chẳng những không dối giả hại người. Lúc chuyện trò, cũng chẳng nói chơi, Hay bướng bỉnh, hứa rồi chẳng nhớ. Thêm có kẻ bày điều bợ đở, Hoặc tội mình, trở đổ người hiền. Nếu tự khinh, nết ở xéo xiên, Chúng khi dễ, trách phiền ai được ? Phàm muốn nói, xét sau nghiệm trước, Lựa những lời mực-thước, tinh thâm. Đạo cầu nơi thành tín tịnh tâm, Sai chữ tín, khó tầm nẻo chánh. 5.- GIỚI ẨM TỬU, NHA PHIẾN Thứ năm: chẳng nên dùng rượu mạnh, Vị nồng cay, kích tánh loạn tâm. Uống say sưa trí phải hôn trầm, Tránh sao khỏi lỗi lầm lắm việc. Gương trước mắt, nhiều điều đáng tiếc, Người trở nên mất nết, hư thân. Lại còn thêm tánh bạo hay sân, Khổ gia-quyến, đổ lần cơ nghiệp. Theo tánh dược, rượu năng dẫn huyết, Khi ốm đau, mới thiệt nên dùng. Lúc bình thường, một giọt khuyên đừng, Vậy mới phải ngƣời từng thạo luật. Còn nha-phiến chất kia độc nhất, Tuy giải nguy, cứu cấp cũng hay. Nhưng tập ghiền, thân thể võ gầy. Cửa nhà cũng hóa bay theo gió. Bốn giới trên rất khó giữ tròn. Nếu sát-sanh, đạo, vọng, dâm-bôn, Ắt trụy lạc, tâm hồn thống khổ. Nay vào đạo, phải thường gắng vó, Các nhiễm duyên lem ố tâm điền. Sớm trừ xong, nƣơng Bác-nhã thuyền, Mới mong đặng về miền Cực-Lạc. Vertical Divider
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |