TIỂU TRUYỆN VỀ TAM GIÁO TỔ SƯ
TIỂU TRUYỆN
ĐỨC VĂN TUYÊN KHỔNG THÁNH Đức Khổng tử là người dòng dõi của Vi-tử-Diễn (Vi Trọng), rồi xuống tới Ngài là 14 đời. Vi-tử-Diễn là con giữa của vua Đế Ất, nhà Thương (năm 1191-1154 trước kỷ nguyên lịch tây). Còn người lớn là Vi-tử-Khải, người con út là Thọ Vương, tức là vua Trụ. Từ Vi-tử-Diễn truyền lần xuống, tới ông tổ thứ sáu là Khổng phủ Gia, trước là họ Tử ( ), sau mới lấy họ Khổng (họ của vua ban). Khổng phủ Gia bị giết, con là Khổng phòng Thúc trước ở Tống (bây giờ là Hà Nam), mới về ngụ nước Lỗ (bây giờ là Sơn đông), chánh là quê hương của Phu tử. Thân phụ của Ngài là Khổng Thúc Lương, thường gọi là Thúc Lương Hột, làm quan Đại phu ở ấp Trâu, làng Xương Bình. Vợ chánh của ông Thúc Lương Hột là bà Thi thị, sanh ra 9 người con gái, mà không có con trai. Người vợ lẻ sanh một người con trai tên là Mạnh Bì, lại có tật què chơn. Lúc trở về nhà, ông Thúc Lương Hột mới lấy bà Nhan thị, tên Trưng-tại, là người có tánh nhân từ, nhu thuận. Bà Nhan thị, sợ chồng không con kế tự, mới lên núi Ni-Khưu, thành tâm kỳ đảo. Khi về, bà bèn thọ thai. Một bửa kia, bà Nhan thị thấy một con thú tựa như con nghé mà có sừng, mình có vảy rồng. Con thú nầy ngó bà, rồi quì xuống, nhả ra một cây thước bằng ngọc, trên có đề mấy chữ: “Thủy tinh chi tử, kế suy Châu nhi vi Tố vương”. Nghĩa là: con của Thủy tinh (có chỗ giải chánh Ngài là Thủy tinh tử giáng trần) nối truyền cho đời Châu đã suy, mà làm ông vua không ngôi. Bà thấy con thú lạ, mới lấy chỉ tơ điều cột sừng nó lại mà đi cho ông Thúc Lương Hột hay. Ông nói rằng: Đó là con kỳ lân. Hai đêm sau, con lân sút dây đi mất. Bà hoài thai 11 tháng mới sanh ra Phu tử. Lúc nầy nhằm đời vua Châu-linh-Vương, năm Canh Tuất, tháng 11, ngày mồng 4, thuộc Canh tý (năm 551 trước kỷ nguyên), tức là tháng 8 ngày 27 bây giờ. Vì nhà Châu lấy tháng Tý làm tháng giêng, tháng 11 thuở trước tức là tháng 8 bây giờ. Ở giữa đảnh đầu của Ngài lỏm xuống, còn chung quanh nổi lên cao, hình như hòn núi Ni khưu (chỗ bà lên kỳ đảo), cho nên đặt tên Ngài là Khưu tự là Trọng Ni. Phu tử lại có nhiều tướng khác thường nữa là: cái môi như môi trâu, bàn tay như tay cọp, bộ vai như vai chim uyên, xương sống như xương sống con rùa, có tướng: mắt lớn, hàm lộ, răng lộ, tai to, mủi rộng . . . gồm hết là 48 cách phát lộ ở ngoài, gọi là “tứ thập bát biểu”. Xem thêm
Khi Phu tử lên ba tuổi, thân phụ của Ngài mất. Từ đây, Phu tử chỉ nhờ mẹ nuôi nấng và dạy dỗ. Đến 19 tuổi, Ngài cưới người nước Tống là bà Thương quan mới thành gia thất, hạ sanh một đứa con trai, tên là Lý, tự là Bá Ngư. Vì lúc sanh, vua có ban cho một con cá chép, nên Ngài đặt tự cho con như thế. Cháu của Ngài tên là Cấp, tự là Tử Tư. Ngài đi châu lưu các nước, rốt rồi cũng trở về nước Lỗ, sau gặp con kỳ lân quẻ chơn, Ngài mới than rằng: “Kỳ lân ra đời không phải thời”, rồi bưng mặt mà khóc, cho là đạo mình đã tới mức cùng. Đến đời vua Ai Công, năm thứ 16, tháng tư, ngày kỷ sửu, Ngài mang bịnh có bảy ngày mà mất, thọ được 73 tuổi. 2/ ĐỨC TÁNH Khi lên ba tuổi, Ngài chơi bời với trẻ nít, đã hay bày sắp các thứ trở đậu, tức là những đài mâm đựng đồ cúng tế. Thế mới biết tánh Ngài sớm khuynh hướng về lễ bái. Ngài có thân hành đến xứ Lạc dương, là chỗ ông Châu Công lập nhà Minh đường, để chứa những luật lệ và bửu vật, cùng các tượng hình của các Thánh Hiền đời trước, mà khảo cứu chế độ miếu đường, nghi lễ tế giao, tế xả. Ngài lại đến hỏi lễ với ông Lão tử. Khi trở về , Ngài có bảo các đệ tử rằng: “Chim thì ta biết nó bay, cá thì ta biết nó lội, thú thì ta biết nó chạy. Chạy, bay, lội, ta có thể giăng lưới gài bẩy mà bắt nó được. Đến như con rồng, thì ta không biết nó lướt gió, tung mây bay lên trời lúc nào. Ta nay thấy Lão tử như con rồng vậy.” Về sự học hành, tuy trong sử ký không có nói rõ, nhưng tự Ngài có nói: “Ta từ 15 tuổi đã có chí lo học, qua 30 tuổi mới biết rõ lễ, đến 40 tuổi thì hết mê lầm …”. Lại Ngài cũng có nói: “Ta không phải là người sanh ra đã biết (bực sanh nhi tri), chỉ là người ưa mến đạo của Thánh Hiền xưa, rồi cố sức mà học lấy cho được”. Cho nên có thể biết được Ngài từ nhỏ đã chăm lo việc học, hết sức cần mẫn, học mà quên ăn, không bao giờ chán, nên sau mới thành một bực học rộng, tài cao như vậy. Đến như dạy người, thì Ngài chăm dạy, không bao giờ mỏi. Nếu có ai hỏi điều chi, thì Ngài đem hết cả mọi lẽ mà chỉ bảo rất ân cần. Cho nên sách Nho có nói: “Ngài dạy người ví như nhằm thời, mọi vật đều được thấm nhuần, mà phát sanh”. Việc ăn ở của Ngài rất cẩn thận. Như miếng thịt cắt không vuông, thì Ngài không ăn; chiếu trải không ngay, thì Ngài không ngồi; nem rượu mua ngoài chợ, thì Ngài không dùng; cơm thì phải gạo giả kỷ; gỏi thì phải thịt thái nhỏ, v.v. . . Cách cử chỉ như đi đứng của Ngài rất đoan chánh, không từng cẩu thả bao giờ. Khi giao thiệp với hương đảng, Ngài tỏ ra tánh thiệt thà, ít nói. Ở chốn triều đình, Ngài hay biện bạch, nhưng rất kính cẩn. Khi có việc tế tự, Ngài giữ thâm tâm thanh khiết, thành kỉnh, dễ giao cảm với thần minh. Mặc dầu nhà nghèo, tuy ăn cơm gạo xắn, sống nước lả, Ngài vẫn vui vẻ như thường. Ấy là vui theo đạo lý. Còn những sự phú quí không phải nghĩa, thì Ngài coi như là phù vân. Ngài là một người rất nhân hậu. Hễ thấy ai đau khổ, Ngài cũng động lòng thương xót. Nên sách có câu: “Đức Phu Tử ngồi ăn, gần bên nhà người có tang, thì ăn không no. Ngày nào đã đi phúng điếu về, thì suốt cả ngày không đàn hát.” Bình sanh, lúc nào Ngài cũng lo việc sửa mình cho ngay chính. Ngài nói rằng: “Đức của mình không sửa cho tốt, học của mình không giảng cho rõ, nghe điều nghĩa mà không theo được, nghe điều quấy mà không bỏ được, đó là cái lo của ta vậy”. Ngài học điều gì cũng cẩn thận, không hề khinh suất, chưa biết mà đã cho là biết. Ngài là bực Thánh mà vẫn khiêm tốn, không dám nhận mình là Thánh. 3/ CÔNG NGHIỆP Khi 20 tuổi, Ngài ra nhận chức ủy lại, coi sự đong lúa trong kho. Các kho nầy do lịnh của nhà vua truyền lập ra ở các phủ, các huyện để chứa lúa phòng khi thất mùa, mà bán rẻ lại cho dân khỏi đói. Sau Ngài làm Tư chức lại, coi việc nuôi bò dê để dùng việc cúng tế. Ngài chỉ giữ chức nầy chừng 1 năm, vì đến 22 tuổi, Ngài mở trường học tại Khuyết lý, là làng sanh đẻ của Ngài. Qua năm 36 tuổi, vì nước Lỗ có loạn. Ngài phải chạy sang nước Tề. Vua nước Tề hỏi về chánh trị, Ngài trả lời rất vừa ý Tề Hầu. Tề Hầu toan lấy đất phong cho Ngài, nhưng bị quan đại phu trong nước là Yến Anh ngăn trở. Ngài thấy thế, lại bỏ Tề mà trở về nước Lỗ. Về tới nước nhà, Ngài cũng dạy học trò và dụng công suy nghĩ cho tường tận cái đạo của Thánh Hiền đời trước. Đến 51 tuổi, vua nước Lỗ mới dùng Ngài làm quan Trung đô tể, như chức Đô trưởng ngày nay. Trong một năm, bốn phương đều bắt chước cách cai trị của Ngài. Kế đó, Ngài lãnh chức Tư Không, rồi thăng chức Đại tư khấu, như quan Tổng trưởng Tư pháp bây giờ. Ngài đặt ra luật lệ để cứu giúp kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc để định rõ việc tống táng người mất. Ngài làm Đại-tư-Khấu bốn năm, thì vua nước Lổ cất Ngài lên làm tướng quyền nhiếp việc chính trị trong nước. Ngài trị tội một tên gian thần là Thiếu-chánh-Hảo, phạt phải tử hình. Ngài cầm quyền độ ba tháng, mà trong nước đã có mòi thạnh trị. Nước Tề ở kế bên, không cho nước Lổ phát đạt hơn mình, bèn dùng mưu phản gián. Tề hầu mới đem dưng cho vua Lổ một ban sử nhạc, toàn là con gái xinh đẹp, múa hát rất giỏi. Vua Lổ say mê, ba ngày không ra thính chánh. Trong nước, lại có quan đại phu là Quí-tôn-Tư chuyên quyền. Ngài biết không làm gì nên được, bèn từ chức mà sang nước Vệ. Nước Vệ không dùng Ngài, Ngài lại châu du các nước, là: nước Tống, nước Trần, nước Tấn, nước Thái, nước Diệp, nước Sở. Các nước nầy cũng không dùng Ngài, vì thuyết của Ngài là thuyết tôn quan, trái với quyền lợi của chư hầu. Dầu có ông vua nào muốn dùng Ngài đi nữa, thì ông vua ấy cũng bị quyền thần trong nước ngăn cản. Ngài bỏ nước Lổ mà đi ra ngoài hết thảy là 14 năm. Lúc Ngài trở về thì đặng 68 tuổi, đã già nên không ra làm quan nữa. Ngài chỉ lo sắp đặt Kinh Thi, Kinh Thơ, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và giải nghĩa Kinh Dịch. Ngài viết ra Kinh Xuân thu, ngụ ý bao biếm người hay, kẻ dở, người trung, kẻ nịnh ở đời ấy. Ngài dạy học trò tới 3.000 người. Trong số nầy, có 72 người tinh thông sáu nghề (lễ, nhạc, xạ, ngự, thơ, số), gọi là “thất thập nhị hiền”. Sau khi Ngài mất, môn đệ của Ngài làm quan khắp các nước chư hầu. Bực cao đệ có bốn người là: 1.- Thầy Nhan tử mất sớm, 2.- Thầy Nhan tử làm ra sách Đại học, 3.- Cháu Ngài là thầy Tử Tư, tác giả của bộ sách Trung Dung. 4.- Tới đời chiến quốc, có thầy Mạnh tử nối được đạo thống của Ngài, mà làm ra bảy thiên Mạnh tử. Đó gọi là “tứ phối” (bốn bực á thánh). 4/ TÔNG CHỈ Đức Khổng phu tử dạy đạo luân thường, lấy phép “chấp trung” làm cốt. Chấp nghĩa là nắm giữ. Trung nghĩa là khôn thiên vị bên nầy hay là bên kia, giữ một lòng bình đẳng, dùng trí mà điều hòa mỗi việc đến mức ổn thỏa. Đạo nầy phát từ đời Tam hoàng [1] là: Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh Đế. Kế đó là Ngũ Đế: Vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ, vua Thang, vua Văn, vua Võ (hai vua nầy kể làm một ngôi), đều lấy mối đạo nầy mà truyền cho nhau. Đến sau, đức Phu tử mới tập đại thành (sáp nhập lại có hệ thống) các lời dạy của bực Thánh xưa và sửa định sáu kinh, để phát minh mối đạo. Đạo gồm có ngũ thường và ngũ luân. NGŨ THƯỜNG là năm đạo thường. Thường nghĩa là hằng có theo bên mình luôn luôn, không được lúc nào để rời ra. Năm đạo thường là: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. 1) NHÂN là lòng thương yêu cả người và vật coi như thân thể mình, không nở bạc đải một người nào, hay là tàn hại một vật nào. 2) NGHĨA là đo lường sự lý cho được chánh đáng mà không bỏ quên mực công bình. Mỗi việc, nên kinh thì kinh, nên quyền thì quyền, nên sống thì sống, nên chết thì chết, nên tiến thì tiến, nên thối thì thối. 3) LỄ là trong lòng phải thiệt tô kính, ngoài dạng phải có oai nghi, trên dưới , tôn ti đều có trật tự, tới lui, hành động đều có khuôn phép.. 4) TRÍ là xét mỗi việc phải quấy, hay dở, cho rành rẽ, suy xa hiểu rộng, không bị tư dục làm hôn mê. 5) TÍN là tin chắc bốn điều kể trên, giữ nhân thiệt là nhân, giữ nghĩa thiệt là nghĩa, giữ lễ thiệt là nghĩa, giữ lễ thiệt là lễ, giữ trí thiệt là trí, nên lời nói, việc làm không có gì là dối trá. NGŨ LUÂN là năm bực đối đãi với nhau, sao cho nhằm lẽ. Năm bực là: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bậu bạn.
Người ta cũng lấy đạo ấy mà suy rộng ra làm chánh trị, mới có chia ra sáu bộ: lễ, nhạc, binh, hình, tài, phú, mỗi bộ đều có người chưởng chức. Lễ chia ra có quan lễ, hôn lễ, tang lễ, tế lễ, tân lễ. Nhạc có bát âm, lục luật: tông miếu có nhạc, triều đình có nhạc, yến đãi tân khách có nhạc. Theo binh thì đặt kỷ luật, sắp bộ ngũ hàng trận cho khỏi rối loạn. Theo hình thì tùy theo tội nặng nhẹ mà lập luật gia giảm phần phạt, mới hạp công lý. Tài là vụ làm ra có của, thì dạy dân học các nghề, như nông, công, thương, cốt thế nào đặng lợi nhiều. Phú là lo quản lý sự sản, thì hằng năm của cải thâu vào, phải liệu mà chia xài cho có tiết độ. Những điều thông thường và cách thức dạy dỗ theo đạo Nho, hiện còn chép ở trong năm kinh: Thi, Thơ, Lễ, Dịch, Xuân Thu, không kể kinh Nhạc bị vua Tần đốt cháy mất. Về sau, các bực đại hiền lại do đạo thống ấy mà suy diễn ra bốn truyện là: Đại học, Trung Dung, Luận ngữ, Mạnh tử. Năm kinh và bốn truyện nầy là sách căn bổn của đạo Nho. Người học Đạo hãy xem năm kinh và bốn truyện đó, thì đủ rõ tông chỉ của đạo Khổng. 5/ CÔNG HIỆU Đạo học của đức Khổng tử lưu truyền bên Tàu, từ đời Xuân thu chiến quốc cho tới ngày nay. Trong nước có cang thường luân lý, có chế độ lễ nhạc, đều là nhờ đạo của Ngài cả. Những bực thánh đế minh vương, trung thần lương tuấn, những người nghĩa phu tiết phụ, hiếu tử hiền tôn, một phần lớn đều theo đạo Nho un đúc. Nước Tàu đã trải qua biết mấy phen loạn lạc. Nếu không có hạng sĩ phu hữu chí đem thân mình để dạy thiên hạ, gây nên cái phong tục tốt, tạo ra cái tinh thần về thời đại ấy, thì làm sao mà vãn hồi sự an lạc hòa bình trong nước được. Cho nên có người bàn về thế phong, nói rằng: “Xem như phong tục đời nhà Tây Hán đã suy đồi đến thế, mà nay biến ra cái phong tiết nghĩa đời Đông kinh; cái phong tục văn minh đời Tống, thì biết được ngay rằng; trong thiên hạ, không có phong tục nào là chẳng sửa đổi được. Đó là nhờ cái công đề xướng của các nhà vua chúa đời Đông Hán và đời Tống, nên mới gây ra được phong tục như thế đó ”. Lời bàn nầy cũng xác đáng, mà chưa thiệt trọn đủ. Xưa nay, phong tục sửa đổi được, trong mười phần, chỉ nhờ sức cổ vỏ của vua chúa độ chừng vài phân, còn kỳ dư là do sức của các bực sĩ phu huân đào. Nếu không có sĩ phu đứng giữa vòng nước xoáy ấy, trác nhiên mạnh mẽ mà xốc đở nưng cao trình độ dân chúng lên, thì làm sao mong thấy được các sự cải lương thiệt hiện trong xã hội. Người Việt Nam ta có Nho giáo là từ đời ông Sĩ vương ở nước Tàu sang qua đô hộ xứ ta. Nhơn đó, nước ta lần lần thành một nước văn hiến (có văn là diễn tịch, có hiến là người hiền). Cho nên nước ta mới suy tôn ông Bỉ vương làm Nam giao học tổ, nghĩa là ông tổ việc văn học nước Nam. Trải qua mấy đời, các vị thánh đế minh vương trong nước đều trọng Nho giáo. Phàm về những qui mô trị nước, việc chánh lịnh cùng là việc giáo hóa nước ta đều lấy Nho giáo mà suy diễn ra cả. Trên từ triều đình đặng văn đức rực rỡ, võ công hiển hách , dưới tới dân gian biết lễ nghi phép tắc, gây nên mỹ tục thuần phong, đó là chánh cái công hiệu của học thuyết nhà Nho. 6/ KẾT LUẬN Người ta thường cho Nho giáo là môn học thuyết thuộc về nhơn sanh quan, về nhơn đạo chủ nghĩa mà thôi, chớ không phải là một tông giáo. Quả thiệt đức Khổng tử không phải chủ ý lập một nền tông giáo cho đúng theo chánh nghĩa của chữ đó. Nhưng Ngài lợi dụng các tín ngưỡng của quốc dân, mà làm trụ cốt cho học thuyết của Ngài. Như Ngài nói: “Trời phú cho mỗi người một tánh lành, Trời giao mạng lịnh cho ông vua nầy hay là ông vua kia”, đó là Ngài nhận có Trời. Ngài lại nói: “Con người chết thành thần hay là thành quỉ ”, là Ngài nhận có quỉ thần. Chẳng những nhận có mà thôi, Ngài cũng cúng Trời, cúng ông bà, sắp đặt các nghi thức cúng tế cho tăng vẻ oai nghi, long trọng là khác nữa. Như thế, học thuyết của Ngài không phải có tánh cách tông giáo sao ? Nhưng đó chẳng qua là hình thức bên ngoài để dẫn phần đông thiên hạ. Kỳ thiệt, bên trong, Ngài vụ sự mở trí hơn là tình cảm, tín ngưỡng của tông giáo. Học thuyết của Ngài căn cứ ở bốn chữ “cách vật trí tri ”. Cách vật trí tri có hai nghĩa, chẳng khá không biết. Nghĩa thứ nhứt.- Cách là đi tới, đạt thấu. Vật là mọi sự, mọi vật. Trí là mở rộng, phát triển. Tri là tri thức, trí hiểu biết. Cách vật trí tri, nghĩa là: Phát triển trí hiểu biết mọi sự, mọi vật cho đến cùng tận. Nói theo bây giờ là: tìm học cho thấu đáo. Nghĩa nầy là nghĩa thông thường. Nghĩa thứ nhì.- Cách là ngăn đón, cự tuyệt. Vật là sự vật, như nói trên. Cách vật, nghĩa là: đừng cho sự vật chi phối tâm mình, lúc nào cũng phải chống trả với tình tham dục, với thói bất chánh. Trí nghĩa là phát triển như nói trên, Còn tri là lương tri, là tánh hiểu biết thiên nhiên, khác với tri thức là trí hiểu biết do sự học hỏi. Lương tri nói đây tức là lý tánh, chơn tâm, là trí huệ, trực giác. Nghĩa nầy là nghĩa đạo đức cao siêu. Ai đã học rành Nho giáo, đến sau xu hướng về một tông giáo nào mới có thể tìm một con đường chơn chánh mà đi. Cho nên có người quán thông Tam giáo nói rằng: “Huyền và Thích hai đạo có xảy ra nhiều việc mà chẳng biết đối trị, mỗi lần thành ra chứng diên, đều là bởi thấy lý chưa rõ ràng, cưỡng chế cái tâm mình mà ra vậy. Duy có nhà Nho không có việc ma, là bởi đem cái công phu cách vật trí tri mà thi hành trước hết”. Ý nói: Người Nho học hỏi, nghiên cứu tường tận trước khi, nên đến việc làm ít có chỗ sai lạc. [1] Có 6 thuyết : 1) Thiên hoàng, Địa hoàng, Nhơn hoàng; 2) Thiên hoàng, Địa hoàng, Thái hoàng; 3) Phục Hi, Thần Nông, Nữ Oa; 4) Phục Hi, Thần Nông, Khúc đang; 5) Toại-nhơn, Phục Hi, Thần Nông; 6) Coi trên. Rút gọn
Vertical Divider
|
Vertical Divider
TIỂU TRUYỆN
ĐỨC TÂY PHƯƠNG PHẬT TỔ Thuở còn trẻ, đức Phật vốn tên là Tất-đạt-Đa (Siddharta), chữ nầy có nghĩa là: vạn sự như ý, họ là Cồ-Đàm (Gotama). Cha là vua Tịnh Phạn (Suddhodhana), chúa nước Cà-tì-La (Kapila), ở phía đông bắc xứ Ấn Độ, gần núi Tuyết Sơn (Himalaya). Mẹ là Hoàng hậu Ma-Da (Mayadévi). Ngài sanh ra đời, trước Thiên Chúa giáng sanh năm 563, nhằm ngày mồng 8 tháng 4, đời vua Linh vương nhà Châu, tính lại thì cách nay (1954) đã 2517 năm rồi. Nhiều sách xưa ghi là vua Chiêu vương, nay theo sách Từ nguyên là vua Linh vương, mới đúng với các sách khảo cứu của người phương tây bây giờ. Đương khi hoàng hậu dạo chơi trong vườn Lam-tì-ni (Lumbini), giơ tay lên vịn cành hoa, thì Ngài phá nách mà ra. Bấy giờ trên Trời xảy ra nhiều điềm lành, có một luồng ánh sáng soi khắp mười phương thế giái, dưới đất nảy mọc sen vàng. Vừa lọt lòng ra, Ngài đứng sửng dậy, một tay chỉ lên Trời, một tay chỉ xuống đất, bước đi 7 bước, mắt nhìn bốn phương, mà rằng: “Trên Trời dưới đất, duy Ta là lớn”. Tiếng Ngài nói, như tiếng sư tử rống. Bởi đó, về sau mỗi khi Phật thuyết pháp, trong kinh thường gọi là sư tử rống. Lại Ngài có 32 tướng tốt, đại khái như dưới chơn có ngàn khu ốc, hai tay dài quá đầu gối, màu da như màu vàng ròng, trên đầu lồi thịt như có đầu tóc, v.v. . . Có ông Tiên A-tư-dà (Asita) đến xem tướng đoán rằng: “Ngài ở nhà lo việc đời thì làm vua cả thiên hạ, còn xuất gia đi tu thì thành một vị chánh giác (Phật)”. Ngài sanh ra đặng 7 ngày, thì mẹ của Ngài tạ thế, được sanh về cõi Trời làm thiên thần ngọc nữ. Đến 16 tuổi, Ngài cưới vợ là Da-du đà-la (Yasodhara), hạ sanh một người con trai, đặt tên là La-hầu-la (Rahula). Theo thuyết thông thường, Phật xuất gia 19 tuổi (coi vía Phật xuất gia ngày mồng 8 tháng 2), tu khổ hạnh 12 năm, đến 30 tuổi thành Đạo (coi vía Phật thành đạo: ngày mồng 8 tháng chạp), rồi 80 tuổi nhập Niết-bàn (coi vía Phật nhập Niết-bàn ngày 15 tháng 2, có chỗ ghi ngày mồng 8 tháng 10), nhằm đời vua Châu kỉnh vương, lối năm 483 trước Thiên Chúa giáng sanh. 2/ ĐỨC TÁNH Tánh Ngài khác hẳn với người thường. Từ thuở nhỏ, lúc nào gương mặt cũng tươi tỉnh, không có tức giận, chẳng hề la khóc, lạị ưa sạch sẽ. Khi vừa lên tám, Ngài đã thông minh tuyệt vời và có sức mạnh lạ thường. Xem thêm
Buổi học ban đầu, Ngài hỏi thầy Tì-xa-bà-mật-đa-la (Vicvamitra) rằng: Thưa Thầy, Thầy tính dạy con thứ chữ chi ? Rồi Ngài đọc một hơi tất cả 64 thứ chữ khác nhau. Ông thầy ngạc nhiên, không đáp lại được. Còn khi thi bắn, Ngài bắn một mủi tên, soi phủng chín lớp thiết cổ (mảnh sắt). Mủi tên ấy lại còn dư sức đâm sâu xuống đất, thành ra một cái giếng. Khi còn nhỏ, Ngài đã có lòng từ bi. Bửa nọ, Ngài theo Phụ vương đi chơi, thấy cảnh dân nghèo làm ruộng, chân lấm tay bùn, dầm mưa dãi nắng, mình mẩy nám đen, vô cùng mệt nhọc; thấy con trâu kéo cày rất khổ sở, mủi bị dây xỏ, mình bị roi đánh; lại thấy mỗi lần cày đất lúc nhúc những trùng dế, chim muôn trên Trời liệng xuống mổ ăn. Ngài trông thấy cảnh khổ của chúng sanh như vậy, rất động long thương xót, nên từ đó đã tìm tâm cứu khổ cho quần sanh. Đến khi 19 tuổi, một hôm, Ngài đi xa ra cửa thành phía đông, thấy một người râu tóc bạc phơ, da mồi răng rụng, lụ khụ chống gậy đi, chơn rung bây bẩy. Ngài thấy cảnh già như thế, trong long phiền muộn, tự nghĩ: Cái già làm con người suy nhược đến nổi nầy, rồi đây ta cũng chẳng thoát được cái cảnh già ấy. Lần thứ hai, Ngài ra cửa Nam, thấy một người bịnh ở bên lề đường, mình gầy bụng lớn, ngồi đứng không yên, thiết tha rên xiềt, coi bộ đau đớn vô cùng. Ngài thấy cái cảnh bịnh hoạn như thế, thì Ngài lấy làm buồn rầu, tự nghĩ rằng: Như vậy, ở đời có gì là hữu thường, là giữ lâu hoài được ! Cách mấy hôm, Ngài lại đi xe ra cửa Tây, gặp một cảnh còn thê thảm hơn hai lần trước nữa. Ngài thấy một cái xác người chết chưa kịp chôn, hôi thúi, ruồi lằng bay tấp nập chung quanh. Ngài mới nức nở khóc lên, truyền kíp đánh xe về, tự nghĩ rằng: Nếu ở đời kết cuộc ai cũng như đống thịt thúi đó, thì sống mà làm chi ? Lần sau hết, Ngài đi ra cửa Bắc, thấy một người thầy tu, dáng bộ ung dung, mặt mày thơ thới, như người trong lòng vô sự, không có mảy may gì phiền lụy. Ngài đến gần hỏi, thì người ấy đáp rằng: Bần tăng là người xuất gia, đi tu học đạo, quyết trừ hết các ác căn, mà khởi lấy lòng từ bi, dẹp các điều dục vọng mà theo con đường bình đẳng, hộ niệm cho chúng sanh, không nhiễm theo thế tục, để trước giải thoát cho mình, sau giải thoát cho chúng sanh. Ngài nghe qua rất hoan hỉ trong lòng, nên từ đó Ngài quyết định đi tu. Cuộc đi chơi 4 cửa thành nầy, trong sách gọi là “tứ môn xuất du”. 3/ CÔNG NGHIỆP Một hôm, vào khoảng giờ tý, Ngài cởi ngựa trốn ra khỏi thành, mà thẳng tuốt vào rừng. Ngài đi về phía núi Tuyết sơn, cắt tóc, đổi áo cho người hầu ngựa về tạ với vương phụ, rồi một mình Ngài vào rừng để tìm cảnh thanh tịnh mà tu hành. Vua Tịnh Phạn hay tin, sai các đại thần đi khuyên Ngài về, nhung Ngài quyết chí xuất gia không trở lại. Vua bèn sai nhóm ông Kiều trần Như đi tu, để theo mà hầu hạ Ngài. Ngài đi khắp các nơi, tu hết các ngoại đạo, nhưng không có đạo nào giải thoát hết sự khổ. Sau hết, Ngài cùng nhóm ông Kiều trần Như, năm người vào Khổ hạnh lâm mà tịnh tọa tu theo phép khổ hạnh. Ngài tu ở đó sáu năm, ăn mỗi ngày một hột thóc, một hột mè mà thôi. Đến sau, thân thể tiều tụy quá, chỉ còn da bọc xương, Ngài mới tự nghĩ rằng: Ta tu khổ hạnh như thế nầy mà không thấy đạo, thì cái cách tu của Ta cũng chưa phải chơn chánh. Chi bằng Ta theo Trung đạo, nghĩa là theo con đường giữa, không thái quá, không bất cập, chẳng sai mê về sự khoái lạc ở đời, mà cũng chẳng khổ khắc hành hạ tấm thân, cứ ăn uống như thường, rồi mới mong tu thành Phật được. Ngài nghĩ như thế, rồi đi xuống sông tắm rửa. Lúc đó, có một người chăn bò dưng sửa cho Ngài. Ngài uống rồi thấy trong mình khoăn khoái, tỉnh táo lắm. Nhóm ông Kiều trần Như thấy Ngài bỏ khổ hạnh, tưởng Ngài đã thối chí, đều bỏ Ngài mà đi chỗ khác. Còn lại một mình, Ngài đi đền chỗ cây Bồ đề, lấy cỏ làm chiếu mà ngồi, định trong bụng không thành chánh quả thì không chịu đứng dậy. Ngài ngồi dưới cội cây Bồ đề, suy nghĩ về các sự khổ của chúng sanh. Đến đêm mồng 8 tháng chạp, Ngài hoát nhiên ngộ Đạo thành chánh giác, tức là thành Phật. Bây giờ, Ngài vừa được 31 tuổi, tự xưng là Thích ca Mâu Ni Phật. Thích Ca (Sakyya) là giòng giống (chủng tộc) của Phật, có nghĩa là năng nhân (hay làm nhân). Mâu-ni (Mouni) có nghĩa là tịch mặc (vắng lặng, người ưa vắng lặng hay là người tu). Thích Ca Mâu-ni nghĩa là người tu thuộc về dòng giống Thích Ca. Mâu-ni cũng có nghĩa là người nho nhã, nên có nghĩa như chữ văn, bởi cớ, có chỗ gọi Ngài Thích Ca Văn Phật. Khi đắc Đạo rồi, trước hết Ngài tìm nhóm ông Kiều trần Như, thì 5 ông nầy đã về thành Ba-nại-la (Be1narès), tại vườn Lộc dã, vẫn còn tu khổ hạnh như trước. Ngài thuyết pháp độ 5 người đều thành 5 vị Sa-môn, rồi cùng 5 vị Sa-môn ấy đi thuyết pháp khắp nơi, độ tín đồ mỗi ngày thêm đông. Có vua chúa và các nhà quyền quí hộ đạo, cho nên việc truyền pháp rất mau chóng. Sau khi thuyết pháp trong các thành thị lớn, Ngài trở về quê cũ, để độ phụ vương và các quyến thuộc. Rồi Ngài đi thuyết pháp các vùng trung lưu sông Hồng hà, trước sau cộng là 49 năm. Về sau, đồ đệ Ngài đi truyền giáo khắp nơi, lan rộng ra các nước ở Á đông. Nước Nam ta, từ khi làm nội thuộc Trung Hoa, nhờ người Tàu đem đạo Phật truyền dạy. Đạo Phật càng ngày càng thạnh, nhứt là vào khoảng đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê. Đến ngày nay, nơi thành thị, chốn thôn quê, trong nước đâu đâu cũng đều có chùa thờ Phật cả. Đức Thích Ca là đức Phật thứ bảy. Trước Ngài, còn có 6 vị Phật-tổ nữa, nhưng phật pháp đến đời Ngài mới được thạnh hành. 4/ TÔNG CHỈ Đạo của đức Phật Thích Ca lấy hai chữ Từ Bi làm căn bổn. Từ nghĩa là bác ái, yêu mến mọi người cũng như thân mình, muốn cho ai ai cũng đặng lợi ích, yên vui. Bi nghĩa là thấy người nào chịu khổ thì lân mẫn xót thương, muốn cứu vớt họ ra khỏi nạn khổ. Cho nên có chỗ giải rằng: Từ là năng dữ lạc (hay giúp đặng lợi, vui). Bi là năng bạt khổ (hay giải nạn, cứu khổ). Đức Thích Ca trông thấy chúng sanh ở đời, vì lợi dục cám dỗ, nên bị bó buộc trong vòng phiền não. Lúc sanh, lúc già, lúc bịnh, lúc chết, hồi nào cũng là cảnh khổ sở, như ở trong lò lửa. Ngài muốn cho người ta đều khỏi khổ đặng vui. Cho nên sau khi Ngài tu hành đắc đạo rồi, Ngài đi thuyết pháp khắp nơi, trong khoảng 49 năm, chuyên dạy người ta làm lành bỏ dữ. Đạo lý cao siêu của Ngài như là: tứ diệu đế, thập nhị nhân duyên, lục độ, bát chánh đạo, thì nay không thể nói hết được. Đây chỉ lược kể mười điều lành theo Nhơn Thiên thừa của Phật giáo, nghĩa là phép tu làm người ở cõi đời nầy hay là về cõi Trời Dục Giái mà thôi. 1) Phóng sanh – Chúng ta nên xét: loài vật có thân như ta, có tình đau khổ như ta, thì nở lòng nào làm thịt nó cho vừa miệng bụng của ta ? Ngày nay chúng ta thọ giới của Phật rồi chẳng những phải dứt sự sát sanh, mà còn phải phóng sanh là khác. Làm vậy, trước là cứu mạng cho loài vật yếu hèn, sau là un đúc lòng nhân từ của ta càng ngày thêm nảy nở, rộng lớn. 2) Bố thí – Trong cõi thế gian nầy, vì có kẻ nghèo thì nghèo quá, có người giàu thì giàu to, nên mới có kẻ dư người thiếu. Hễ ai thiếu hụt thì phải đói khát, đau khổ. Vậy người giàu cần phải bố thí, nghĩa là lấy của dư của mình mà bù sớt cho kẻ đói khát, tật nguyền, giúp đỡ hạng người già cả bơ vơ, trẻ con côi cút. Nếu người giàu đều làm như vậy, thì những kẻ vô phước kia sẽ đặng giúp đỡ, ai ai cũng ăn no mặc ấm cả. 3) Tiết dục – Dâm dục là nguồn gốc của ái tình, tạo ra cuộc luân hồi khiến cho ai nấy cũng phải lên xuống cõi nầy hoài mà chịu thống khổ. Tuy biết ít người bỏ được nghiệp dâm dục, nhưng cũng phải nhận chắc đó là một nguyên nhân lớn gây khổ, rồi nên giảm bớt chừng nào lại càng quí chừng nấy. Tu thiên đạo thì phải tuyệt dục. Còn theo nhơn đạo, thì khá trừ các sự nguyệt hoa bất chánh. Như thế, con người mới hưỡng lạc thú trong cảnh gia đình, lại nòi giống sau nầy cũng đặng mạnh mẽ, thông minh nữa. 4) Chơn thiệt – Cái tánh dối trá, phỉnh gạt rất độc hại, làm cho người ta mất sự tin cậy cùng nhau. Muốn ngăn ngừa sự dối trá đó, người ta phải lập ra nhiều thứ giấy tờ, buộc bên đối phương trưng đủ bằng cớ, lại còn phải cầu chứng nơi nầy nơi nọ, mới khỏi bị đánh lừa. Vậy chúng ta nên tu hạnh chơn thiệt. Có sao, thấy sao, thì cứ nói ra như vậy, lấy một lòng chơn thiệt mà đối đãi nhau, thì có phải khỏi phí mất nhiều ngày giờ quí báu chăng ? 5) Ngay thẳng – Ngay thẳng là lòng công bình, không thiên vị bên nào, chẳng dua mị kẻ quyền quới mà bỏ bụng kẻ yếu hèn. Dầu có kẻ khác bắt buộc, hăm dọa, cũng một mực theo lương tâm mà cư xử. Mỗi lời nói ra phải cho đúng với sự thiệt. Có ai không khen ngợi người ngay thẳng, dầu cho Thần minh cũng phải khâm phục. 6) Dịu ngọt – Trong thế gian, phần đông người ta, hễ gặp cái chi trái ý, thì cả tiếng lớn lời, hết la, nộ nạt. Xét lại, thì cách ăn nói đó không có chi hay, chỉ làm cho người ta ghét mình mà không muốn gần, giận mình mà muốn báo oán đó thôi. Chi bằng tập tánh dịu ngọt còn hơn. Đối với sự dịu ngọt, kẻ dưới tay mình thường cảm phục; người ngang vai với mình cũng yêu mến; còn bực trên trước, dầu có kẻ bất lương đến đâu, cũng khó trổ ra hết ngón táo bạo, hung ác. 7) Phân giải – Chúng ta thường thấy hoặc ở trong đạo, hoặc ở ngoài đời, phàm có hai người xung đột cùng nhau, thì sự bất bình đó hay gieo tư tưởng buồn bã, ngã lòng ở xung quanh họ. Vậy khi gặp trường hợp đó, chúng ta phải hết lòng khuyên lơn, hòa giải, chớ không nên đem củi mà cứu lửa. Đặng vậy, thì có lo chi trong xóm làng không tạo đặng niềm hòa khí vui vẻ, trong quốc gia, xã hội không thiệt hiện cảnh thái bình của Nghiêu, Thuấn, 8) Lìa dục – Cõi đời này mà không đặng hạnh phúc hoàn toàn, là bởi chúng sanh có lòng tham dục. Tham dục là gốc sanh các sự phiền não. Khi chưa đặng cái sở thích của mình, tâm muốn đặng cái sở thích đó. Chừng đặng cái sở thích đó rồi, tâm lại muốn đặng cái sở thích khác nữa. Luôn luôn không ngừng nghĩ, tâm muốn vầy hay là muốn khác. Té ra cả đời, lúc nào cũng làm nô lệ cho lòng tham dục. Đã biết như thế, thì còn tham dục làm chi cho mệt xác hao thần. Hãy coi danh lợi như phù vân, mặc nó lại lại, đi đi. Con người nên ngó trở xuống, tự so sánh với kẻ thấp hơn mình, thì trong lòng tự nhiên khoăn khoái, vui vẻ. 9) Nhẫn nhục - Ở đời, khi đua chen với nhau trên con đường danh lợi, người ta khó tránh khỏi sự cạnh tranh, xô xát nên hay sanh lòng tức giận. Hễ tức giận thì bầm gan tím ruột, gây ra thù oán, có khi phải chém giết nhau, thành ra mắc tội, ngồi tù, di hại chẳng nhỏ. Nhẫn nhục là một phương thuốc rất hay, để giúp cho con người nóng nảy khỏi bị họa tai và bền tâm vững chí mà làm phận sự cho tới kỳ cùng. 10) Xét lý – Chánh lý là lý xét ra có bằng cớ hiển nhiên, tự mình tìm hiểu, chớ không phải những chuyện vu vơ, của người bịa đặt, mà bặt buộc mình phải tin theo. Nếu thường ngày mình đọc sách Thánh Hiền, chiêm nghiệm cuộc thế, mà biết phân biệt chánh tà, phải quấy, thì tự nhiên những lời mê tín, các thuyết vô nghĩa không còn đứng vững nữa. Lương tâm đặng sáng suốt mới là mong hưởng hạnh phúc thanh cao về tinh thần. Phật lại dạy đến nghĩa luân hồi. Luân hồi nghĩa là người vật luân chuyển đầu thai lên xuống mãi mãi ở cõi thế gian, sống rồi chết, chết rồi sống, không biết chừng nào hết. Ngài lại dạy cho người biết luật nghiệp báo. Nghiệp là việc làm, báo là trả lại. Nghiệp báo nghĩa là việc làm lành thì có lành trả lại, việc làm dữ thì có dữ trả lại. Như theo luật thế gian, có vay tiền của người thì phải lo trả, không sao chạy khỏi được. Thuyết luân hồi và thuyết nghiệp báo có quan hệ với nhau rất mật thiết. Bởi việc làm của người vật có lành, có dữ, nếu trong một kiếp mà không trả hết được, thì phải luân hồi kiếp khác để đền đáp nhau cho rồi. Ngày nào việc làm được trọn lành, nghĩa là hết phạm luật, nghiệp báo trả vay, thì mới thoát khỏi khổ luân hồi, gọi là nhập Niết bàn. Những sự tích luân hồi báo ứng hiện có chép ở trong các kinh sách rất nhiều, kể không xiết được. Mỗi người nên tự tìm các tích ấy mà đọc cho rõ lý: lành siêu dữ đọa, cho biết luật công bình vay trả của trời đất, để tự xét mà ăn ở đời. 5/ CÔNG HIỆU Bàn về chỗ học siêu hình, cao thượng của Phật giáo, thì trong nước ta cũng có ít nhiều thành tích vẻ vang, có ghi trong lịch sử nước nhà. Còn luận về phần phổ thông quần chúng, thì nên chú ý đến những kiết quả tốt đẹp sau này. Nhờ có Phật giáo mà trong nước sanh xuất ra những người thiện nam tín nữ khá nhiều, hoặc riêng cá nhân, hoặc theo công hội, có khi bỏ tiền ra hằng trăm, hằng ngàn, hằng vạn, nào là tô tượng đúc chuông, nào là làm cầu, làm quán, hoặc giúp việc ích chung cho xã hội, hoặc ra tay cứu giúp kẻ góa bụa, đói nghèo. Đó là hiểu được chữ tài thí của Phật giáo. Tài thí, nghĩa là lấy tiền của mà bố thí. Lại có nhiều người rủ nhau lập hội, hoặc in thiện thơ mà truyền bá mọi nơi, hoặc đem kinh sách mà diển giãng ở nơi công chúng. Đó là hiểu được chữ pháp thí của Phật giáo. Pháp thí, nghĩa là đem đạo pháp mà bố thí. Phật pháp cũng có thể giúp việc trị an trong thiên hạ, nên trong sách có câu rằng: “Phật pháp dực vương độ”, nghĩa là pháp Phật dạy người ta lương thiện làm ăn, không có người nào phạm tội, thì thiên hạ được thái bình. Thế thì Phật pháp cũng cho phép luật nhà vua nữa. 6/ KẾT LUẬN Thời kỳ nầy chư Tiên, chư Phật mở đạo, tuy dùng nhiều phương tiện để độ người, chớ kỳ thiệt cũng đều lấy phép Phật làm căn bổn. Vậy thì chúng ta phải rán sức vun bồi nền Phật pháp (Lý thuyết của Phật) cho được vững vàng, trước là chúng ta và con cháu chúng ta ở đời sẽ được hưỡng cảnh thái bình, yên cư lạc nghiệp, sau là linh hồn ta sẽ được trong sạch, trọn lành, thì có lo chi là không được siêu phàm nhập thánh, về chốn Cực lạc Thiên đàng. Rút gọn
|
TIỂU TRUYỆN
ĐỨC THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN Đức Thái Thượng Lão quân là tổ sư của Đạo giáo, nên cũng xưng là Đạo tổ. Đạo tổ vốn là người Tàu (Trung Quốc) ở huyện Khúc-nhơn, nước Sở (thuở trước là huyện Khổ nước Trần). Ngài giáng sanh nhằm ngày rằm, tháng 2, đời vua Châu-Linh-Vương, lối 570 trước kỷ nguyên Tây Lịch). Theo sử ký, họ của Ngài là Lý, tên thiệt là Nhỉ, tên chữ là Đam (Đam nghĩa là lỗ tai lớn, có trái dài thòng xuống). Còn theo Liệt tiên truyện, Ngài cũng là họ Lý, tên thiệt là Nhĩ, mà tên chữ là Bá dương, còn Đam là tên thụy (tên đặt sau khi mất). Thông thường, người ta hay gọi Ngài là Đức Lão tử. Tại sao Ngài họ Lý, mà gọi là Lão tử ? Có ba thuyết khác nhau: 1/ Theo lời giải trong cuốn “Thái Thượng Huỳnh Đình kinh chú”, thì bà mẹ của Ngài có nghén tới 82 năm, rồi nức hông bên trái mà sanh Ngài. Khi sanh ra, râu tóc của Ngài đầu bạc trắng, hình tướng đã già. Ngài chỉ cây Lý làm họ và xưng tên là: Lão tử. Lão là ông già, tử là con trẻ. Ý nói; con trẻ mới sanh ra đã già, hình tuy già mà sức còn trẻ. 2/ Theo truyện Cao sĩ bên Tàu, Lão là già, tử là Thầy. Vì Ngài tuổi cao, nên gọi Ngài là Lão tử, nghĩa là ông thầy già. Đời sau tặng Ngài là Đạo Đức thiên tôn, bởi cuốn kinh của Ngài truyền nhản hiệu là Đạo Đức kinh. 3/ Còn theo Triết học sử đại cương của Hồ Thích, người đời Xuân Thu, khi xưng tên thì trước để tên chữ, sau để tên thiệt. Có lẽ Đức Lão tử tên chữ là Lão, thiệt tên Đam nên xưng là Lão Đam. Lại theo lối xưa, dưới tên chữ, người ta hay them chữ “tử”, chữ “phụ”, v.v. . . (như học trò của Đức Khổng Tử, là Nhiễm Cầu, tên chữ là Hữu, mà gọi là Hữu tử). Cho nên người sau mới gọi Lão Đam là Lão tử. Hồ Thích lại còn nói: Người xưa có hai họ, là thị và tánh rất phân biệt. Kẻ thường dân ở trong bá tánh, y theo họ thiệt của mình, nên gọi là tánh. Còn người giàu sang lấy tên nước, lấy chức quan làm họ, nên gọi là thị. Đức Lão tử là con nhà dòng dõi quí tộc (có chỗ nói Ngài là cháu vua Chuyên Húc), nên tánh thường là Lão, còn Lý thì có lẽ là thị, họ theo quí tộc đó chăng ? Vì Ngài là người ẩn dật, ít ai đặng biết đời sống Ngài ra sao, nên sự tích của Ngài rất khó tra cứu. Nhiều sách chép khác nhau, không biết tin chắc vào đâu. Nhưng có điều mà ta có thể tin được, là đức Khổng tử có đi hỏi lễ với đức Lão tử trong khoảng giữa năm 518 và năn 511, trước kỷ nguyên tây lịch. Xem thêm
Thế thì đức Lão tử ở vào một thời kỳ đồng với đức Khổng tử. Người phỏng đoán đức Lão tử lớn hơn đức Khổng tử lối 20 tuổi và lúc hai Ngài gặp nhau, đức Lão tử đã già có lối 60 tuổi, đương làm quan Trụ hạ sử (giữ tàng thơ viện) cho nhà Châu. Khi trở về, đức Khổng tử khen đức Lão tử như con rồng, nên sách có câu: “Du long chi thán”, chỉ vào lúc hai ngài gặp gỡ nhau đây. Sau nhà Châu suy, đức Lão tử từ chức đi về hướng tây, gặp Doãn Hỉ làm quan lịnh giữ ải Hàm Cốc, có truyền cho ông nầy cuốn kinh Đạo Đức. Rồi từ đó, bặt tích không ai biết Ngài đăng tiên hồi nào, ở xứ nào. Có chỗ nói Ngài đi qua Ấn Độ hay là liễu đạo rồi giáng sanh qua xứ đó, mà không có chi làm bằng cớ chắc. Như trong bài “Xưng tụng đức Thái Thượng lão Quân” chữ Nho có câu: Tử khí đông lai, quảng truyền Đạo Đức, Lưu sa tây độ, pháp hóa Tướng tông. Nghĩa là: Mây đỏ ở hướng đông bay lại (điềm báo tin cho quan giữ ải Hàm Cốc biết rằng đức Lão tử sẽ qua ải đó), thì Ngài truyền rộng bộ kinh Đạo Đức. Qua sông Lưu sa mà đi về hướng tây (xứ Ấn độ), thì Ngài lập phái Tướng tông mà phổ độ người xứ ấy. Trong cuốn “Chánh giáo thánh truyền” của đạo Tam kỳ phổ độ (Thánh thất Bạc liêu Rạch giá) cũng có nói: Giữa đời Châu, thuở Chiêu vương, Đạo quân giáng xứ Tịnh vương độ đời. Nghĩa là: Đức Đạo quân giáng sinh vào xứ Tịnh Phạm vương, làm con của ông vua nầy, tức là đức Thích Ca, mà lập ra Phật giáo độ đời. 2/ ĐỨC TÁNH Đức Lão tử có tánh ưa xem kinh sách xưa. Ngài thường giữ lòng yên tịnh, chuyên lo tu dưỡng tinh thần hơn là dự vào các việc đời. Khi Ngài gặp đức Khổng tử đến hỏi lễ, thấy đức Khổng tử ăn mặc se sua quá, thì Ngài có bảo rằng: “Người quân tử gặp thời thì đi xe (ra làm quan), không gặp thời thì đội nón lá, đi chơn. “ Ta nghe: người buôn bán giỏi, khéo giữ của, ra dáng bộ như người không có gì hết. Người quân tử có đức tốt, coi diện mạo như kẻ ngu dại. “Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng ham muốn. Những điều đó không có ích chi cho ông”. Nghe đó thì đủ biết rằng cách ăn mặc của đức Lão tử rất đơn giản, theo tự nhiên, chớ không chuộng sự khoe khoan bề ngoài. Hai vị giáo chủ đồng sanh trưởng ở nước Trung quốc, nhưng đức Lão tử sanh ở phương nam, còn đức Khổng tử sanh ở phương bắc. Bởi cớ phong khí hai phương khác nhau, nên có người cho rằng cũng vì đó mà tư tưởng hai Ngài ra khác. Đức Khổng tử cho rằng: đời loạn là bởi tại lễ nghi với đạo đức bỏ hư mất cả. Vậy muốn cứu giúp thiên hạ, thì phải chỉnh đốn lễ nghi và đạo đức. Đức Lão tử lại nói rằng: Loài người ta mà tranh nhau là bởi trong lòng có nhiều dục vọng. Nay tuyệt hẳn các dục vọng đi , mà giữ theo lẽ tự nhiên, thì thiên hạ tự họ đặng trị. Xét kỹ, hai tư tưởng nầy thiệt chẳng phải riêng của hai Ngài, mà là chung cho dân phương nam và dân phương bắc, lúc đời li loạn bấy giờ. Hai Ngài chỉ là người đại biểu cho hai dòng tư tưởng đó mà thôi. 3/ CÔNG NGHIỆP Về đời tư của đức Lão tử, thì ta chỉ biết rằng Ngài có ra làm quan Trụ hạ sử đời nhà Châu, chớ không biết chi khác nữa. Về mặt đạo đức, khi đi qua ải Hàm cốc, Ngài có để lại bộ Đạo Đức Kinh, là một bộ kinh căn bổn của Đạo giáo, có giải rõ nghĩa chữ Đạo và chữ Đức (Coi nghĩa hai chữ Đạo và Đức trong cuốn lý thuyết của Đạo Minh Lý). Ngoài ra, Ngài có để nhiều thứ kinh khác, như là: Kinh Cảm Ứng dạy về lẽ lành dữ trả vay; kinh Thanh Tịnh dạy phép tu luyện vô vi; kinh Huỳnh Đình là bộ kinh cao hơn hết của Đạo giáo, dạy cho đến cảnh tuyệt đối hư vô. Theo kinh Thanh tịnh, công nghiệp của đức Thái Thượng Lão quân chẳng phải ở trong một đời giáng sanh lấy hiệu là Lão tử mà thôi. Ngài thiên biến vạn hóa, không sao kể xiết. Từ thuở hỗn độn tới bây giờ, không đời nào mà chẳng có Ngài xuất thế. Như: Đời Thượng Tam Hoàng, hiệu của Ngài là Vạn pháp thiên tôn. Đời Trung Tam Hoàng, hiệu là Uất hoa tử. Đời Thần Nông, hiệu là Đại thành tử. Đời Hiên Viên, hiệu là Quảng thành tử. Đời Văn Vương, hiệu là Nhiếp ấp tử. Đời Võ Vương, hiệu là Dục thành tử. Đời Khương Vương, hiệu là Quách thúc tử. Đời Hán Sơ, hiệu là Huỳnh thạch Công. Đời Hán Văn đế, hiệu là Hà thượng Công. Thuyết của Ngài căn cứ vào kinh Dịch, theo lẽ hóa sanh tự nhiên của Trời Đất. Ngài chẳng phải sáng kiến ra thuyết nào mới, mà chánh là tập đại thành các tư tưởng theo Kinh Dịch từ đời cổ nước Tàu. Thuyết của vua Huỳnh Đế, ta thấy rải rác trong các sách Tàu, rõ ràng là tư tưởng về phái Đạo gia. Cho nên người ta bây giờ thường lấy hai họ hiệp (Họ Huỳnh và họ Lão) mà gọi Đạo giáo là đạo Huỳnh Lão. Khi đức Lão tử còn sanh tiền, Ngài chỉ truyền kinh cho ít người đồ đệ, như Quan Doản Hỉ nói trên là một. Ông nầy là người Tần, sau tự xưng là Văn Thỉ tiên sinh, có làm ra bộ sách, gọi là Văn Thỉ chơn kinh. Lần lần tới nhiều đời sau, có ông Liệt tử phác họa những câu kinh văn vắn tắt, huyền bí cao siêu của đức Lão tử, mà làm ra bộ Xung Hư chơn kinh. Kế đó, lại có ông Trang tử lại là một người rất thông minh và hùng biện cũng binh vực cái thuyết của đức Lão tử, làm ra cuốn Nam Hoa chơn kinh. Nhưng lúc ấy, Đạo giáo còn ở trong thời kỳ triết lý, chỉ có hàng thượng lưu trí thức đặng nếm mùi lai của nó mà thôi, chớ lời dạy của Ngài chưa có phổ cập dân gian. Đến đời Đường, vua Cao tôn tôn Ngài là Huyền Ngươn Hoàng đế. Sau vua Huyền tôn làm điện thờ Ngài ở trong cung. Rồi từ đó đạo Ngài mới bắt đầu mở mang. Đến đời sông Hán, Đạo giáo mới được truyền rộng, do nơi Trương thiên sư. Mà nhứt là sang đời nhà Tấn có Ngụy bá Dương và Cát Hồng hiệu là Bảo Phác tử thừa kế, làm cho Đạo giáo có một nền học thuật hẳn hòi, mới ra vẻ tông giáo được nhiều người sùng bái. Trong liệt thánh quần chơn đắc đạo của Ngài, đặng nhiều nơi trong dân gian thờ phượng, thì có ba vị đế quân rất là nổi tiếng. 1/ Đức Văn đế (tức là Văn Xương đế quân) có giáng bút truyền bộ Âm chất văn. 2/ Đức Quan đế (tức là Quan Công đời Tam Quốc) cũng có giáng bút truyền cuốn Giác Thế kinh và Minh Thánh kinh. 3/ Trong bát tiên, có đức Lữ tổ (tức là Lữ động Tân, tiến sĩ đời Đường) cũng truyền nhiều thứ kinh như Chỉ huyền thiên,v.v. . . Ngoài ra, ba vị Đế quân thường giáng bút ở các đàn tiên mà khuyến độ người ta tu hành. Nhứt là đức Lữ tổ chẳng có đàn nào mà không có Ngài giáng dạy. 4/ TÔNG CHỈ Trước đã nói: Đức Lão tử là người ở phương Nam của Tàu nên có người nói Ngài sao cũng phải chịu ảnh hưởng của địa thế. Ở phương Bắc, khí trời lạnh, đất cát xấu, núi trơ, nước đục. Nhơn dân ở đó vất vả, làm lụng khó nhọc mới sống được, nên phát sanh ra cái thuyết thiệt tiển đạo đức, là luân lý, lễ nghi. Trái lại, ở phương Nam, khí trời đầm ấm, màu đất phì mỹ, cây cỏ tốt tươi. Nhơn dân ở đó làm ăn dễ dàng, thường đủ cơm ăn áo mặc, nên mới phát sanh một thứ triết học cao xa, ưa thích cái đạo tự nhiên. Bởi đó, trong bộ Đạo Đức Kinh, đức Lão tử cũng dạy đạo đức, mà hai chữ đạo đức của Ngài dùng đây không phải đồng nghĩa với Nho giáo. Đạo của Nho giáo là đạo hữu vi, của người định đoạt trái với lẽ thiên nhiên của Trời đất. Còn đức là đức thông thường tương đối của người ta, chưa phải là cao thượng tuyệt đối, đồng với Trời đất. Đạo.- Theo thuyết của đức Lảo tử, chữ Đạo nghĩa là pháp tắc của võ trụ. Ngài cho bổn thể của võ trụ là Đạo. Đạo tức là một cái tên riêng (ký hiệu) của toàn thể võ trụ, là vật trừu tượng, không có hình tích. Đạo vốn hư tịnh (lặng lẽ, trống không), thì bổn thể của muôn vật trong võ trụ cũng đều là hư tịnh. Vậy phải hết sức thuận theo lẽ tự nhiên mà phục qui về cảnh hư tịnh. Đó là các nguyên tắc cốt yếu của đạo Lão. Đức.- Chữ Đức nầy cũng là khác hơn nghĩa thường của nhà Nho. Ngài cho rằng: người đời xưa, bất thức bất tri, vô vi vô dục, lấy đó làm đức, nghĩa là: không hay không biết, tự nhiên không muốn, cũng như đức trẻ nít vậy. Thế thì họ mới thể thao Đạo được. Sau lần lần trí thức phát triển, cái đức tự nhiên ấy mới bị vật dục mê hoặc, thì đại Đạo cũng lần lần bị khuất mất. Rồi Thánh nhơn không xét tới gốc, chỉ lo sửa ngọn, nói ra là nhân nghĩa, việc làm theo lễ nhạc, dễ câu thúc người ta, mà người ta càng thêm xu hướng theo tư lợi. Trật tự của xã hội cũng vì đó mà thêm vặn loạn. Nay muốn chữa sửa lại, duy có theo lẽ tự nhiên mà trở về cảnh hư tịnh, hườn y lại như trẻ nít vậy, nghĩa là: không còn dục vọng, ham muốn trái lẽ nữa. Cho nên Đạo của Ngài lấy hai chữ thanh tịnh làm chủ nghĩa Thanh tịnh, nghĩa là lặng lẽ, trong sạch, không nhiễm bụi nhơ. Bụi nhơ đây chỉ các sự ham muốn theo trần thế. Kinh Thanh tịnh có nói rằng: “Thường dẹp được dục vọng thì cái tâm tự nó tịnh, lóng được lòng thì cái thần tự nó thanh. Tâm tịnh thần thanh, thì tự nhiên lục dục chẳng sanh, tam độc tiêu diệt.” - Tại sao mà Đạo Ngài căn cứ vào hai chữ thanh tịnh ? - Vì:1/ Nếu chẳng diệt dục vọng cho tâm trở nên thanh tịnh, thì đạo tâm lý tánh bị che án hoài, làm sao biểu lộ ra được?. 2/ Đời của Ngài là đời Chiến quốc, chư hầu đâu đâu đều nổi loạn, tranh bá đồ vương, lòng ham muốn vô hạn. Thiên hạ khổ sở, đồ thán, là cũng vì lòng dục vọng của người lên cực điểm. Nếu không dẹp lòng dục vọng đó, thì bao giờ thiên hạ đặng thái bình ? Nhơn đó, người ta cho Đạo của Ngài là Đạo tiêu cực, nghĩa là chỉ lo dẹp lòng dục mà thôi. Người ta tưởng đạo Ngài là đạo yểm thế, trốn đời, chỉ mong ngồi không nhưng không làm gì hết cho được khỏe xác và sống lâu. Lầm thay! Kinh Thanh tịnh có nói rằng: “Chơn thường ứng vật, chơn thường đắc tánh, thường ứng thường tịnh, thường thanh tịnh hỉ ”. Ngũ đức, ngũ nguơn được chơn thiệt, gọi là Chơn thường ứng vật, nghĩa là ứng sự, tiếp vật, giao thiệp với đời. Chơn thường đắc tánh nghĩa là: Chơn thường không theo dục vọng, mà trái lại hoàn toàn thuận hiệp với lý tánh. Câu kinh kia có nghĩa là: lấy Chơn thường mà giao thiệp với người, vật, bất câu là về việc gì, vào cảnh nào, giữ chơn thường hoàn toàn hiệp với lý tánh, đừng cho xen vào một mảy dục vọng. Mỗi lần giao thiệp, thì mỗi lần đều được hư tịnh, thế là được thanh tịnh rồi đó. Trong kinh Đạo đức, lại có câu: “Thượng đức vô vi nhi vô dĩ vi”, nghĩa là: Bực thượng đức là cái chi cũng không hữu tâm, làm một cách tự nhiên. Chữ vô vi đây có nghĩa là tự nhiên, vô dục, chớ không phải vô vi là không làm gì hết. Nói một cách khác: Bực đức cao dường như không cố làm điều đức (vì đức đã cao rộng rồi, nên mỗi việc phát ra tự nhiên), không còn duyên cớ nào riêng bắt buộc phải làm điều đức (chỉ theo lẽ công mà thôi). Chữ: “dĩ ” đây lất nghĩa như chữ “sở dĩ ” (duyên cớ). Rõ ràng Ngài dạy làm phận sự mình cho đúng theo lẽ phải, của lý tánh lương tâm bên trong, chớ đừng có xu hướng theo thức thần dục vọng bên ngoài, mà phải chịu khổ. Nhưng rất tiếc thay, người trong phái đạo, tu chơn học tiên, hễ đọc tới kinh Đạo đức, kinh Thanh tịnh, mỗi câu đều dạy lấy xem “không”, vô vi làm gốc, thì tưởng có một thứ ngồi xem “không”, chẳng làm gì hết, mà đặng nên đại sự. Rồi chẳng tìm hiểu phép tu tâm luyện tánh, tâm tu là phải tu thế nào, tánh luyện là phải luyện làm sao ? Đạo giáo càng ngày càng sa sút là vì lẽ đó. 5/ CÔNG HIỆU Cái tư tưởng của người Tàu, nếu chỉ theo Khổng giáo mà vụ và đường thiệt tế ở đời, lo sự giao thiệp đối đải cùng nhau, nói tắt là chủ về nhân sinh quan, thì chẳng có gì là lý thú, là cao thượng. Ngoài ra những việc thiệt tế bó buộc và câu thúc con người trong một phạm vi rất chật hẹp đó, tư tưởng cần phải giải phóng, vượt cao lên khỏi không trung, để ngoạn xem cảnh minh mông của võ trụ, tìm hiểu lý cao siêu của Tạo hóa. Cái khuyết điểm của Khổng giáo là ở chỗ đó, phải nhờ có Đạo giáo xu hướng về võ trụ quan bổ cứu cho, mới làm nên một nền học thuật vẻ vang cho cả nước Tàu, lưu truyền từ đời thiên cổ tới bây giờ. Phần nhiều những nhà tây học đều cho học thuyết của đức Lão tử chịu ảnh hưởng của giáo Bà-la-môn bên nước Ấn độ. Cho nên chỉ theo lý luận trừu tượng, cầu cho thân mình giải thoát, chớ không phải lo chung cho xã hội. Từ đức Lão tử cho đến các Đạo gia sau nầy đều sinh ra ở phương Nam. Mà phương Nam gần với Ấn độ, kể về địa thế, thì giáo Ấn độ để truyền qua. Liệt tử nói: “Phương Tây có một vị Thánh nhơn, tự nhiên mà làm trị”, là có ý trỏ vào giáo đồ Bà-la-môn, hay là Đức Phật Thích Ca. Lời nầy không phải là không có lý, nhưng sự thiệt thế nào thì ta không được rõ. Có một điều chắc chắn là nhờ chỗ tư tưởng tương tợ đó, mà sau nầy Phật giáo, gốc ở Ấn độ, mới dễ truyền sang qua Trung Quốc. Phái Đạo gia có lúc cũng xung đột với phái Phật giáo để giữ gìn thế lực mình, nhưng thường hay tương y tương ỷ với nhau mà dẫn độ chúng sanh. Hai phái đều chủ về phép xuất thế gian, rất có ảnh hưởng trong xã hội Tàu, nhứt là về mặt Đạo đức và văn chương. Trong lúc Đạo giáo thạnh hành ở Tàu, thì chánh là thời kỳ nước Việt Nam chịu Bắc thuộc. Cuối đời nhà Hán, bên Tàu loạn lạc, có nhiều bực sĩ phu chạy sang nước ta mà lánh nạn. Cũng như đạo Nho và đạo Phật, đạo Lão nhơn đó mới lần lần có người truyền bá qua xứ ta. Bước sang thời kỳ tự chủ, triều đình nhà Đinh sùng bái cả ba giáo hiện đương lưu hành ở trong nước là: Nho, Thích, Đạo. Tới đời nhà Lê cũng vậy. Đến đời nhà Lý, vua Cao Tông lại mở ra khoa thi Tam giáo, thì đủ biết Đạo giáo trong lúc đó cũng thạnh hành lắm. Qua đời nhà Trần, có người đạo sĩ là Hứa tông Đạo truyền sang môn phù thủy trai tiếu (cúng cấp). Ngày nay ở các thành thị và hương thôn, cũng có nhiều đền thờ, đạo quán xưa còn di tích lại, cũng còn nhiều nơi tu về Đại Đạo. Nhưng chơn truyền đã thất, có mấy ai tu hành được thuần chính. Ngoài những người ẩn dật trong rừng núi, chỉ tìm thú thanh nhàn, không muốn dính liếu với đời, phần đông chỉ là hàng đạo sĩ theo môn phù thủy, vẻ bùa niệm chú, làm nghề trừ ma ếm quỉ, mà cứu bịnh để nuôi thân. Thế thì chẳng khác nào bên nhà Phật, có hạng Tăng già trụy lạc, chỉ biết gỏ mỏ tụng kinh, để cầu siêu độ vong linh, mà cũng tự độ luôn cho qua bửa. 6/ KẾT LUẬN Đạo gia muốn đem loài người trở lại với cái sống chất phác tự nhiên theo lối xưa, không tranh giành xấu xé nhau, vì miếng đỉnh chung, vì mồi danh lợi. Mà đời chê là con đường thối hóa, muốn theo con đường tiến hóa mà thôi. Ôi ! Con đường tiến hóa về vật chất có tốt đẹp vui vẻ hay là đầy những chông gai hầm hố, hiện giờ chúng ta đã thấy công cuộc rõ bày nơi trước mắt. Nào là kẻ ỷ khôn hiếp dại, bày ra mưu mô lường gạt, để tranh giành cướp bóc của cải dân lành; nào là người cậy mạnh hiếp yếu chỉ nhờ thần võ lực, dùng oai thế mà áp bức kẻ thế cô làm nô lệ; còn kẻ sức mạnh tương đương lại chia phe lập đảng, tương tàn tương sát, coi mạng người như cỏ rác, làm cho thịt nát máu rơi, đưa loài người đến cảnh cực cùng thống khổ. Ta trông thấy hình trạng của xã hội hôm nay, không thế nào chẳng hồi tưởng tới cái học thuyết của Đạo giáo và những lời của ông Phan kế Bính là một nhà văn chương của nước Nam bình phẩm về Đạo gia: “Người ta có biết được cái thân là nguồn khổ sở, cái trí thức là gốc phiền lụy, thì mới biết được cái tông chỉ ấy là cao. Lại phải xét cho thấu hết việc đời, hiểu rõ hết tánh người, đem một tấm lòng lạc lẽ hư không mà giao thiệp với đời, không có một sợi tơ, sợi tóc nào vướng víu vào lòng cả, thì mới biết được đạo ấy có một cái thú ung dung, nhàn nhã, sung sướng khoan thai !” Loài người còn xu hướng theo vật chất hoài, thì còn thống khố mãi. Nếu người người đều noi theo Đạo giáo mà tu tâm luyện tanh, giữ Đạo tu Đức, trừ hết dục vọng, trở lại bổn tánh thiên lương, thì có lo gì là không quốc thới dân an, thanh nhàn muôn thuở. Rút gọn
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |