BNTĐ NĂM QUÍ SỮU, THÁNG 9 NGÀY 7
(2-10-1973) THI T A M sanh hữu hạnh ngộ chơn truyền, TÔNG chỉ dung hòa để phục nguyên; PHÁP nhiệm huyền công khai BÁC NHÃ, C H Ủ hành nhứt sự hội Nhơn Thiên. CHƯƠNG II LUYỆN KỶ & TRÚC CƠ THI Luyện Kỷ Trúc Cơ Đạo thế nào? Sơ thiền chỉ, niệm Phật như nhau. Chánh tâm diệt dục phần then chốt, Phục mạng qui chân đứng mục đầu. Tự giác , giác tha chung ý tưởng, Hoàn đơn kiến tánh khác gì đâu? Luân hồi khổ hải do mê vọng, Bác Nhã tâm khai rõ nhiệm mầu. TIẾT I PHẦN LUYỆN KỶ Luyện kỷ phục sơ tánh trọn lành, Trăm ngày tận diệt gốc vô minh. Tâm can có chủ thân yên ổn, Tai mắt vô quyền hết sự sanh. Tánh mạng song tu hay nhập thánh, Âm dương lưỡng hiệp đặng trường sanh. Quay về nhà củ không phiền não, Luyện kỷ phục sơ tánh trọn lành. BÀI 1.- Học đạo làm Thánh, Tiên là cao cả, Y Huyền-Môn thông Bác-Nhã chi tâm. Đạo vô vi chí cao cực thậm thâm, Còn sắc tướng, thinh âm sao thấy được. 2.- Hiểu chăng chỉ người có duyên, có phước, Gặp Minh-Sư thì rõ chước tu hành. Tỉnh ngộ rồi giải thoát mọi hư danh, Tu học phép trường sanh là đại chí. 3.- Muốn hạ thủ, trước phải lo “Luyện kỷ”, Luyện thuần thành khỏi uổng phí một đời tu. Cách trau rèn cũng phải lắm công phu, Chí gan dạ cần cù hằng quyết liệt. 4.- Ôi ! Đường đời đầy chông gai khúc chiết, Mà lòng người tình tiết khó lường đo. Tháo gỡ xong thì mới được tự do, Còn dung dưỡng quanh co che lấp đạo. 5.- Tu phải luyện thân tâm cho đảm bảo, Vững lập trường chí đạo tới không thôi. Chí là nơi xu hướng của con người, Theo chí đó chớ đổi dời là “Luyện”. 6.- Ngoài mục đích, cấm lòng đừng quyến luyến, Trừ thói quen, dẹp bao chuyện bên ngoài. “Kỷ” chính là chơn diệu thể Bản-lai, Phép “Luyện kỷ” quay mắt, tai về Tánh. 7.- Luyện kỷ cốt cho ý thành tâm chánh, Mới không lo bị lạc cảnh Bàng-Môn. Chuyển pháp luân, quay ngược bánh Kiền Khôn. Thì muôn kiếp trường tồn đồng Tạo-Hóa. 8.- Tìm hỏng hư, lo bổ bồi đắp vá, Chỗ tánh xưa cẩu thả nhiễm lâu ngày. Bởi lòng người hay dễ động, dễ lầm sai, Ý vọng tác dông dài càng khó phục. 9.- Tâm ý thích rong chơi trong cảnh dục, Sửa cải thường, phút chốc dễ thành đâu. Phép tu hành “Luyện kỷ” đứng công đầu, Luyện cho chính, cho sâu, cho rốt ráo. 10.- Thường chuyên nhứt, quyết không cho trở tráo, Vững một lòng, khảo đảo cũng kiên trinh. Luyện Kim đơn, tu tánh mạng phải minh, Quét lục dục thất tình, ngăn vọng niệm. 11.- Hành hay Chỉ đều phòng nguy lự hiểm, Mỗi sát-na, kiểm điểm chớ buông lòng. Khi thuốc sanh, coi nguồn nước đục, trong, Còn niệm lự, tinh theo dòng nước đục. 12.- Bặt tưởng nhớ, nghĩ lo điều họa phúc, Tinh, khí, thần hoàn phục lại Tiên-Thiên. Còn vọng sanh tâm ô nhiễm trần duyên, Dẫu tác hợp, Hống, Diên hoàn hữu lậu. 13.- Đáng sợ nhứt Kiền khi quay lại Cấu, Giống não phiền còn ẩn dấu chưa tiêu. Chước quỷ ma khéo cám dỗ đủ điều, Người nhẹ dạ dễ xiêu mà lãng sự 14.- Thấy sắc đẹp ngăn ngừa như cọp dữ. Thì chư bang vạn thứ cũng không vừa, Phải đề phòng bịnh ham thích, mến ưa. Cái đã thấy cũng như chưa được thấy, 15.-Cảnh trái ngang khiến lòng người hay nóng dậy, Bất bình rồi đốt cháy cả tâm can. Lửa não phiền dầu sắt đá cũng tan, Chỉ có thể Kim-Cang không bị hoại. Xem thêm
16.- Biết buông xả và từ bi nhẫn nại, Còn có gì lụy hại được thân ta. Ngại lòng người chưa thiệt chịu buông tha, Nên nghiệp chướng oan gia theo quấn bó. 17.- Việc phải làm, thấy việc nào cũng khó, Sự cấm ngăn, muốn chừa bỏ đều gay. Tuy biết rằng đạo đức thậm là hay, Nhưng tâm chí loay quay chưa dứt khoát. 18.- Viện đủ cách để tìm đường thối thác, Nào già nua tuổi tác chậm đi rồi. Hoặc gia đình còn lắm việc lôi thôi, Chờ chồng vợ đủ đôi đi một thể. 19.- Đời còn dài thủng thẳng tu chưa trễ, Đợi con nên vai vế, muộn màng bao ! Ôi ! Kiếp người trăm tuổi mấy ai nào, Lỡ cơ hội, làm sao tìm có lại. 20.- Cứu tánh mạng, việc rất nên trọng đại, Như nước tràn, lửa cháy sát bên chân. Như giặc xua, cọp đuổi nột sau lưng, Như trẻ dại sảy chân sa xuống giếng. 21.- Sự cấp bách, khỏi lý do trưng biện, Sao mới người thông biến khá cân đo. Giải thoát rồi tọa hưởng thú tự do, Bằng vướng víu bó gò trong nô lệ. 22.- Thường nội quán phát Bồ-Đề trí tuệ, Nhiếp sáu căn dồn để cả vào tâm. Tâm phóng ra, dương trở hóa thành âm, Tinh tẩu thất, khó cầm thần tán loạn. 23.- Kho Tam bửu mỗi ngày thêm mỗi cạn, Đành ô hô tánh mạng tự vô-thường. Cái đáng thương mà đành bỏ không thương, Cái đáng sợ lại vấn vương không bỏ. 24.- Muốn tốt lúa, nhổ trừ cho sạch cỏ, Phá vô minh phải cậy có Nguyên thần. Mượn huyển thân mà tạo đúc Kim thân, Cách bảo chánh, dưỡng chân đều tá giả. 25.- Tâm luyến cảnh, lạc hậu thiên sanh hóa, Ý qui trung đều biến giả thành chơn. Bỏ thói quen trừ cựu tập khó hơn, Trước hạ luyện Kim đơn, lo “Luyện kỷ”. 26.- Việc đắc thất tựu trung do ở chí, Chí cho bền, tâm ý cũng chiều theo. Dẫu ngũ trần bám chặt như đỉa đeo, Khôn lánh trước, rủi theo mau hất bỏ. 27.- Núi sông hiểm, ngại ngăn không phải khó, Khó lòng người chí đó có hay chưa ? Luyện tâm viên không chuyền níu ghét ưa, Luyện ý mã hết đong đưa bắt bỏ. 28.- Luyện tình cảm không hoan mê đây đó, Luyện mắt, tai không nghe ngó dâm tà. Miệng, lưỡi không thèm lạt, nói ba hoa, Mũi không thích la đà thơm quyến rủ. 29.- Thân thanh tịnh không dâm mê ăn ngủ, Thảy qui về sở chủ tánh nguyên linh. Khắn khít nhau thành một thể viên minh, Đắc nhứt tánh vô sinh, thần diệu dụng. 30.- Luyện là bớt chỗ dư, bồi chỗ hũng, Chữa cái hư, hàn cái lủng cho thành. Sáu lậu căn, ba lậu nghiệp vá lành, Thì tánh mạng đặng toàn sinh vô hối. 31.-Bước bước nữa, chuyển âm dương giao hội, Tam, Ngũ hoàn một khối phục nguyên sơ. Đó là thông vạn pháp, đạt thiên cơ, Thoát khổ hãi sang qua bờ giác ngạn. 32.- Đọc khẩu quyết trước sau cho tường hẳn, Chỉ thế nào, mà Quán phải làm sao ? Chỉ là dừng tâm tán loạn động xao, Giữ Tam bửu khỏi hư hao qua các ngỏ. 33.- Quán là chiếu soi trong tánh đó, Phá hôn trầm, Thần tỏ tĩnh ngây mê. Nếu ngũ quan biết trông ngược trở về, Hay bồi dưỡng căn đề thông huyết mạch. 34.- Hay hàn vá chỗ rịnh hư thủng rách, Hay an thần rửa sạch những tư tà. Hay thối âm mà dưỡng khí sanh ra, Luyện đến chỗ không ta, ai chẳng khủng. 35.- Vút nanh nhọn bấu vồ không chỗ trúng, Giáo gươm dài khó phủng được hư không. Bởi vô tâm mà chuyển bại được thành công, Tóm lại một chữ “Không” là trọn đủ. T H I : Bước đầu luyện kỷ lắm công trình, Mài, giủa, trui, rèn, gạn lọc tinh. Tật xấu, thói hư đều tẩy sạch, Kiêu căng, tự ái cũng tan tành. Bảy tình, tám thức đồng siêu hóa, Ba độc, bốn tường được vãng sanh, Sàn, sảy, giả, xay, giê trấu bụi, Khuôn Thiên tạo đúc đã nên hình. Rút gọn
|
LUYỆN KỶ VÀ TRÚC CƠ
Luyện Kỷ và Trúc Cơ cốt yếu là chánh tâm diệt dục để phục mạng qui chơn, để tự giác giác tha, hoàn đơn kiến Tánh, tâm khai Bác Nhã, thoát khỏi khổ hải do mê vọng gây ra. LUYỆN KỶ Luyện : là luyện thân tâm cho đảm bảo, giữ vững lập trường chí đạotới không thô, không dời đổi. Luyện cũng là bớt chỗ dư, bồi chỗ hũng, chữa cái hư, hàn cái lủng cho thành. Sáu nghiệp căn, ba lậu nghiệp vá lành, thì Tánh Mạng được toàn sinh vô hối. Kỷ : là chơn diệu thể Bản lai, cấm lòng đừng quyến luyến, phải trừ thói quen, dẹp hết chuyện bên ngoài. Luyện kỷ phục sơ Tánh trọn lành, Trăm ngày tận diệt gốc Vô minh. Tâm can có chủ thân yên ổn, Tai, mắt vô quyền hết sự sanh. Tánh Mạng song tu hay nhập Thánh, Âm dương lưỡng hiệp đặng trường sanh. Quay về nhà cũ không phiền não, Luyện kỷ phục sơ Tánh trọn lành. Mục đích của Luyện Kỷ là cốt phá Vô Minh, để đạt được Bác Nhã Tâm. Muốn hạ thủ, trước phải lo “Luyện Kỷ”. Phép Luyện kỷ là quay mắt, tai về Tánh. Luyện kỷ cốt cho Ý Thành, Tâm Chánh, chuyển pháp luân, quay ngược bánh Kiền Khôn, mới không lo lạc cảnh Bàng Môn, để muôn kiếp trường tồn cùng Tạo Hóa. Phải luyện cho chính, cho sâu, cho rốt ráo, thường thường chuyên nhứt, giữ vững một lòng dù khảo đảo cũng phải kiên trinh. Luyện Kim đơn trước phải lo Luyện Kỷ. Tu tánh mạng phải phân minh, quét sạch lục dục thất tình, ngăn ngừa vọng niệm, không còn tưởng nhớ, nghĩ lo điều họa phúc. Tai, Mắt, Miệng, Lưỡi, Mũi : Mắt Tai không nghe ngó dâm tà; Miệng Lưỡi không thèm lạt, ăn nói ba hoa. Mũi không thích mùi thơm quyến rủ. TRÚC CƠ Trúc Cơ là nền móng để lập địa tu hành. Nền móng phải kiên cố, vững bền, để đi đến chỗ Ta biết được Ta. Móng nền là Bảo Trung, Thủ Nhứt. Nền móng là Tinh Bền, Khí đủ thì Thần có nơi an trụ Thần linh. Tam Nguyên :Nguyên Thần, Nguyên Khí, Nguyên Tinh kết hợp làm Một, là vô sinh thường hằng. T H I : Móng nền tánh mạng đắp cho xong, Niệm lự muôn duyên quét sạch lòng. Tinh chặt, Khí bền, Thần diệu dụng, Mắt ngơ, tai lãng, tánh viên thông. Ngoài thân sáu cửa đà kiên cố, Trong dạ bảy tình đã trống không. Tâm tức điều hòa tiêu vạn bịnh, Dữ lành chẳng biết, ấy huyền công. HỰU : Ai biến Hà-Đồ hóa Lạc-Thơ, Tiên thiên thành Hậu tự bao giờ. Chuyển phàm qui Thánh hồi nguyên vị, Chiết Khảm điền Li phục bản sơ. Tánh mạng song tu, Thần bất muội, Tử sanh lục đạo biển không bờ. Biết đem Hà, Lạc chung làm một, Liền thấy Nhơn Ông Chủ đợi chờ. B À I : 1. Phép “Luyện kỷ”, dọn đường thông ngỏ, Phần “Trúc cơ”, nhẹ khó đỡ lo. Còn chờ chí lớn, công to, Đập tan chướng ngại gay go trong ngoài. 2. Cầu Đại-Đạo, chi nài gian khổ, Muốn tự do, buông bỏ phàm tình. Tháo vòng nhơn quả tử sanh, Chỉ phương giải thoát cứu mình được thôi. 3. Có dừng chơn, mới rồi hết việc, Còn bước thêm, nào biết ngày xong. Tham mê nghiệp chướng gông trồng, Một khi giác ngộ thoát vòng trầm luân. 4. Giác ngộ biết hồng trần giả tạm, Mới thấy mình giam hãm từ lâu. Sông mê cấp tốc hồi đầu, Quay về liền thấy thần châu của nhà. 5. Thấy nơi thân của ta có đủ, Ta thiệt ta, ta chủ Kiền Khôn. Thể đồng Tạo-Hóa Chí-Tôn, Bởi vô minh thức lấp chôn không ngờ. 6. Đã từng sống trong mơ tưởng thiệt, Đã nhận lầm oan nghiệt làm con. Hồng trần là cảnh vàng son, Thức tâm trí thuật hỏi còn chi so. 7. Mới yên phận không lo gì nữa, Đủ tài năng muôn cửa tung hoành. Tháng ngày lặn hụp tử sanh, Cuối cùng nhận cái hư danh dã tràng. 8. Tam-Kỳ gặp Đạo vàng (huỳnh) rộng mở, Một cơ duyên muôn thuở lại về. Vang ầm tiếng trống giác mê, Đuốc thần chong đốt, tư bề sáng choang. Xem thêm
9. Muốn vẹt sạch trần gian u tối, Toan cứu đời tội lỗi khổ đau. Chọn người quyền pháp truyền trao, Khai tâm Bác-Nhã, bước vào Huyền-Môn. 10. Xây ngược máy Kiền Khôn thăng giáng, Quày mắt, tai chiếu quán tâm điền. Tinh thần, hồn phách qui nguyên, Huân chưng một khí, thai Tiên kết thành. 11. Hội may gặp Thầy lành, bạn tốt, Đủ cơ duyên cổi lốt làm Tiên. Lợi căn lại được chơn truyền, Hoát nhiên đại ngộ, đâu phiền nhiều năm. 12. Hành giả còn tối tăm chưa tỏ, Bởi cớ chi trong đó che mờ ? Lâu ngày chẳng lộ sanh cơ, Hoặc chưa đúng phép, hoặc tơ duyên lòng. 13. Hoặc bên ngoài, bên trong xao xuyến, Mà trần căn chuyển biến manh nha. Tu chưa giũ sạch lòng tà, Tịnh chưa thiệt tịnh, đều là chướng duyên. 14. Phép “Trúc Cơ” một thiên tóm lược, Đi sâu vào từng bước công phu. Bước vào mỗi bước, mỗi tu, Tự cường bất tức, cần cù chăm siêng. 15. Nền móng phải cố kiên, kiên cố, Vững chặt bền vạn cổ không lay. Thời gian ngắn ngủi trăm ngày, Những điều cần yếu chỉ bày sau đây. 16. Đường lui tới hỏi Thầy, nhờ bạn, Pháp hành công mỗi đoạn ra sao ? Phần nào làm trước, làm sau, Khác nhau nên biết, giống nhau nên rành. 17. Chỗ lập địa tu hành nên rõ, Pháp “Trúc Cơ” nỗi khó như hà. Khó là ta biết được ta, Bảo-Trung, Thủ-Nhứt thì ra móng nền. 18. Nền móng là Tinh bền, Khí đủ, Thần có nơi an trụ Thần linh. Nguyên Thần, Nguyên Khí, Nguyên Tinh, Tam Nguyên hỗn Nhứt, vô sinh đắc thường. Một, tuyệt dứt lo lường vọng niệm, Mới tránh điều nguy hiểm về sau. Niệm sanh, Ý động, Tinh trào, Thần vong, Khí tán, tâm lao, bại hình. Hai, cố thủ Nguyên Tinh vững chặt, Mắt, tai là giặc cướp lăng loàn. Lọt vào, Tam bửu tiêu tan, Hồn phi phách tán, huyền hoàng lậu đơn. Ba, cầm giữ tánh chơn bất muội, Lòng trống không, rác củi đều không, Dầu là ma lực thần thông, Nương đâu khởi dụng hỏa công cho thành. Bốn, tâm địa không lành, không dữ, Vượt ngoài vòng nhơn sự thị phi. Đạo là vô tác, vô vi, Toàn vô phương sở, còn gì hại ta. Năm, niệm lự dựng ra muôn cửa, Mà duyên trần mới dựa làm nền. “Trúc Cơ” tình sự đều quên, Tử sanh lục đạo xuống lên ngõ nào. Sáu lục căn y vào một chỗ, Thì nền đơn không đổ, không tà. Âm dương, tâm tức điều hòa, Thức thần thanh tịnh hóa ra Nguyên Thần. Bảy, tồn tinh là phần quan trọng, Khỏi lậu hư, dâm vọng lo phòng. Tịnh thì nguồn thức lặng trong, Mới hay hóa khí, mới mong giữ Thần. Tám, khí thuần nuôi thân tiếp mạng, Đủ đầy không bịnh hoạn, sống lâu. Luyện đơn lấy thuốc nhiệm mầu, Kết nên thai Thánh vào chầu Đế-Kinh. Chín, hô hấp phân minh hòa hoãn, Ra vào như không dạng, không hình. Lần lần khí phục, thân khinh, Tiên-thiên Chơn-tức quân bình tự nhiên. Mười, tổng thể qui nguyên hàm dưỡng, Vạn thù không riêng hướng chia nhà. Tinh thần, hồn phách nhứt gia, Phóng quang, Ngũ khí, Tam hoa, Triều huyền. Ấy là Phật, là Tiên, là Thánh, Ấy là Chơn, là Chánh, là Trung. Thần thông biến hóa vô cùng, Tựu hư bất hoại, nhứt hùng, nhứt thư. Lập Huyền-Tẫn đảnh lư công cán, Qua trăm ngày, mười tháng, ba năm. Hoài thai, nhũ bộ chăm chăm, Cửu niên diện bích, chí lăm công trình. Chứng Kim thân Thiên-Đình chiếu triệu, Thần và hình cu diệu vạn năng. Mặc tình lui tới, giáng thăng, Phò nguy tế khổn, độ căn cứu đời. Đó thành tựu trọn nơi cứu cánh, Đây “Trúc Cơ” phần chánh bắt đầu. Đi từ nơi cạn vào sâu, Chơn truyền khẩu quyết thỉnh cầu Thiên ân. H Ự U : Ý căn, tai, mắt cả ba chàng, Say đắm mùi đời kết trái oan. Tam bửu của kho tiêu chẳng tiếc, Tứ tường ngục khổ cứ mò sang. Khai Môn Bác-Nhã chưa hồi tỉnh, Bố phép huyền công mới chịu hàng. Rèn luyện chúng nên tay đắc lực, Đem dùng vào việc luyện Kim đơn ./. BÁC NHÃ THIỀN SƯ (13-10-1973) Rút gọn
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |