MINH LÝ Đạo do Ơn Trên dùng huyền cơ diệu bút khai lập từ năm Giáp Tý(1924). Phật Trời dùng huyền diệu này mà thâu hóa nguyên căn, thành hình TAM TÔNG THÁNH HỘI. Mười sáu năm đầu chuyển cơ lập pháp, khuyến hóa tu hành, gieo đức tin, trao chức vụ, tả kinh, lập giới, kiến tạo, lễ bái, thờ phượng, v.v. . . thành một Tôn giáo mới kết tinh NHO-THÍCH-ĐẠO. Đến năm Canh Thìn (1940), Thần Tiên dạy môn sanh phải tự tu tự học, nghiên cứu và phát minh, tượng trưng hai quẻ: TÙY và PHỤC. Giai đoạn hai nằm trong tình trạng khảo thí, cơ hồ nghiêng đổ, gặp đủ mọi thử thách vô cùng khó khăn, nan giải. Nội bộ ly tán, thiếu đủ phương tiện, nhưng cũng cố gắng bảo trì, soạn luận Dịch Kinh, chuẩn bị cho ngày phục hưng Chánh pháp. Năm Ất Tị (1965), nền đạo MINH LÝ được phục hưng, cửa pháp rộng khai, nguồn ân chảy đến, điển huệ sáng soi, Thần cơ tái hiện. Giai đoạn ba mở một phương trời tươi đẹp vô cùng rực rở, cảnh tượng TAM TÔNG MIẾU tưng bừng sống động. Toàn đạo gội ơn giáo pháp, khởi tâm tu đức lập công, PHÁT ĐẠI THỪA TÂM, TU BỒ TÁT HẠNH. Hồng ân của Trời Phật rót nhỏ đều đều mỗi tuần, mỗi tháng, suốt qua bao nhiêu năm thấm nhuần nơi lòng đạo. Ai nấy cũng được mở to mắt huệ, soi thấy cội nguồn, tỏ tường diệu lý pháp môn “Không thiền Bác nhã”, tin tưởng vai trò sứ mệnh Quyền Pháp của MINH LÝ sẽ thành công, đại dụng cho sau nầy, ở chỗ Thiên Nhơn hiệp nhứt, tâm vật bình hành, dung hợp mọi tinh ba kết thành một nền Tôn giáo cộng đồng. Quyển sách "KHÁI QUÁT VỀ MINH LÝ ĐẠO"là công trình của Môn sanh Minh Lý nhằm góp phần truyền thông phổ quát nền Tân pháp trong Tam Kỳ Phổ Độ. Thời kỳ tận độ chúng sanh thoát khỏi cảnh tận diệt thời mạt pháp.
LỜI TỰA
Tìm hiểu một tôn giáo là việc làm không thể thiếu của mọi người trước khi muốn bước chân vào cửa Đạo. Đó chẳng những hữu ích mà thật cần thiết cho bất cứ ai muốn trở thành tín đồ một tôn giáo. Nó chẳng khác nào ngọn đuốc soi dẫn người đi trong đêm tối. Chẳng những tránh cho ta cảnh sa hầm sụp hố mà còn giúp ta nhìn thấy đường đi trước mặt sẽ dẫn ta về đâu. Đọc “Tìm Hiểu Khái Quát Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu” sẽ cho chúng ta biết công khó của các bậc Tiền bối trong buổi đầu khai Đạo và cho chúng ta hiểu mục đích của các Đấng Thiêng Liêng khai mối Đạo này tại Việt Nam Thánh địa vào thời hạ ngươn mạt kiếp. Biết để thấy cái diễm phúc của mình khi được là đệ tử của Minh Lý Đạo: tội tiền khiển từ vô thỉ được xóa bỏ; được Thầy linh, bạn quí dắt dìu uốn nắn khi chúng ta đi chệch hướng sai đường… như lời Đức Diêu Trì Kim Mẫu trong Thánh Ngôn ngày 5-7-1972 đã viết: “Sở dĩ có thân này mới có tên phàm tục… đến khi giác ngộ vào đạo tu hành thì được đặt cái tên của Đạo, nghĩa là các con sanh ra một lần nữa. Cái tên đời đã chết đi mà sanh tên Đạo. Khi đó là tên mới vào cửa Đạo gọi là Nhập môn. Nay các con ý thức mùi đạo, con không còn lẩn quẩn ngoài sân mà nay con nhập thất (vào nhà). Đó là cái tên thực. Cái tên thực này trên Thiên Đình có sổ, dưới Địa phủ không còn tên. Các con biết mà lo tu để khỏi phụ ơn từ tâm của Mẹ”. Dĩ nhiên nội dung này chỉ là khái quát, song vẫn bao hàm được ý nghĩa tổng quát của vườn hoa tâm linh Tam Tông Miếu - Minh Lý Đạo. Bên cạnh những kỳ hoa dị thảo, phần tâm linh huyền bí sẽ đươc giải bày để chúng ta củng cố thêm niềm tin: có Thương Đế, có Thần Linh ở thế giới vô hình… chẳng những được nghe nói đến mà còn được chứng minh cụ thể qua Thánh Ngôn, Thánh Giáo… do chính Phật, Tiên, Thánh, Thần ban truyền cho Minh Lý Đạo - Tam Tông Miếu. Quý vị đang cầm trên tay những đóa hoa tiêu biểu mang màu sắc của một nền “Tân giáo pháp”, được các thành viên Giáo Lý Vụ chắt lọc từ nội dung kinh sách, từ lời dạy của Ơn Trên, trên nền tảng đức tin kiên cố, hầu noi gương Ân Sư tiếp nối bước đường hoằng dương mối Đạo Trời do chính Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế khai mở. Đặc biệt hơn là vào thời điểm này, với tấm lòng biết ơn sâu sắc, Giáo Lý Vụ cùng toàn môn sanh Đạo Minh Lý đồng thành kính dâng lên của lễ này, nhân kỷ niệm lần thứ năm mươi mốt ngày đăng tiên của Đức Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ Nguyên Quân Bồ Tát Ma Ha Tát. Giờ đây xin mời chư Quý Vị cùng chư Đạo hữu lần giở từng trang tập sách này, dù chỉ mang tính cách khái quát, tiêu biểu về Minh Lý Đạo - Tam Tông Miếu, song có thể giúp chư quí vị hài lòng vì đã giải đáp được phần nào những thắc mắc từ lâu mà chưa có dịp tỏ bày han hỏi.
Rất lòng thành tín Tường Lãng
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH MINH LÝ ĐẠO
I. NGUYÊN NHÂN – XUẤT XỨ VÀ NGUỒN GỐC: A. Nguyên nhân Ơn Trên thành lập Tân Pháp Minh Lý Đạo Đức Hưng Đạo Đại Thánh đã giải thích nguyên nhân Ơn Trên cho thành lập nền Tân Pháp Minh Lý Đạo ở Việt Nam (Thánh Ngôn ngày 27 tháng 11 năm 1965) như sau: “Minh Lý ra đời với một sứ mạng quan trọng là tiếp tục hoàn thành công cuộc cứu rỗi của các nhà đạo học Phật Giáo, Lão Trang, Khổng Mạnh. Sứ mạng có khác thì việc làm không thể giống nhau được. Nếu Minh Lý xuất hiện dưới hình thức một tôn giáo như: Phật Giáo, Khổng Giáo, Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, Cơ Đốc Giáo … thì không có ý nghĩa, mà còn bày nhiều khối, nhiều chi, gây thêm rắc rối cho thiên hạ. Nếu Minh Lý ra đời cốt để truyền pháp độ sanh, giải thoát linh hồn cho nhân loại, thì đã có Tam Giáo rồi. Nếu Minh Lý ra đời chỉ lo giải quyết vấn đề sanh sống, thì đã có các học thuyết, các chủ nghĩa. Nếu Minh Lý ra đời cốt trị an thế gian, thì có các nhà chính trị, đâu cần gì đến ta. Có ta lại càng thêm nhiều mối tranh chấp. Vì tranh chấp, vì dị đồng, vì lý tưởng xung đột, vì tín ngưỡng chia rẽ, vì quyền lợi đảng phái, nên đảng phái cạnh tranh mà “nền đạo mới” phải ra đời. Ra đời để đem lại sự đồng nhứt cho loài người, làm cho chấm dứt những tình trạng thù ghét, rẽ riêng, thì sự thành lập một “Tân Tông Giáo” mới có ý nghĩa. Vậy vai trò Minh Lý phải giải quyết bao nhiêu vấn đề thắc mắc cho nhân loại bằng sự sống, tình thương và lẽ thật giữa loài người. … … … Bổn phận của Nền Giáo Lý Mới (Tân Pháp) ra đời, không lập một pháp gì khác hơn là kết tinh giáo lý, học thuyết Đông Tây kim cổ làm một chương trình để tự tu, tự độ, mà độ dẫn loài người. Cái tinh ba thuần nhứt đó được qui tựu, trở thành một tổ chức dung hòa, mà sứ mạng của chúng ta có bổn phận tiên phong, dọn đường cho một “Đấng Quyền Pháp” trọn lành đến sau. Đấng ấy đủ ân oai chận đứng được nỗi thống khổ đương diễn hành, mà cảm hóa được lòng người trở về cùng Chơn Lý đồng nhứt”. B. Xuất xứ - Nguồn gốc: Tam Tông Miếu và các bài kinh cùng câu liễn Trong kinh Bố Cáo, ông Âu Minh Chánh, một trong sáu vị khai Đạo, đã giảng giải rõ xuất xứ và nguồn gốc Minh Lý Đạo: * Ngày 22-12-1924, Đức Thái Thượng Lão Quân giáng cơ xuống cho bài “Tặng Thiên Đế” và dạy rằng: “Chư nhu tụng kinh chữ, không thông nghĩa lý, nên Ta cho kinh nôm. Kinh nầy vắn tắt, cũng tiện cho chư nhu tụng đọc”. Tiếp theo là các bài “Xưng tụng công đức”, “Dưng hương, bông, rượu, trà”, để đọc khi bày lễ cúng. * Sau ngày 22-12-1924, vào ngày tiếp đặng bài “Tặng Thiên Đế”, Ơn Trên đã dạy tiếp thêm nhiều bài khác nữa, như kinh Nhật Tụng, các bài Khuyên đời, và những bài giải đạo đức: Kinh Sám Hối, Kinh Tịnh Nghiệp Vãn, Kinh Giác Thế. Kế tiếp, Ơn Trên ban Đạo Học Chỉ Nam và Dịch Học. * Tại Thủ Thiêm, nhân đến cầu kinh cho một bằng hữu thọ bệnh, Đức Thái Thượng Lão Quân giáng đàn cho một khoản đầu kinh “Sám Hối”. Lần lần, mỗi khi cúng, đều có Tam Giáo Đạo Chủ, chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần, giáng đàn cho tiếp kinh “Sám Hối”. * Sau Đức Thái Thượng Lão Quân dạy phải lập một ngôi chùa và cho hai đôi liễn như sau: Minhchánh giáo, Đạo truyền thiện hạnh, Lýtrực đàm, đức hóa cường ngôn.
Minhkhai tường Đại Đạo, Lýhiểu đạt thâm uyên. Và dạy rằng: NHỨT niệm tu hành, vạn sự khinh, TÂM chuyên từ thiện, chí năngMINH. THÀNHtư tôn giáo, cầu chơnLÝ, KỈNHtụng thường xuyên, luyện tánh tình.
* Đức Thái Thượng Lão Quân dạy lấy hai chữ MINH LÝ mà làm đạo hiệu, nên từ đó về sau, cứ gọi là MINH LÝ ĐẠO. * Minh Lý Đạo lấy bốn chữ “NHỨT TÂM THÀNH KỈNH” làm Sắc Lệnh, nên Ngài cho hai câu liễn, để hai bên: KỈNH giáo năng tu đức, THÀNH tâm đạo khả hành. * Bởi chùa thờ Tam Giáo Đạo Chủ, nên Đức Diêu Trì Kim Mẫu mới ban cho hiệu chùa là TAM TÔNG MIẾU. C. Chính thức hóa Tân Pháp MINH LÝ ĐẠO Đạo Minh Lý ra đời từ năm Giáp Tý (dl, năm 1924), đến nay là 99 năm, chưa làm được việc chi nổi bật, vì phải còn lo tổ chức, học tập, trau dồi đạo đức và tu thân theo tinh thần tự độ, độ tha và đã trải qua các thời kỳ như sau: 1. Thời kỳ thứ nhứt 16 năm (1924-1940): Khai Sáng Thời kỳ này Thần Tiên dùng Huyền Cơ gieo tín ngưỡng, sau mới dùng Thần cơ để tổ chức các việc hữu hình của một tôn giáo cho đạo Minh Lý. Trước, cho kinh sách Việt Ngữ để tụng đọc, mà Minh Lý Đạo đã ấn tống như Kinh Bố Cáo, Kinh Sám Hối, Kinh Tịnh Nghiệp Vãn, Kinh Nhựt Tụng, Kinh Giác Thế, để dùng trong các cuộc lễ, như Cầu An, Cầu Siêu, …, hoặc dạy thuyết pháp giảng kinh để tiếp xúc với đại chúng. Kế, dạy cất chùa, thứ tự chức sắc, … Về mặt đạo, chỉ dạy tượng trưng hai quẻ Phục và Tùy làm căn bản cho đạo Minh Lý. Thời kỳ nầy có thể gọi là thời kỳ tổ chức hữu hình. 2. Thời kỳ thứ nhì 24 năm (1941-1965): Tự tu học - Nghiên cứu Kinh sách Thời kỳ nầy kéo dài 24 năm, là một khoảng thời gian dài đăng đẳng. Thần Tiên tuyệt dứt Thần cơ, dạy chư môn sinh phải tự tu học. Trong lúc nầy, Minh Lý Đạo bị khảo đảo nhiều mặt: tài chính kiệt quệ, cơ đạo chinh nghiêng, đạo hữu rã rời. Tuy vậy, một số người trung kiên còn ở lại, theo phương pháp của Thần Tiên chỉ dạy, biết lợi dụng lúc rảnh rang do không cầu đàn, ít lễ cúng, mà trùng tu ngôi Tam Tông Miếu, một phần chuyển hướng làm kinh tế để tạo tài lực cho các bạn đồng tu sinh sống. Chính trong thời kỳ này, Ngài Định Pháp Nguyễn Minh Thiện (1897-1972) đã phế bỏ việc đời để chuyên tâm lèo lái mối Đạo. Ngài kết tập Thánh ngôn, Thánh giáo, viết sách, dịch Kinh, trùng tu Thánh Miếu, chuẩn bị xây dựng Bác Nhã Tịnh Đường, hướng dẫn môn sanh theo con đường chánh nghĩa chơn tu, đúng theo chơn truyền Đạo pháp của Minh Lý mà Ơn Trên đã dạy. Trời Phật ủng hộ người lành, nên việc chi cũng đặng thành tựu theo ý nguyện. Thật là: “Nhơn hữu thiện nguyện, thiên tất tùng chi”. Trong thời kỳ nầy, tuy có học và dịch nhiều kinh sách nhưng chỉ giữ ba cuốn: Viên Giác Kinh, Đạo Đức KinhvàTrung Dung làm căn bản. Cho nên thời kỳ nầy có thể gọi là thời kỳ nghiên cứu kinh sách Tam giáo. Chính trong thời kỳ nầy, Ngài Minh Thiện đã biên soạn cuốn giáo lý làm nền tảng cho Minh Lý Đạo là Minh Lý Học Thuyết, để cho môn sanh theo đó mà tu học. 3. Thời kỳ thứ ba (từ năm 1965): Thời kỳ nầy là thời kỳ Khai Cơ Giáo Pháp để chuyển cơ thành Đạo, dấu mốc lịch sử của toàn Đạo. Có một ngày trọng đại mà mỗi môn sanh Minh Lý đạo nên khắc cốt ghi tâm: Ngày mồng 8 tháng Chín năm Ất Tị (2.10.1965), Đức CHÍ TÔN, TAM GIÁO TỔ SƯ, CHƯ PHẬT TIÊN THÁNH THẦN lâm đàn chứng lễ khai kinh “Cầu Nguyện” và ban quyền, ban pháp. KHỔNG môn đệ tử dựng xây đời, THÁNH đức còn chờ đến một mơi. TIÊN Phật lâm phàm khai Chánh Pháp, SƯ đồ gắng bước trở về ngôi. Đức KHỔNG THÁNH TIÊN SƯ dạy rằng: “Cơ Đạo đang chờ các hiền đồ trau tâm sửa hạnh, để thừa hành thiên đạo”. THÁI bình chờ đợi các môn sanh, THƯỢNG đạt làm cho sáng Đạo lành. LÃO luyện tinh thần nên quả giác, QUÂN minh trị thế Đạo lưu hành. Tiếp đến Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN loan báo “Đức CHÍ TÔN giá lâm ban quyền, ban pháp cho chư đệ tử hầu đủ sức dẫn bước đưa đường cho nhân loại trong lúc giao thời, để mở màn một kỷ nguyên an lành cho hậu thế”. NHƯ như mới được phép vô sanh, LAI đáo trần gian tiếp kẻ lành. PHẬT pháp trùng hưng đưa khách tục, TỔ thừa sứ mạng tỉnh đời manh (mê). Đức NHƯ LAI PHẬT TỔ lâm đàn dạy rằng: “Một hồng ân lớn lao cho nhơn loại. Trong lúc đời loạn Đạo suy, mà được Chánh Pháp tái lập để cứu rỗi toàn linh. Đức Như Lai Phật Tổ hân hoan trông thấy cuộc thế ngày mai đang chớm nở: những mầm sống nơi lòng các đệ tử hiện đang rải rác ở khắp nơi. Kẻ đã mang chịu mạng Trời lo đường giải thoát, kẻ còn tiềm ẩn chờ tiếng gọi ở lòng. Thời pháp đã vang dội xa gần, hoặc ở đây, hoặc ở nhiều nơi, trong nhà ngoài nước”. Và Đức CHÍ TÔN lâm đàn dạy Đạo cho Minh Lý môn sanh: NGỌC quí Thầy trao xúm giữ gìn, HOÀNG ân quyền pháp để lòng tin. THƯỢNG hòa hạ mục ơn còn lắm, ĐẾ đạo hoằng khai trẻ gắng bền. Kể từ đây, Đức CHÍ TÔN và TAM GIÁO ĐẠO CHỦ chính thức hoằng khai “TÂN PHÁP MINH LÝ ĐẠO”. Đến đàn cơ ngày 6 tháng 10 năm 1965, nhằm ngày 12 tháng 9 năm Ất Tỵ, Đức ĐÔNG PHƯƠNG LÃO TỔ dạy: Từ đây trở đi, Minh Lý không còn ở trong phạm vi “đoàn thể, hiệp hội”, mà nó đã thànhmột “GIÁO HỘI TRUNG TÔNG ĐẠI ĐẠO”. Cũng trong năm 1965, Ơn Trên có chuyển đồng tử đến giúp cho đạo Minh Lý. Trước tiên, Ơn Trên dạy Châu Dịch Huyền Nghĩa, nói về Thiên đạo, nhứt là giải về quẻ Phục, quẻ Tùy, quẻ Thái, quẻ Kiền, quẻ Khôn, quẻ Thiên Lôi Vô vọng. Kế tiếp dạy nhiều quẻ khác nhằm làm rõ thêm nghĩa đạo lý Tiên Thiên. Trong thời kỳ nầy, Ơn Trên ban cho hai bộ kinh rất quan trọng là “Minh Lý Chơn Giải” và “Đạo Học Chỉ Nam” làm kim chỉ nam cho phương tu của Minh Lý Đạo. Đến năm 1975, nước Việt Nam đã được thống nhất, nền Đạo sống trong an bình. Kể từ khi Ngài Định Pháp Minh Thiện quy tiên (ngày 21 tháng 12 năm 1972, tức 16 tháng 11 năm Nhâm Tý) Minh Lý Đạo mất đi người Thầy mẫu mực, một tấm gương sáng chói về Hạnh - Đức - Tài, đã hướng dẫn môn sanh theo Chánh pháp chơn truyền. Lần lượt các vị chức sắc cao cấp cũng quy tiên nên Minh Lý Đạo rơi vào tình trạng chinh nghiêng chao đảo vì thiếu người hướng dẫn. Nhưng các môn sanh vẫn trung kiên tu học theo các phương pháp của Thần Tiên và Ngài Định Pháp Minh Thiện đã chỉ dạy. Kế thừa Đạo nghiệp của các bậc Tiền khai, tuân theo Pháp môn, Tôn chỉ, Mục đích của Đạo, dù có những giai đoạn hết sức khó khăn cả tài lực, vật lực và nhân lực, nhưng với lòng chí thành tu học, hành đạo và sự lèo lái vững chắc của các bậc Minh sư, con thuyền Bác Nhã đã vượt qua mọi ngăn trở để vững vàng tiến ra đại dương bao la nhịp nhàng sánh vai cùng các Tôn giáo lớn trên cả nước. Và được Ban Tôn Giáo Chính Phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công nhận pháp nhân Minh Lý Đạo - Tam Tông Miếu là tổ chức tôn giáo, theo quyết định số 195/QĐ-TCCP ngày 01/10/2008. Văn kiện này khẳng định Minh Lý Đạo là một tôn giáo chân chính trong cộng đồng liên tôn. Vinh dự này giúp cho Minh Lý Đạo có thêm nhiều cơ hội trong hoạt động đạo sự về các mặt như: Liên giao trong cộng đồng các tôn giáo; các hoạt động từ thiện, xã hội phát triển mạnh, đều đặn và rộng khắp; lập phòng khám từ thiện; ấn tống Kinh sách; hướng đạo, bồi dưỡng cho các em trong Thanh Thiếu Nhi Minh Lý; giao lưu, sinh hoạt Trại với các Thánh Thất bạn; đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt, học tập giáo lý với Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý … II. BA NGUYÊN TẮC LẬP ĐẠO Đạo Minh Lý được lập dựa trên ba nguyên tắc sau: 1. Tam Giáo hiệp nhứt, là giai đoạn phải gom ba giáo đem về một mối. 2. Tam Giáo quy nguyên, là giai đoạn hết còn thấy Tam Giáo nữa, mà chỉ thấy có một gốc lớn, một nguồn đầu. 3. Chấp trung thủ nhứt, là giai đoạn nắm giữ cái gốc lớn, cái nguồn đầu, mà như không nắm giữ, để đi tới cái Đạo tự nhiên Trung Nhứt hay là Viên Nhứt, có đủ vô lượng tánh công đức. Đó là sự dung hòa để đạt đến nhứt lý như trong bài Khuyến Cáo có viết: TAM TÔNG GIÁO, tuy là khác chủ, MINH LÝrồi, phải đủ cả ba. … … Thất MINH LÝ, miếu TAM TÔNG, Phụng thờ ba Đạo, giữ tồn nghĩa nhân. Tìm kinh, kiếm sách tu thân, Độ người tỉnh ngộ vào lần cửa Không.
III. MỤC ĐÍCH, TÔN CHỈ, LẬP TRƯỜNG. Từ những nguyên tắc lập đạo kể trên, môn sanh MINH LÝ ĐẠO phải nhận cho được mục đích để đến, tôn chỉ để làm, lập trường để đứng vững. - Mục đích là dạy việc tu hành để tự độ, độ tha; tự giác, giác tha. Bài Bố Cáo có nói rõ: Lập Thánh thất, tìm kinh văn, Để qui người biết ăn năn tu hành. Hướng đến mục đích thánh hóa loài người, tự mình được giải thoát, hoàn toàn giác ngộ. - Tôn chỉ là dung hòa mọi tín ngưỡng, xu hướng cộng đồng, tổng hợp mọi đường lối, chỉ có một đạo, một tâm, nên người Minh Lý phải nới rộng lòng mình, xích gần lại nhau, không phân chia màu sắc địa phương, giữ đúng tinh thần câu “Thất MINH LÝ nền chung các đạo”. - Lập trường là thuần túy tu hành, không xen một chút tư tình tư lợi để khiến cho thánh đức phải quy phàm.
Ý NGHĨA DỊCH LÝ VỀ NGÀY GIỜ KHAI SÁNG ĐẠO MINH LÝ
A. Ngày giờ khai sáng Đạo Minh Lý. - Lập đàn khai Đạo và ban Đạo hiệu: Ngày chúng tôi đặng lịnh khai đàn là ngày 26 tháng 11 năm Giáp Tý (dương lịch năm 1924), vào lúc 10 giờ tối. Nhưng đến khi khai đàn chánh thức là đã đến 11 giờ khuya (giờ Mậu Tý), bước qua ngày 27 thuộc Bính Tý, tháng 11 cũng thuộc Bính Tý. Thế thì Minh Lý Đạo khai, chẳng những trúng vào năm Giáp Tý (1924), mà tháng, ngày, giờ cũng đều là thuộc Tý cả. Chính là theo âm lịch nhằm: - Năm: Giáp Tý (1924). - Tháng: Bính Tý, là tháng 11. - Ngày: Bính Tý, là ngày 27. - Giờ: Mậu Tý, là từ 11 giờ tối tới 1 giờ khuya, chúng tôi mới đặng hiệu đạo Minh Lý. B. Lý do Ơn Trên chọn năm, tháng, ngày, giờ Tý để khai Đạo. Theo Ngài Nguyễn Minh Thiện, đó là lý do sâu kín mà Trời Phật không muốn nói rõ ra, có ý muốn cho mọi người tìm mà hiểu lấy. Sau đây Ngài xin dẫn sơ ít tài liệu cho các đạo hữu rõ được ý nghĩa, về cái lý sâu kín nói trên. 1. Trong 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, ... , Tý là ngôi thứ nhứt thuộc dương. 2. Tiết Đông chí là nhứt dương sanh trong tháng Tý, ứng với quẻ Địa Lôi Phục có nghĩa là: Phục kiến Thiên tâm (trở lại thấy Thiên tâm). 3. Mặt khác, lấy nghĩa câu: “Thiên khai ư Tý”, nghĩa là: Trời mở tại hội Tý, mà chọn năm, tháng, ngày, giờ đều thuộc Tý để khai đạo Minh Lý. Bởi đạo Minh Lý là Thiên Đạo lấy Tiên thiên nhứt dương sanh mà dẫn người phản bổn huờn nguyên, trở lại gốc xưa. C. Ý Nghĩa Dịch lý về ngày giờ khai Đạo Minh Lý: Quẻ Phục: Trong cuốn Minh Lý Học Thuyết, bài thơ của Thiệu Khương Tiết tiên sinh tóm tắt đủ các lý lẽ nói trên, như sau nầy: Đông chí vào giữa Tý, Thiên tâm mấy thuở sai. Một dương vừa máy động, Muôn vật chửa phôi thai[1]. Mỗi năm, vào giữa tháng 11 thuộc Tý, nhằm tiết Đông chí, một hào dương khí động sanh. Thiên tâm hiện lại tại lúc nầy. Tuy chưa thấy cái tâm nầy lộ ra hình dáng muôn vật, mà chánh nó là nguồn sanh đầu tiên của muôn vật đó. Luận về năm Tý, tháng Tý, ngày Tý, giờ Tý, thì năm, tháng, ngày giờ ấy cũng đều có “một dương sanh” cả. Nhưng huyền diệu nhất là ở tại giờ. Thỉnh xem bài thơ sau đây : Niên trung thủ nguyệt, bất dụng niên, Nguyệt trung thủ nhựt, nguyệt đồ nhiên. Nhựt trung thủ thời, thời dịch nhựt, Thời trung thủ khắc, nhi huyền huyền. Nghĩa là Trong năm lấy tháng, chẳng dùng năm, Trong tháng dùng ngày, tháng cũng hoài. Trong bữa (ngày) dùng giờ, giờ đổi bữa, Trong giờ lấy khắc, diệu huyền thay! Về mặt tâm truyền, giờ Tý dương sanh thì gọi là hoạt Tý thời. Đây là một lối nói tượng trưng, để chỉ giờ riêng trong thân mình. Cho nên kinh xưa có câu: Chẳng phải ngoài trời tìm Tý Ngọ, Trong mình sẵn có “một dương sanh”[2]. “Một dương sanh” đây chỉ hoạt Tý thời, là giờ sống trong thân mình; chớ không phải nói tử Tý, là giờ chết ngoài trời, theo đồng hồ. Giờ sống là giờ “Thiên tâm lai phục”, nghĩa là Thiên tâm trở lại. Không biết giờ nầy thì biết Thiên tâm ở đâu mà tu. Theo kinh Châu Dịch, một dương động sanh là Thiên tâm trở lại, ở trong quẻ Địa Lôi Phục. Tiên Phật truớc không nói gì rõ về việc nầy. Nhưng sau khi Ngài Nguyễn Minh Thiện chiếu theo năm, tháng, ngày, giờ khai đạo, mà nhận ra cái quẻ Phục rồi, thì Tiên Phật giáng bút sau nầy cũng xác nhận y như thế, cho đó là một cái cẩm nang, ai rõ biết được nó là biết Đạo.
[1]Đông chí Tý chi bán Thiên tâm vô cải di. Nhứt dương sơ động xứ, Vạn vật vị sanh thì.
[2]Bất tất thiên biên tầm Tý Ngọ, Thân trung tự hữu “Nhứt dương sanh”.
CẦU CƠ VÀ CHẤP BÚT
Huyền cơ và Thần cơ Đạo Minh Lý khai vào thời Pháp thuộc. Vì không muốn nhà cầm quyền chú ý do có nhiều người tụ tập nên không nói cách khai đạo bằng Huyền cơ. Kỳ thật, Minh Lý Đạo khai đều dùng cả hai phương pháp: Huyền cơ và Thần cơ. Thần cơ và Huyền cơ là gì? Huyền cơ khác với Thần cơ ra sao? Tuy cũng là Thần Tiên giáng dạy mà phương pháp truyền đạt có khác. Thần cơ (Psychographie), Thần Tiên mượn tay của đồng tử người phàm, dùng điển lực mà viết ra. Có khi dùng cơ, có khi chấp bút. Cơ là một khí cụ đặt trong tay đồng tử. Hình cơ như cái giỏ nhỏ, có cán dài độ năm tấc. Đầu cái cán nầy đặng chạm giống mỏ con chim loan ngậm một cây cọ để viết chữ trên mặt bàn. Dùng cơ loan thì phải có hai đồng tử nắm vành giỏ cơ, mà đưa theo sức điều khiển của Thần Tiên. Một người có đủ sức cũng có thể cầm cơ một mình được. Nếu chấp bút thì dễ dàng hơn. Chỉ một đồng tử nắm cây bút chì trong tay mặt, tịnh tâm mà tiếp điển và viết ngay trên tờ giấy trắng để sẵn trước mặt. Vì vậy mà khi nói: Phò loan, thủ cơ, chấp bút, thì đều hiểu là: Thỉnh Tiên. Còn Huyền cơ (Pneumatographie), Thần Tiên tự viết ra, không cần có tay người đồng tử xen vào, cũng không có cái cơ hay là cây bút chì làm dụng cụ để viết theo cách của Thần cơ. Không biết các vị Thiêng Liêng viết cách nào mà khi mở tờ giấy treo trên xà nhà, ta thấy có chữ hiện ra rõ ràng đủ ý nghĩa, đúng điều ta muốn hỏi. Nhờ có Huyền cơ mà số người mến Đạo bắt đầu tin chắc trong cõi thế giới vô hình quả thật có Trời, Phật, Tiên, Thánh, không còn ngờ vực gì nữa.
TIÊU NGỮ MINH LÝ ĐẠO
Tiêu ngữ Minh Lý Đạo gồm ba cương lãnh Bình Đẳng - Cộng Tác - Hòa Ái Ý nghĩa chữ Tiêu ngữ: Chữ Tiêu, cũng đọc là phiêu, có nghĩa là cây nêu (như nói mục tiêu hay mục phiêu). Chữ Ngữ nghĩa chánh là lời nói. Hai tiếng tiêu ngữ ráp lại có nghĩa là: Một câu hay nhiều chữ nêu ra mục đích chánh đáng, chí nguyện cao cả của một dòng dõi hay là một chi phái nào giúp cho mỗi người biết đại lược và chú ý đến cái mục đích của dòng hay là phái mình mà tuân hành. Dẫu không trùng khớp hoàn toàn, nhưng không quá xa lẽ Đạo (bất trúng tác bất viễn). ¯
BÌNH ĐẲNG
Bình nghĩa là: bằng thẳng, không có gồ ghề cao thấp, như mặt nước ao hồ khi trời lặng gió. Đẳng nghĩa là: thứ bậc, có cao có thấp như thượng đẳng, trung đẳng, hạ đẳng. Hiệp hai chữ lại, bình đẳng có nghĩa là: đồng hàng, ngang bực cùng nhau, không phân cao thấp, hơn kém. Bình đẳng có nhiều nghĩa, hoặc thuộc về chính trị, hoặc thuộc về kinh tế, hoặc thuộc về xã hội. Đó là nói về lúc bình thường, vô sự. Nhưng đến lúc làm việc, lễ bái, nhóm họp phải giữ trật tự theo phận sự của mỗi người, tôn kỉnh bực Chức sắc cao cấp, lớn tuổi, thì mới tránh được các sự hỗn độn, thất bại đáng tiếc. Bình đẳng của ba tôn giáo lớn ở phương Đông là Phật, Đạo, Nho đều chủ về Tâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: Hễ Tự Tâm có bình đẳng, thì sự sự vật vật mới bình đẳng. Thật vậy, nếu Tâm còn ưa ghét, thân sơ, không chừa các ác nghiệp như: sát, dâm, đạo, vọng, chưa dẹp cái tư tưởng ích kỷ hại nhơn, thì dẫu tán dương lý thuyết bình đẳng đến đâu, cũng chỉ là bình đẳng đầu môi, ở cửa miệng mà thôi. Vậy mới biết, duy có bình đẳng trong tâm mới là chơn bình đẳng của muôn vật. Chơn bình đẳng kia tức là cái nòng cốt, cái tánh bổn nhiên của muôn sự vật, chỉ vì chúng ta còn chấp ngã, chấp pháp, nên không thấy được Thể Tánh Bình Đẳng ấy. Ngày nào, chúng ta bỏ chấp hai thứ đó, thì tự nhiên cái Tánh Bình Đẳng sẽ hiển hiện ra rõ ràng. Ai cũng đồng có Đạo, đều có Phật Tánh hay là Bổn Tánh Bình Đẳng, người nào cũng giống người nấy, vốn có một không hai. Cho nên cuốn Đạo Học Chỉ Nam viết: “Trời Đất, người vật đồng có một nguyên lý như nhau. Trên đời, chỉ có một bổn thể ấy bình đẳng, hằng hữu mà thôi, ngoài ra là hiện tượng vạn vật, tất cả đều là sai biệt, biến dịch không ngừng”. Kinh Phật gọi cái bản thể ấy là “bất biến nhi tùy duyên, tùy duyên nhi bất biến”. Nghĩa là: Cái bổn thể chẳng dời đổi mà có duyên khởi thì phát hiện, tuy là phát hiện theo duyên khởi mà vẫn không dời đổi. Theo Nho giáo, thầy Châu Tử cũng nói một câu đồng ý nghĩa đó: “Thánh nhơn chi tâm hồn nhiên nhứt lý, phiếm ứng nhi khúc đáng, dụng các bất đồng”. Nghĩa là: cái tâm của Thánh nhơn chỉ có một Lý bình đẳng. Nếu đem nó ra mà dụng khắp các nơi, thì có công dụng khác nhau bất đồng. Khi người đạo sĩ đã tu chứng vào cảnh Niết bàn rồi, thì tâm linh đã thật hiện rồi, dứt hết mọi thành kiến, nên đâu cũng là Đạo Tràng, đâu cũng là cảnh Phật, là Vô trụ xứ, là Tự Tánh tinh. Đó là đạt cảnh giới của Phật rồi, nhưng phải thối lại một bước, để làm phận sự Bồ Tát. Vì cớ đó mới có thuyết: Có vị Bồ Tát giác hạnh viên mãn thành Phật, mà vẫn ở lại trần gian để độ chúng sanh (Tự giác, Giác tha), chớ chưa về Niết bàn. Trở về trần gian để độ chúng sanh mặc dù thấy người vẫn là người đó, cảnh vẫn là cảnh đó, chỉ khác là không còn phân biệt, chia rẽ, mà coi tất cả đều bình đẳng như nhau, tự nhiên mà hợp Đạo, tức là đặng cái “Bình thường tâm” của phái Thiền Tông, hay cũng gọi là “Bình đẳng tâm” vậy. Trở về nhập cuộc với thế tục, dưới lớp áo nầy, người đạo sĩ trộn lẫn vào cát bụi của tình đời. Đạo sĩ không khoác vẻ Phật hay vẻ Bồ Tát, mà chỉ là một người thường, rất thường, khác chăng là vì vô tâm vô sự, không dính mắc trong danh lợi đua chen, một “vô vi chơn nhơn”, vào rừng không khua lá, vào nước không quậy sóng. Trở về với thế tục là trở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy: “Bình thường tâm thị đạo”. Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình, lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình, chứng được đạo lý ấy thì làm gì cũng hợp Đạo. (Ý nghĩa họa đồ số 10 trong Thập Mục Ngưu Đồ). Nói về Bình Đẳng trong Minh Lý Đạo, Đức Trần Đoàn Lão Tổ giáng đàn truyền đạt lời dạy của Đức Thái Thượng Đạo Tổ (TN 20-8-1928): “Đạo Tổdạy Ta đặt các chức trong Đạo đều phải lấy theo bình đẳng mà đặt. Chức sắc Minh Lý Đạo có tám bực, và mỗi chức sắc có chỉ rõ đại lược công phu nhứt định. Tên mỗi bực có ba chữ, chỉ khác nhau có một chữ đầu như Hướng, Chí, Tâm, Thanh, Khiết, Vĩnh, Siêu, Giác” và đều bình đẳng là Tịnh sư hay Tịnh cô. ¯
CỘNG TÁC
Cộng nghĩa là: hiệp hai thành phần khác nhau, hoặc nhiều thành phần để ráp thành một kết quả tổng quát lớn hơn, cũng gọi là hiệp tác. Tác là tác vi, hành động. Cộng tác có nghĩa là: nhiều người chung sức, có mạnh có yếu, tiếp tay với nhau mà làm nên một việc nặng nề. Hoặc mỗi người có một khả năng đặc biệt, ráp lại các khả năng đó, để làm một việc mang lại hiệu quả lớn hơn. Tỉ như xây cất một cái nhà, cai trị một nước, sáng lập một mối đạo. - Đây nói cộng tác, là cộng tác bằng cách nào? - Như cất một cái nhà, phải có đủ thợ hồ, thợ mộc, thợ đúc béton, ... ai ai cũng đều rõ biết. Một ví dụ khác như cộng tác trong âm nhạc: “Tiếng trầm, tiếng bổng, tiếng thanh trong, tiếng đục vẫn điệu hòa vào nhau dưới tay điều khiển tế vi của nhạc trưởng. Nhạc âm không chống chỏi nhau, mà trái lại nương tựa nhau, hòa quyện vào nhau, tương nhượng nhưng nâng đỡ nhau, khiến cho người nghe say sưa thưởng thức, quyến luyến nhau không rời được”. Cộng là chung tâm hiệp sức, tác là tác vi hành động. Phàm ở trong một đám đông, một tập thể nào, nếu ai cũng tưởng nghĩ đến quyền lợi tối cao, sự hữu ích chung mà làm việc, tức là cộng tác vậy. Cho nên bình đẳng có giá trị là nhờ biết cộng tác. Có bình đẳng mới được tự do. Mà tự do chẳng phải muốn làm chi thì làm, hại ai mặc kệ, miễn mình có lợi thì thôi. Trái lại, ta chỉ có quyền làm việc lợi ích chung, tức là làm theo nghĩa cộng tác nói đây. Nếu vô cớ ta làm việc có tổn hại người ta, tức là phạm đến sự tự do của kẻ khác, thì ta đã làm mất nghĩa chữ bình đẳng rồi. Về mặt Đạo, Cộng Tác nghĩa là: Có việc lợi ích cho đạo, cho đời, thì người môn sanh phải chung lưng đâu cật, hợp tác chặt chẽ, mới mong tạo được hạnh phúc chung và làm tròn phận sự của Phật Tiên giao phó. Vì lẽ đó, các tôn giáo đều khuyên chúng sanh, làm lành, làm phải, giúp đỡ lẫn nhau. Tiếc thay! Vì chúng sanh chưa hiểu triệt để lý thuyết bình đẳng, nên không sao tránh khỏi sự hiểu lầm lạc, rồi bị vật dục lôi cuốn, đến nỗi phải thù hiềm, chém giết lẫn nhau. - Tại sao? - Vì luật hiện hành chỉ là một luật của người thế gian hội nhau lấy phàm tâm mà đặt ra, không thiên bên tả thì cũng ngả về bên hữu, phần nhiều còn thiếu sót. Rồi người đứng ra thi hành, về mặt cá nhơn, lại có ý thiên vị, riêng rẽ, thì làm sao mà tránh khỏi lỗi lầm trong sự phán xét, xử đoán. Họ chỉ tìm hiểu về công dụng, mà ít để ý về bổn thể. Có để ý về bổn thể, như cây nêu dẫn đường, thì mới có thể nhứt luật thi hành, chỉ khác nhau là tùy theo trường hợp hữu ý, vô ý, nặng nhẹ ... mà thôi. - Mà bổn thể là gì? - Là Đạo, là Lương tri, Lương năng, là Thiên chơn, Phật tánh, tức là Bản nguyên sơ thỉ, nghĩa là: nguồn cội của Trời Đất Người (Tam Tài). Sách Đạo Học Chỉ Nam viết: “Muốn tìm biết cái Đạo, thì phải nhờ ở học. Học là noi theo, là bắt chước lấy. Có noi theo đó, bắt chước lấy đó, thì mới đồng nhứt với Đạo được”. Cho nên sách Trung Dung viết: “Suất tánh chi vị Đạo”, nghĩa là noi theo bản tánh mới gọi là Đạo. Nhưng học có nhiều cách học, chẳng phải học theo lối thường bằng lý trí mà hiểu biết được Ðạo, vì lý trí chỉ dùng giác quan mà hiểu hiện tượng bên ngoài, không thể đi sâu hơn nữa. Phải học bằng Tâm linh, bằng Thần, học cho tinh nghĩa nhập thần, mới là thông suốt đến bổn thể. Xưa có câu: “Nhứt bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhứt bổn”, nghĩa là: Nhứt bổn là cái Đạo nói trước kia rải rác khắp nơi, bây giờ là thời kỳ phải trở về với Đạo là Nhứt bổn. Nếu không hiệp tác thì làm sao qui nhứt mà trở về với Đạo được. Không về với Đạo, thì phải chịu luân hồi sanh tử, không biết ngày giờ nào được giải thoát khỏi các sự đau khổ ở Trần gian. Thế thì cộng tác nói đây có một mục đích tối thiêng liêng là cùng tu giải thoát. Người trong đạo nên nhớ luôn luôn hai chữ: “Cộng tác”, thì chúng ta mới đạt mục đích. Không nên vì bất cứ một lý do nào, mà sanh lòng nghịch lẫn nhau, chia rẽ nhau, vì đó là tự mình giam hãm trong cửa luân hồi sanh tử. Hơn nữa, cộng tác vì một mục đích cao cả, chơn chánh, ích lợi chung cho mọi người, cho tất cả nhơn quần xã hội. Tỉ như giúp đỡ nhau trong cơn tai biến, hoạn nạn khổ đau, hay là dìu dắt nhau để học hỏi mở trí, để tiến bước trên con đường lành, theo lẽ chánh Đạo, chớ không phải vì quyền lợi cá nhơn, cầu sự giàu sang riêng cho mình. Nếu ai muốn tìm quyền lợi cá nhơn, cầu sự giàu sang riêng cho mình, thì nên biết trước Đạo không mong cầu như thế, sau nầy có thất bại hay bạn Đạo không giúp thì đừng thất vọng hay oán trách…
HÒA ÁI
Hòa Ái có nghĩa như thế nào? a. Trước hết xin giải nghĩa chữ Hòa. Hòa nghĩa là: thuận thảo với nhau, vui hiệp cùng nhau. Trái với chữ Hòa là có lòng chia rẽ, chống báng công kích lẫn nhau. Vậy hợp mà muốn hòa cũng có điều kiện, cũng có mức trung, nên cũng phải có phương pháp, chớ không phải nói hiệp suông mà hòa được. Trên đời, mọi người đều có tánh tình khác nhau. Mỗi làng, mỗi xứ, mỗi nước tùy theo phong thổ, tùy theo địa thế, tùy theo chế độ nước nhà, cho đến sự ăn mặc, nhà ở, bởi khí huyết, tình thức, mỗi người đều không ai giống ai. Nay muốn hòa, thì chẳng phải một bên mà hòa được. Phải đồng lòng với nhau, hy sinh tiểu tiết, giữ vững đại tiết, nghĩa là chọn một mục đích chung mà theo đuổi. Sách Luận Ngữ nói: “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhơn đồng nhi bất hòa”. Nghĩa là: người quân tử hòa thuận với mọi người, mà không đồng một chí hướng theo họ; còn kẻ tiểu nhơn đồng với nhau về chí hướng, mà ít hòa thuận cùng nhau. Đây là có ý nói: người quân tử, mặc dầu không đồng chí hướng với kẻ khác, nhưng vẫn giữ tình hòa thuận, không lộ vẻ bất bình hay là công kích nhau thậm tệ, như ta thường thấy trong xã hội đời nay. Còn kẻ tiểu nhơn tuy đồng chí hướng như nhau, nhưng chí hướng này chắc là không có gì cao thượng, nếu chẳng phải vì danh cũng là vì lợi, cho nên thường có chỗ rầy rà hay tranh giành về vị trí cao thấp, ít nhiều. Đủ thấy hai hạng người khác nhau khó mà hòa. Còn cùng chung một hạng với nhau, mà người người đều bỏ nhân nghĩa, đồng chủ về danh lợi, thì cũng không thể nào hòa cho được. Sách Trung Dung viết: Mầng, giận, buồn, vui chưa phát hiện thì gọi là Trung (Trung là cái tánh chưa bị ô nhiễm, chưa có ngã ngũ theo một bên nào). Khi nó phát hiện ra trong cùng một lý lẽ, một mục đích thì gọi là Hòa (hòa là cái tình trung chánh, chẳng có gì trái tính đối với mọi người). Trung là gốc lớn của thiên hạ, Hòa là con đường đi chung cho tất cả thiên hạ. Tâm chưa ngả theo một bên nào, nghĩa là: Chưa thấy tỏ vẻ giận, ghét … thì gọi là Trung. Trung là Tình chưa phát hiện, chưa chi phối, chỉ có một mối, thì gọi là Thiên Mạng chi Tánh. Còn Tình phát hiện, vào mỗi trường hợp có khi nhằm lẽ, có khi không nhằm lẽ. Tình phát hiện nhằm lẽ thì gọi là Hòa. Vậy cái Tánh còn ở trong thời kỳ “Trung”, không có mầng, giận, buồn, vui đối với một ai, thì có gì mà gọi là lành, là dữ, nên gọi là tuyệt đối. Chừng tâm động rồi thì niệm phát sanh ra thất tình, lục dục… Lúc ấy chia ra hai phần: hễ nhằm lẽ, thích ứng, là lành. Bằng không nhằm lẽ, trái ngược là dữ, là ác. Trong giao tiếp hàng ngày, người và người đối với nhau, thì làm sao đôi bên chẳng có tình phát sinh. Nếu phát sinh vào trường hợp chánh đáng, thì gọi là hòa. Đã hòa tất nhiên sẽ được yên ổn, vui vẻ, thì đâu còn có trở ngại nào mà không chung cùng với nhau. Cho nên nói rằng: Hòa là con đường đi chung cho tất cả thiên hạ. Hòa cũng là dung (dụng), mà dung phát ra trúng tiết mới gọi là Hòa, bằng không trúng tiết thì đâu phải là hòa. Sách Trung Dung giải: “Hòa giả, phát nhi giai trúng tiết”, có nghĩa Hòa là (mừng, giận, buồn, vui) phát ra trong mỗi trường hợp, phải cho nhằm lẽ và đặng trúng tiết. Nhằm lẽ, trúng tiết là: đừng thái quá, bất cập, luôn luôn phải có chừng mực, có lễ độ. Mà muốn có chừng mực, có lễ độ, chúng ta phải nhắm vào mục tiêu và chương trình hành động chung đã vạch sẵn. Những người làm việc không mục đích và không chương trình cũng như có một sợi dây, mà mỗi người trì kéo mỗi hướng. Đó là ban đầu nói có hiệp nhau thì hòa, rồi sau có sự xích mích nhau mà trở lại bất hòa, chia rẽ, chống báng nhau. - Tại sao? - Vì ban đầu cùng nhau thành thực thì cái chi cũng tốt cả. Sau lâu ngày vì quên lãng mục đích của Đạo và không hiểu rõ tiêu ngữ của Đạo nên tha hồ để cho dục vọng làm chủ mình. Sách Đạo Học Chỉ Nam viết: “Hiệp hòa không phải là buông thả con người vào đám đông để mặc cho sóng đời trôi dạt. Hiệp hòa không phải chỉ một điều tiêu cực, là theo thiên hạ và chạy đua cùng thiên hạ. Hiệp hòa cùng tha nhơn, mà không thực thi lấy cái mục đích đã định, thì sự hiệp hòa chẳng đúng với chính danh của nó. Hiệp hòa là phương tiện hữu hiệu, đối với tất cả cá nhơn muốn đi đến một xã hội an bình, một thế giới tiến hóa trong tương ái, tương thân”. Sách Đạo Học Chỉ Nam lại viết thêm: “Hợp tác mà không hòa, thì hóa ra là không hợp. Hiệp lại với nhau trong bầu trời hòa ái, mới đưa đến kết quả mong muốn. Hiệp và hòa là hình với bóng. Hiệp là ngôi nhà, hòa là nền móng Ngôi nhà đại đồng có đứng vững hay không là phải đủ hai điều kiện tác động đó”. Tuy tâm tánh khác nhau, mà luật tự nhiên vẫn đồng có một. Nếu ai cứ giữ theo cái nhịp nhàng tự nhiên đó mà hành động, thì tâm tánh ta sao lại không hòa với nhau? Vẫn biết tánh mỗi người mỗi khác - đây là nói về tánh khí chất, tánh tập quán, nhưng nếu người người đều theo bổn tánh - đây là nói về tánh tự nhiên Trời phú cho mình. Cái bổn tánh tự nhiên nói đây tức là lương tâm, lý tánh. Khi nó hợp với một sự việc nào, ta có thể khuếch trương nó mãi mãi đến cực điểm. Chữ Hòa tuy có nghĩa là hiệp đồng mà còn thấy dáng sai biệt của mọi sự vậy. Chữ Ái mới là đi đến một bổn thể bình đẳng chơn chánh. b. Sau đây là nghĩa chữ Ái Ái nghĩa là yêu thương kẻ khác, coi kẻ khác như thân thể tay chơn của mình. Thân thể tay chơn của ta lành mạnh thì ta vui. Còn thân thể của ta đau ốm thì ta khổ. Có người nào không muốn thân thể, chơn tay mình đặng lành mạnh, cho đặng vui vẻ. Có người nào thấy thân thể, chơn tay mình bịnh hoạn, mà chẳng tìm phương điều trị cho hết đau đớn khổ sở. Nho giáo lấy chữ Nhân làm nguyên lý căn bổn. Về chữ Nhân ở trong tam đức là: Trí, Nhân, Dũng, ta nên lấy nghĩa hẹp là hợp hơn. Chữ Nhân ở đây có nghĩa là bác ái, thương rộng đến mọi người trong thiên hạ. Nhưng thương rộng, mà thiếu Trí, nghĩa là thiếu sự sáng suốt, không thông rõ thời cơ, thì khó mà làm tròn phận sự Bác ái. Còn có Trí sáng suốt, mà thiếu lòng Bác ái, thì thiếu kẻ đồng tâm, ít người giúp việc, làm sao mưu đồ đại sự? Có Nhân, có Trí, lại cần phải có Dũng, là sự bền chí, sốt sắng, gan dạ thì mới có thể lướt qua các trở ngại, để đi tới thành công rực rỡ. Phật giáo lấy hai chữ TỪ BI làm căn bản cho giáo lý của mình. - TỪ có nghĩa là dữ lạc, nghĩa là giúp vui. Còn BI là bạt khổ, nghĩa là cứu khổ. Chữ Từ Bi nói đây không phải đối với một ít người vật xung quanh mình, mà đối với tất cả người vật trong thiên hạ. Thế thì chữ từ bi cũng đồng với chữ bác ái nói trên. Có người cho nghĩa chữ Bác Ái không rộng bằng chữ Từ Bi. Đó là tại họ hiểu theo nghĩa hẹp của chữ Ái. Phải lấy nghĩa rộng của chữ Ái, là Bác Ái, thì mới cân xứng với chữ Từ Bi. Nhưng chữ Ái nói đây chẳng phải là tình yêu thương theo lối thường tình, chật hẹp chỉ cho thân mình, cho những người gia quyến mình. Yêu thương đó phải nới rộng rãi một cách vô tư cho đến người xã hội nhơn quần, cho đến tất cả người trong thiên hạ. - Về chữ BI, cuốn Thiền Pháp Yếu Giải nói như vầy: BI nghĩa là quán tưởng chúng sanh đương chịu khổ, trong ba ác đạo là Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, hay là các sự hành hình, chém giết, đói lạnh, bịnh khổ, … Ở cõi thế gian ta thường tưởng tới dáng khổ đó, làm cho Bi-tâm càng ngày càng bồng bột. Cho tới những người đương sung sướng, ta cũng thấy họ khổ nữa. Bác ái hay Từ bi chỉ có thể xuất phát từ trong tấm lòng hay từ trong trái tim của mình mà không có sự phân biệt, đòi hỏi chúng ta phải thương yêu tất cả mọi người như chúng ta thương yêu chính chúng ta. Cái khó là sự thể hiện lòng Bác ái, lòng Từ bi trong tâm chúng ta với tất cả mọi người, kể cả đối với những kẻ mà chúng ta thấy đáng ghét nhứt. Bác ái hay Từ bi được thể hiện bằng lòng tốt, lòng lành hay thiện tâm, bằng sự tử tế với nhau mới có thể sống với nhau, tương trợ nhau. Lòng Bác ái, Từ bi nuôi dưỡng trong Tâm sẽ đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Tâm Bác Ái, Tâm Từ Bilà nấc thang đưa chúng ta đến mục đích cuối cùng là Vô Ngã, tức không còn nghĩ đến cái TA ích kỷ, tham lam, sân hận, si mê. Cái Ta càng nhỏ bé hơn thì tình thương càng dễ phát triển hơn. Khi chúng ta nghĩ đến người khác nhiều hơn thì cái Ta phải nhường chỗ cho họ trong trái tim chúng ta. Có Tâm Bác ái, Từ bi sẽ mở đường cho người có Thiện Tâm. Người Thiện Tâm là người cảm nhận được sự đau khổ, sự cùng khốn, khó khăn của người khác ngay trong chính bản thân mình. Có như thế chúng ta mới thực sự cảm thông được với người khác vì chúng ta cũng đã từng chịu những hoàn cảnh như họ. Sự cảm thông là một tình cảm xuất phát từ trái tim, không cần lý do hay điều kiện gì đặc biệt. Bác ái là lòng thương yêu hết mọi người, mọi vật. Lòng Bác ái phải xuất phát từ trái tim, chớ không phải ở đầu môi chót lưỡi. Bác ái cũng không khác gì lời Phật Tổ dạy hãy có Tâm Từ Bi tức có lòng hiền lành thương xót đối với mọi người. Nếu mọi người ai cũng hiền lành, cũng có Thiện Tâm thì cõi thế nầy bình an như cõi Thiên đàng rồi. Sách Đạo Học Chỉ Nam viết: “Một tình thương cao thượng thiêng liêng sẽ giải quyết được vạn sự kiện của nhơn sinh. Dòng nước bản thể luân lưu, trong các hình tướng biến hiện, sẵn có đủ vô lượng tánh để soi rọi Chơn Như (tức là Phật Tánh) của vạn thể chúng sanh”. Với cái tình thương đó, sách Đạo Học Chỉ Nam viết tiếp: “Sau khi đã nhận thức phần nào hai chữ hòa ái trên căn bản tri thức, Bổn Tiết cùng chư đạo hữu xét đến những phương cách hành động. Đã xây dựng một quan niệm và thiết tha trọn lòng với ý tưởng ấy, thì việc thực hiện chỉ là thời gian, sớm muộn gì cũng thành công trong quyết định. Một phương cách hành động hay nhứt là bớt phê phán tha nhân, hãy thương yêu tha nhân và dìu dẫn để đồng tiến cùng thiên hạ. Đừng bảo rằng tại sao thiên hạ phải làm như thế nầy, mà không làm như thế khác. Đừng bảo rằng tại sao thiên hạ cứ cưỡng lại ý thánh của mình. Hãy xét lại tự nơi lòng mình coi có thương thật thương thiên hạ hay chưa. Nếu chưa thì hãy cố gắng thực hiện đi”. Vậy hai chữ Hòa Ái là con đường duy nhứt để đi đến mức cứu cánh của Đạo. Đời Đạo biết nương nhau thì mới có thể thiết lập cảnh Thái hòa, cảnh Thiên đàng Cực lạc ở cõi trần gian nầy. Tổng quát, Tiêu ngữ Bình Đẳng, Cộng Tác, Hòa Ái của Minh Lý Đạo đều căn cứ vào chữ Tâm. Mà Tâm ấy là Tâm Bình Đẳng, Tâm Cộng Tác mang lợi ích cho Đạo, cho Đời đi đến Thiên Nhơn hợp nhứt, và Tâm Hòa Ái đạt đến cứu cánh Từ Bi, Bác Ái của Đạo. Đã nói Tiêu ngữ hay Cương lĩnh là cây nêu chỉ rõ mục đích chánh đáng, chí nguyện cao cả để cho mỗi người biết đại lược và chú ý đến mục đích của Đạo mà tuân hành. Và mục đích chánh đáng, cao cả của mỗi môn sanh Minh Lý, của mỗi tín đồ là tu tập để trở về quê xưa vị cũ, tức trở về Ngôi Viên Nhứt, hay Thượng Đế, bằng con Đường Phản Bổn Hoàn Nguyên.
TÔN CHỈ VÀ LẬP TRƯỜNG HÀNH ĐẠO CỦA MINH LÝ ĐẠO
Tôn chỉ là dung hòa mọi tín ngưỡng, xu hướng cộng đồng, tổng hợp mọi đường lối, chỉ có một đạo, một tâm, nên người MINH LÝ phải nới rộng lòng mình, xích gần lại với nhau, không phân chia màu sắc địa phương, giữ đúng tinh thần câu “Thất MINH LÝ nền chung các đạo”. Lập trường là thuần túy tu hành, không xen lẫn tư tình tư lợi khiến cho thánh đức phải quy phàm. Trong Dịch Kinh, Thánh ngôn ngày 18-9-1965, Đức ĐÔNG PHƯƠNG LÃO TỔ dạy: “Các hiền đồ may duyên được sống trong quyền pháp chở che, ơn Trời chọn lựa, để cùng quần Tiên Thánh Phật lãnh lấy sứ mạng cứu thế độ đời... Người nào đã được đứng trong hệ thống “TÂN PHÁP ĐẠI ĐẠO”, phải có lòng vô tư, coi mọi người như một, đem giáo lý của mình mà khuyên dạy đồng bào nhơn loại; khuyến khích nhau làm những điều hay lẽ phải. Hãy khích lệ nhau trên sự hợp tác cộng đồng, can gián nhau đừng gây nên chia rẽ, lấp bằng các hố Đông Tây phân cách, đồng dị, riêng tư, làm cho ai nấy cảm thông trên tình linh sơn cốt nhục. Về tư tưởng huyền đồng nhứt thể, người Việt Nam xưa nay được coi mọi người như một, tiếp đón tất cả cái hay, cái phải, bất cứ nước nào, màu da sắc tóc nào, miễn là bổ ích cho tinh thần sống còn trong bản thể.” Về tư tưởng huyền đồng nhất thể, người Việt Nam xưa nay được coi mọi người như một, tiếp đón tất cả cái hay, cái phải bất cứ nước nào, màu da sắc tóc nào, miễn là bổ ích cho tinh thần sống còn trong bản thể. Phật giáo phát sanh tại Trung Ấn Độ đã chia thành hai tông: Tiểu thừa Nam Tông và Đại thừa Bắc Tông cũng đều đến Việt Nam. Thế thì hai khối này duy nhứt lại, đó là sự tuần hoàn hội ngộ của Phật giáo. Ở Trung Hoa, Đạo Lão, Đạo Khổng, hai nhà bắt nguồn từ Dịch học mà phát khởi: một đàng đi ra, một đàng đi vào: - Lão giáo thì lặn sâu trong tiềm thức để phăng nguồn vào bản thể Vô Cực, để hòa điệu với thiên nhiên. -Khổng giáo lại mở rộng ra, cùng nhơn loại bốn biển kết cấu thành một xã hội đại đồng, xây đắp cho cõi đời trở nên hoàn thiện hoàn mỹ, cùng với Tạo Hóa sinh sinh, cùng với loài người tương hệ. Hai đường, kẻ tới người lui, cũng không ngoài mục đích: “Tài thành Thiên địa chi Đạo, Phụ tướng Thiên địa chi nghi”. Ngọn triều Triết học Á Đông, nhất là đạo học Trung Hoa đã thấm nhuần trong tâm khảm người Việt, trở nên tư tưởng hệ thâm trầm khoáng đãng, chí công vô tư. Vì lẽ đó mà tại Việt Nam đã sớm xướng lên thuyết “Tam giáo đồng nguyên”, bắt đầu từ đời Lý, đời Trần. Tinh thần đồng nhất đã ăn sâu vào tâm trí con người, phát xuất ra ở những ngạn ngữ, ca dao, thi văn, cổ tục, đều là nhả hơi bài ý khát vọng hoà bình thì lẽ sống còn ở chỗ tinh thần vô ngã từ bi…, không ngoài con đường phục hồi nguyên lý. Nhơn loại hiện nay đương chờ đợi một cứu tinh sáng suốt, bất thiên kim, bất nệ cổ, không ngả theo duy vật, không chấp ở duy tâm. Đó là một tinh thần rộng lớn, bao trùm cả Á, Âu, kim cổ. Tinh thần ấy chỉ được phát sanh ở Việt Nam là nền giáo lý mới. Và giáo lý mới ấy xuất phát từ GIÁO HỘI TRUNG TÔNG ĐẠI ĐẠO. Đường hướng và tôn chỉ của Giáo Hội phải theo giữ đã được minh định bằng biểu đồ “Hỏa Hậu” và sự thờ Tam Giáo để nhắm vào sự tổng hợp và hoàn nguyên bất cứ Đông Tây giáo lý sai thù. Bổn phận người Thiên ân nên xuyên qua hết thảy để tìm cái lẽ chung của Tạo Hóa hầu kết nên một tôn chỉ viên dung. Đừng chê, đừng khen, đừng trách, như nhìn một bản thể phải đủ ba mặt: THƯỢNG ĐẾ trên hết, chung quanh ta và trong thân ta. Để dung hòa nhiều phương tu của vạn giáo, nói Nhứt nguyên hay Nhị nguyên, độc thần hay phiếm thần, phải tìm cách dung hòa. Đó là sứ mạng!
THÁNH SỞ TAM TÔNG MIẾU
1. Lịch sử hình thành: Trong thời kỳ thứ nhứt (1924-1940) Thần Tiên dùng Huyền Cơ gieo tín ngưỡng, sau mới dùng Thần cơ để tổ chức các việc hữu hình của một tôn giáo cho đạo Minh Lý. Trước hết cho kinh sách Việt Ngữ tụng đọc, mà Minh Lý Đạo đã có ấn tống như Kinh Bố Cáo, Kinh Sấm Hối, Kinh Tịnh Nghiệp Vãn, Kinh Nhựt Tụng, Kinh Giác Thế, để dùng trong các các cuộc lễ, như Cầu An, Cầu Siêu, …, hoặc dạy thuyết pháp giảng kinh để tiếp xúc với đại chúng. Kế dạy cất chùa, thứ tự chức sắc, … Về mặt đạo, chỉ dạy tượng trưng hai quẻ Phục và Tùy làm căn bản cho đạo Minh Lý. Thời kỳ nầy có thể gọi là thời kỳ tổ chức hữu hình. Trong thời kỳ này, Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN lại dạy phải lập một cảnh chùa và còn cho hai đôi liễn như sau đây: MINH Chánh Giáo, Đạo Truyền Thiện Hạnh, LÝ Trực Đàm, Đức Hóa Cường Ngôn. 2. MINH Khai, Tường, Đại, Đạo, LÝ Hiểu Đạt Thâm Uyên. Hai chữ ở mỗi đầu câu: “Minh Lý” là đạo hiệu của Đấng Giáo Chủ vô hình lúc ban sơ khai đạo. Đó cũng là hiệu của Minh Lý. Đôi liễn thứ nhứt, có mười hai chữ là những tên ban cho các vị khai sáng mối Ðạo Minh Lý, mỗi người đều lấy chữ Minh làm họ. Ví dụ như: Minh Chánh, Minh Giáo, Minh Đạo, Minh Truyền, … Còn đôi liễn thứ hai là để làm họ theo từng giai đoạn phát triển của đạo Minh Lý: Minh Khai Tường Đại Đạo, Lý Hiểu Đạt Thâm Uyên. Đôi liễn nầy có mười chữ, mỗi chữ là một họ. Trước hết là họ Minh, kế họ Khai, kế họ Tường, kế họ Đại, … Các vị khai sáng hiệp chung lại (vì Đạo Minh Lý không có thầy và trò riêng) mà đặt một đôi liễn, để làm tên cho những người kế tiếp họ Minh, tức là họ Khai, như đôi liễn: Các Đấng Thiêng Liêng ban Thánh danh cho họ Khai theo hai câu liễn sau: Sắc Minh Diệu Sắc, Tâm Trừng Tịch, Không Ngộ Chơn Không, Tánh Tịnh Tinh. thì thành những pháp danh: Khai Minh, Khai Diệu, Khai Sắc, Khai Tâm … (chừa hai chữ Sắc, Không ở mỗi đầu câu). Cứ đặt pháp danh như vậy cho đến chữ chót đôi liễn làm họ “Uyên” nói trên, thì cầu Thần Tiên cho đôi liễn khác làm họ cho lớp sau. Môn sanh mới vào Đạo thọ pháp danh do các vị Chủ trì đặt. Khi được tấn phong vào Tịch đạo thì được thọ Thánh danh. Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN lại cho một bài thơ: NHỨT niệm tu hành, vạn sự khinh, TÂM chuyên từ thiện, chí năng MINH. THÀNH tư tông giáo, cầu chơn LÝ, KỈNH tụng thường xuyên, luyện tánh tình. Nghĩa nôm: Một niệm tu hành, muôn việc khinh, Lòng chuyên từ thiện, chí quang Minh. Thành tin tông giáo, tìm chơn Lý, Kỉnh tụng hằng ngày, sửa tánh tình. Ngài có dạy: “Lấy hai chữ MINH LÝ mà làm đạo hiệu nên từ đó về sau, cứ gọi là MINH LÝ ĐẠO”. Minh Lý lấy bốn chữ “Nhứt Tâm Thành Kỉnh” làm sắc lịnh, nên Ngài mới cho thêm hai câu liễn để hai bên như sau: Kỉnh giáo năng tu đức, Thành tâm đạo khả hành * Khởi đầu xây dựng: Ông Trần Kim Ký đã hiến đất và bà Ba Ngỡi, bà Huỳnh Thị Ngôn cùng một số vị khác ủng hộ về tài chính. Vào ngày 9/9/1926, toàn đạo tổ chức lễ khởi công đặt viên đá đầu tiên. Đến ngày 2/2/1927, Tam Tông Miếu hoàn thành. Chùa đã qua hai đợt sửa chữa, trùng tu vào các năm 1941 và năm 1957. Hiện nay, Tam Tông Miếu ở số 82 đường Cao Thắng, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Minh Lý cúng Sám Hối tại Linh Sơn Tự hơn 18 tháng. Bước qua đầu năm Đinh Mão (2-2-1927) mới về Chùa Mới. Vì Chùa thờ Tam Giáo Đạo Chủ, nên ngày 3-1-1926, Đức DIÊU TRÌ KIM MẪU ban cho chữ hiệu của chùa là “TAM TÔNG MIẾU”. Đức Đấu Chiến Thắng Phật cũng cho cho một đôi liễn như sau: Tam giáo hiển linh, ân quang phổ chiếu, thông tứ hải, Phiến tâm thanh tịnh, Nho Thích Đạo tông, bổ đồng nguyên. Người mộ đạo càng ngày càng đông, nên phải xin phép chính quyền lập hội, gọi là “Hội TAM TÔNG MIẾU”, để tiện bề tụ tập cúng kiến và giúp đỡ nhau lo việc tu hành. Ngày 22-12-1924, tiếp được bài Kinh “Tặng Thiên Đế” sau đó tiếp thêm nhiều bài Kinh khác nữa, như Kinh Nhựt tụng, các bài khuyên đời, và những bài giải đạo đức. Minh Lý Đạo ra đời, không lập một pháp gì khác hơn là kết tinh giáo lý, học thuyết Đông Tây kim cổ làm một chương trình để tự tu, tự độ và độ dẫn loài người. Tinh ba thuần nhứt đó được qui tựu để trở thành một tổ chức dung hòa. Đó là MINH LÝ ĐẠO - TAM TÔNG MIẾU. Tam 三 là: Tam thể đồng nhứt, Tam giáo đồng nguyên, Tam tài nhứt thể, … Tông 宗 là thừa kế, tiếp sau (Tổ là trước, Tông là kế Tổ) để hoàn thành sứ mạng cho công cuộc Thiên lý kết chung (Tông đây cũng có nghĩa là qui gia nhận tổ). Miếu 廟 là tòa ngự của Thượng Đế và Tam giáo tại thế gian, để truyền đạo lập pháp, cũng gọi là Thiên triều, tòa ngự nầy là Bạch Ngọc Kinh tại thế. Đức ĐẠT MA SƯ TỔ giáng cơ tại Chùa Tam Tông Miếu, do đồng tử Trung Hoa, cho hai câu liễn: Tam giáo đồng nguyên, tế tế nhứt đường, thành thông Tiêu Hán, Tông đàn vụ bổn, bàng bàng đại địa, thiện biến Việt Nam. Nghĩa là: Tam Giáo đồng một nguồn, rộn rịp một chùa, tâm thành thấu đến Tiêu Hán (Cửu Tiêu, hay là chín từng trời), Tông đàn đồng một gốc, lan tràn mặt đất, đức thiện trải khắp Việt Nam. Đôi liễn nầy khắc bằng chữ Tiên gia, y như bút tích của Đức Đạt Ma truyền lại, để làm vật kỷ niệm Tổ Sư giáng lâm tại Chùa. Các đôi liễn khác do Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN giáng bút để nơi mặt tiền Chùa: * Tại chính giữa: Thống tam giáo dĩ sùng, tân tự trúc thành, hưng Chánh Pháp, Hiệp vạn nhơn nhi giảng luận, cựu kinh đàm bãi, dục Linh Căn. Nghĩa là: Gom ba giáo để kính thờ, Chùa mới cất xong, toan chấn hưng Chánh Pháp, Hiệp muôn người cùng giảng luận, kinh xưa giải dứt, dốc hàm dưỡng Linh Căn. 2. Hình thức xây dựng Chùa: a. Theo Thuyết Tam Ngũ Nhứt Chùa Tam Tông Miếu dựa theo Thuyết Tam Ngũ Nhứt mà xây dựng. Ba chữ Tam Ngũ Nhứt là Tam Gia: Tinh Khí Thần tương kiến. Ba nhà gặp nhau hiệp thành Thái cực. Tam Ngũ Nhứt là phép trở về với Đạo, từ số 5 trở lại số 3, từ số 3 trở lại số 1, 1 là Thái cực. Phép nầy gọi là Phản Bổn Hoàn Nguyên. Lấy số Tam Ngũ Nhứt xây cất Chùa Tam Tông Miếu là để tiếp độ chúng sanh, từ ngoài vào trong. Cất Chùa theo thuyết Tam Ngũ Nhứt như sau: Nóc Chùa: chia ra làm ba phần, từ ngoài đi vô trong: Phần thứ nhứt: chỗ thờ Môn Quan Thổ Địa, hay là Lầu Chuông (Chung Lầu) có5 nóc. Phần thứ nhì: là Lễ Bái đường, tức là chỗ bổn đạo tề tựu mà làm lễ Trời Phật, có 3 nóc. Phần thứ ba: là Bửu điện, tức là chỗ thờ Thượng Đế và Phật, Tiên Thánh, có 1 nóc tròn mà thôi. b. Phân làm ba đài Tam Tông Miếu kiến trúc theo một hình thức Đạo pháp gồm đủ ba đài, lấy số Nhứt, Tam, Ngũ, để tượng trưng sự sanh hóa củaTrời Đất. Châu Thiên Đài - tượng thể Đạo pháp. Ngôi nầy là chỗ Thiên triều, Thượng Đế và các đấng Thiên Tiên làm tòa ngự lập pháp. Tòa ngự đó là phần hồn của Đạo, là nơi các cấp tín đồ trong Đạo làm xong bổn phận, nghĩa là khi liễu đạo, sẽ được vào hội họp nơi đây. Đó là Bạch Ngọc Kinh, hay cảnh “Tối Thượng Niết Bàn”. Tam Cực Linh Đài - là cơ sở hành pháp gồm các đẳng lương sanh giữ đạo và hành đạo. Đài nầy lấy Hoàng cực làm phương châm qui Nhứt, làm phương pháp tu học, làm cơ sở truyền Đạo và liên lạc cùng Trời và các Thần Thánh Tiên Phật, ở thế giới nầy và các thế giới bên kia. Hoàng cực lập lại thế đạo, để “chuyển thế thành Đạo”, là một trung tâm hành pháp, giáo hóa chúng sanh, nối liền giữa Thiên Nhơn làm Một. Ngũ Hành Đài: trên có một vọng đài, biểu thị một cái chuông, để đánh vọng lên, mà thúc giục quần mê, thức tỉnh bốn phương còn đang trong giấc mộng. Trước, một cây pháp tràng (cột phướn), để làm phương tiện tiếp độ phần hồn, đưa về Thiên Quốc. Ngũ Hành Đài là mấu chốt của vạn sự vạn vật. Đó cũng là ám chỉ chỗ cương yếu làm người. Một là hợp Tam qui Nhứt gọi là qui Tam Giáo, gọi là hợp Ngũ Chi, đồng nhứt làm một, tức là bản thể của Trời Đất vạn vật. Bản thể đó là hồn, là phần vô vi, nên sự sắp đặt của ngôi thờ trên thuộc phần Pháp Thân.
PHÁP MÔN THỜ PHƯỢNG TẠI CHÁNH ĐIỆN TAM TÔNG MIẾU
Như Dịch Lý đã nói: Trên Trời Phật lấy số tam, ngũ mà chỉ về cách thờ phượng để hoằng khai mối Đạo, từ trong ra ngoài. Hơn nữa đạo Minh Lý không thờ tượng cốt, thờ hình vẽ, vì lẽ không biết tướng mạo chính chắn của các đấng Thiêng Liêng. Tuân lịnh dạy, chúng tôi lập bài vị ghi hồng danh và sắp trên điện năm cấp mà thờ, từ trong ra ngoài.
Bửu Điện: Có năm cấp, để thờ bài vị như sau:
* Cấp thứ nhứt: Diêu Trì Kim Mẫu (Vô Cực) * Cấp thứ nhì: Hồng Quân Lão Tổ (Hoàng Cực) Ngọc Hoàng Thượng Đế (Thái Cực) (đây là ba Đấng đại diện của ba ngôi Thượng Đế) * Cấp thứ ba: Tây Phương Phật Tổ Văn Tuyên Khổng Thánh Thái Thượng Lão Quân (tức là ba vị Tổ Sư hay là ba ngôi Giáo chủ của Tam giáo) * Cấp thứ tư: Quan Âm Bồ Tát Văn Thù Bồ Tát Phổ Hiền Bồ Tát Địa Tạng Bồ Tát (tức là tứ đại Bồ Tát) * Cấp thứ năm: Nam Đẩu Tinh Quân Đông Đẩu Tinh Quân Tây Đẩu Tinh Quân Bắc Đẩu Tinh Quân Trung Đẩu Tinh Quân (tức là ngũ vị Tinh quân) Thêm hai bài vị chung sau nầy: Lôi Âm Chư Phật Bồng Lai Chơn Tiên. (tượng trưng cho giải thoát và triền phược) Tổng cộng tất cả là mười bảy bài vị, hợp thành một hình tam giác, mà ngôi của Tây Phương Phật Tổ (tức là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) ở chính giữa, ngay ngọn đèn Lưu ly treo tại Bửu điện (tiêu biểu cho Trung Đạo).
2.Bàn đàn: Có ba cấp
3. Bàn cầu cơ: Có một cấp Như trên đã nói: Trong Chùa thì Trời Phật sắp đặt bàn thờ, bắt từ trên mà đi xuống dưới: 5 + 3 + 1; còn theo hình thức bên ngoài của chùa Tam Tông Miếu, tính theo nóc nhà chùa, thì bắt từ dưới mà đi lên trên: 1 + 3 + 5. Một đàng là Trời Phật Tiên Thánh từ trên đi xuống, để độ dẫn chúng sanh theo con đường Chánh pháp. Một đàng khác là chúng sanh từ dưới đi lên, để ứng với lời kêu gọi của Bề Trên, mà trở lại ngôi xưa. Tam, ngũ, nhứt hiệp lại thành số 9. Đó là số Kiền dụng cửu của Hà Đồ. Mà quẻ Kiền có ba vạch liền. Nếu kết ba vạch đó lại thì thành hình tam giác, nghĩa là: Hình có ba cạnh. Hình tam giác của chúng sanh hiệp lại với hình tam giác của Trời Phật, thì thành ra hình lục giác, đồng một điểm trung ương (cùng chung một điểm giữa) như sau:
Đó là biểu tượng người hiệp với Trời mà thành Đạo, lại cũng là dấu thương đời (sceau de Salomon) làm căn bổn cho Đạo Trời. Giữa Bửu điện, có treo một cái đèn Lưu ly hình tam giác (ba góc đồng đều) tượng trưng cho Đạo, Pháp, Lý hay là Thượng Đế vô lượng vô biên (Dieu ou Etre infini, Etre ontologique, Principe non manifesté, Vérité éternelle).
Ngoài ra, ở hai bên tả hữu của Bàn đàn, có hai bàn thờ khác, cũng ở trong nhìn ra, là: Bên tả : thờ Địa Mẫu Từ Tôn (Địa) Bên hữu: thờ Lịch Đại Tổ Tiên (Nhơn) hiệp với Thiên bàn ở giữa là đủ Tam tài (Thiên, Địa, Nhơn). Khai ra (mở rộng) thì có ba, mà hiệp lại (thâu hẹp) thì chỉ có một ngôi Hoàng Cực. Đây là thuộc về phần tương lai (người thành Đạo sẽ bắt từ đó mà trở về). Ở hai bên hông, có hai bàn thờ giao mặt nhau, là: Bên tả : thờ Thập Điện Minh Vương Bên hữu: thờ Thanh Phước Chánh Thần coi về phần dĩ vãng (người tu chết mà chưa thành Đạo). Sau hết, ở tại cửa chánh môn, cùng đồng ngó vô Bửu điện, có hai bàn thờ là: Trong chùa: thờ Long Thần Hộ Pháp Ngoài chùa: thờ Môn Quan Thổ Địa Coi về phần hiện tại (hộ chùa và các người đang tu ở trong chùa).
Giải theo Bát quái Hậu thiên, để phản huờn trở lại Tiên thiên, thì Thần Tiên có dạy rằng: “Minh Lý căn cứ vào quẻ Tùy làm phương môn tu học. Cho nên lần nầy Đức Chí Tôn lâm trần lập Đạo, ngự tại cung Đoài (Kiền cung Kim sa vào cung Đoài). Đoài là điển quang, là duyệt. Duyệt là vui thỏa mọi việc, mà mọi việc được hoàn thành. Đoài là gái út, tức là đức trinh bạch làm tòa ngự. Tay trái là Kiền, tay mặt là Khôn. Kiền Khôn đặt ở tả nam hữu nữ, để lấy sự điều hòa hiệp nhứt là Đạo. CÁC BÀN THỜ TẠI CHÁNH ĐIỆN sắp đặt theo Đạo pháp BÁT QUÁI HẬU THIÊN phản hườn trở lại TIÊN THIÊN (Hướng nhìn từ Trong ra Ngoài theo chiều mũi tên) Bên Thập Điện, bên Thanh Phước Thần làm cung Khảm Ly, là Thủy Hỏa Ký tế. Nếu không dùng lấy Bát quái Hậu thiên mà tu luyện, thì không làm sao trở nên Tiên Phật được. Còn Đoài hiệp với Chấn, Chấn động mà Đoài duyệt. Chấn là ngôi Hộ Pháp. Đoài Chấn hiệp thành ra quẻ Trạch Lôi Tùy. Đoài Chấn giao nhau, Khảm Ly giao nhau là một bí quyết. Nếu Khôn không giao được với Chấn thì làm gì có quẻ Địa Lôi Phục mà hoàn đơn. Nếu Kiền không giao cùng Chấn làm gì có được Thiên Lôi Vô Vọng mà vô tâm giải thoát. Vì vậy xây nên Ngũ hành đài, gọi là dựng lò Bát quái, để chế hóa năm hành. Nên có năm từng, tám mặt là thế”. Dưới đây xin minh hoạ Bát quái Tiên thiên phối với Bát quái Hậu thiên để chư độc giả hiểu lời dạy trên đây.
Đó là xây Bát quái Hậu thiên, đặt lên trên Bát quái Tiên thiên (Hậu thiên phản Tiên thiên), thì Khôn là Đoài, tức là: Kim tứ hiệp với Thủynhứt tại Bắc phương là chính điện. Hai bên Kiền Khôn tức là Cấn Chấn là nam nữ đạo tràng, ngôi thờ Địa Mẫu và Thiên đồ. Khảm Ly hiệp cùng Ly Khảm, là tả Thập Điện, hữu Thanh Phước Thần. Chấn đối diện Thiên bàn là ngôi Hộ Pháp. Cấn là Môn Quan Thổ Địa. Tốn là Thông Thiên đài. Đó là tám bàn thờ của Chùa, ở tại Chánh điện. * Làm sao chuyển Bát quái Hậu thiên trở lại Tiên thiên? - Đó là phần khẩu quyết.
Giải nghĩa Bàn đàn
Ba cấp Bàn đàn xin lấy một câu kinh Nho mà giải mỗi cấp, tóm tắt như sau nầy: - Cấp dưới: “Phóng chi tắc di lục hạp, quyện chi tắc thối tàng ư mật”. Nghĩa là: Khai rộng Nó (tức là Tánh Thiên mạng) thì Nó tràn dẫy sáu hướng. Còn thâu hẹp Nó, thì Nó thối ẩn nơi kín (chỗ ít ai biết được). Sáu hướng là sáu ngọn đèn nhỏ. Nơi kín là mâm đựng trà rượu ở giữa cấp dưới. - Cấp giữa: “Thiên hạ chi đạt đạo ngũ (ngũ luân), sở dĩ hành chi giả tam (tam đức). Thiên hạ chi đạt đức dã, sở dĩ hành chi giả nhứt dã”. Nghĩa là: Trong thiên hạ có năm đạt đạo (tức là ngũ luân: Quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ bằng hữu). Muốn hành năm đạt đạo nầy thì phải nhờ có ba đạt đức (tức là tam đức: nhân, trí, dũng). Trong thiên hạ có ba đạt đức. Muốn hành ba đức nầy phải nhờ Một hay là Ngôi Nhứt (tức là lòng thành). Năm đạt đạo là năm quả trái cây, ba đạt đức là ba bình bông, cây đèn lớn ở giữa là một lòng thành. - Cấp trên: “Nhứt âm nhứt dương chi vị Đạo, kế chi giả thiện dã, thành chi giả tánh dã”. Nghĩa là: Một âm một dương, một bên sanh một bên thành, hai bên hiệp lại mà hóa sanh muôn vật, thì gọi là Đạo. Kế theo đó (lúc còn Tiên thiên) thì lành (tột lành, không có tánh riêng biệt), mà khi biến thành chất (Hậu thiên) mới có tánh (đây là nói: Tánh riêng biệt hay là tánh khí chất). (Thỉnh coi Hệ Từ truyện - chương 5 trong Châu Dịch). Trên cấp nầy, hai cái đèn lớn tượng trưng hai khí âm dương, lư hương tượng trưng cái tánh Hậu thiên, có hình tượng như cây nhang nhỏ đương cháy. Cái lư trầm là thiện, chí thiện, Tánh Tiên thiên nói trên. Khói trầm nhẹ nhàng vượt lên từng cao thành một vừng mây, luôn luôn cảm thông, hiệp với Trời chẳng lúc nào ngừng. Cho nên trong lúc lễ bái, Tiên Phật có lời dặn: “Chẳng nên để dứt hơi trầm”. Sách Trung Dung, chương chót, dẫn lời Kinh Thi cũng có nói rằng: “Đức du mao, mao du hữu luân. Thượng thiên chi tái, vô thinh vô xú, chí hĩ”. Nghĩa là: Đức nhẹ như lông, lông còn có chút hơi nặng. Còn Tánh Thiên mạng gốc ở nơi Trời, không tiếng không hơi, thật là cao tột. Tuy cái Tánh nầy không hiển lộ cho ta thấy được, mà diệu dụng vô cùng, cho nên nói: “Thiệt là cao tột”. Câu Kinh Dịch và câu Kinh Thi ghi trong sách Trung Dung đều chỉ cái Tánh Thiên mạng của Trời phú cho mọi người, đồng một ý nghĩa, là cái Tánh ấy siêu hình, chí thiện, cao tột. Còn ba bài vị nhỏ: Bài vị lớn ở giữa : NHỨT TÂM THÀNH KỈNH Bài vị nhỏ bên trái: KỈNH GIÁO NĂNG TU ĐỨC Bài vị nhỏ bên mặt: THÀNH TÂM ĐẠO KHẢ HÀNH là Sắc lịnh của Đức Diêu Trì Kim Mẫu, có ý nhắc nhở chúng ta: Bất kỳ vào trường hợp nào, luôn luôn phải giữ: “Nhứt tâm thành kỉnh” làm gốc, do thành và kỉnh tương hiệp mà nên. Ba bài vị nầy tượng trưng cho Thiên mạng, tức là mạng lịnh của Trời, hay là luật đạo đức đặt trong tâm của mỗi người. Phải lấy đó làm mục đích cứu cánh của pháp tu hành thì mới được hoàn toàn giải thoát. Về chữ “Kỉnh”, thì nên coi lời giải trong hào Lục Nhị của quẻ Khôn. Về chữ “Thành”, thì nên đọc lời giải của hào Cửu Nhị của quẻ Kiền. Hiệp hai chữ nầy lại thì được Nhứt tâm, mới gần Trung đạo. Ban sơ, sách Trung Dung nói Tánh Thiên mạng tủa ra sáu hướng và mắc trong vòng lục căn, vì “Khí bẩm sở câu, vật dục sở tế”, nên biến ra phàm tánh. Nhưng muốn tu thân, phải lấy cái Tánh ấy làm nhân địa mà tu. Đoạn nầy Phật giáo gọi là: Kiến Đạo. Đoạn giữa, sách nầy dạy phương pháp tu, cốt ở năm đạt đạo (ngũ luân), ba đạt đức (nhân, trí, dũng), sau rốt là một chữ Thành. Thành là tiến hóa lên tột bực. Đoạn nầy Phật giáo gọi là: Tu Đạo. Sau hết, tu cho đến mục đích cứu cánh, nghĩa là: Đem Tánh Thiên mạng của mình trở lại hiệp nhứt với Trời, cùng Trời có một bổn thể bình đẳng. Đoạn chót Phật giáo gọi là: Chứng Đạo. Kế đây, xin dẫn lời giải của Thần Tiên: - Cấp dưới: Người xưa gọi trời đất là đại vũ trụ, và con người là tiểu vũ trụ. Hai bên cách nhau chỉ một chút bí mật mà thôi. Đối với Trời có bản thể, con người thì có bản tâm làm chủ tể. Đã là người thì phải có máu huyết, thịt xương, cấu tạo bằng khí chất Hậu thiên, nên phải có thất tình lục dục. Vì tình dục phát ra không đúng lúc, đúng thời, mà dong ruổi theo đường vật chất thế tình, nên lòng người nghiêng ngả, bỏ gốc theo ngọn. Cấp nầy có sáu cây đèn nhỏ tượng trưng lục căn của con người. Sáu căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý), bị giao động với thế giới bên ngoài, đắm đuối với sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), mà tinh khô huyết cạn, và sanh ra sáu thức mà thần hồn hôn ám. Cho nên về Pháp Đạo, phải được phản chiếu hồi quang, đem sáu thức trở về trong, thì tâm hồn mới minh lãng. Sáu thức đem trở về căn thì tinh, khí, thần (tam bửu) đủ đầy, là trở nên Tiên Thánh. Nên lúc dâng lễ, đem sáu ngọn đèn trở lại hiệp với Tiên thiên, tức đèn đó quay về, thì lục thần cũng theo đi mà vào chánh vị. Ở giữa, lại có một mâm trà rượu, với ý nghĩa Đạo Pháp, là phương cách tu tánh luyện mạng, Hậu thiên phản hoàn Tiên thiên. Mâm trà rượu là chỗ thần khí tương giao, Khảm Ly ký tế. Đó là Hoàng Cực, làm trung khu cho tánh mạng, làm cơ chỉ cho Đất Trời, làm nền móng, làm cột rường cho đời đời, mà an dân giữ nước. Còn có nhiều tên khác nữa, nhưng phương tu tạo Phật tác Tiên gốc ở đó, thành do đó. Nó phá được vô minh, đoạn được dây xích nhân duyên, ra ngoài tứ khổ. Nên có câu: “Lửa cung Ly, nấu vàng cung Khảm, Lọc âm dương, hai tám thành cân”. - Cấp giữa: Ba bình bông là: “Tam huê tụ đảnh”. Năm dĩa quả là: “Ngũ khí triều nguơn” (cũng đọc là triều huyền, là triều Huyền quan) (Tam huê là tinh, khí, thần. Ngũ khí là ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngũ và tam đều hiệp nhứt mà thành Đơn). Đơn thành sẽ giải thoát khổ đau, mà con người cộng hưởng tuổi sống lâu dài, đứng ngoài vòng sanh tử. Đơn thơ gọi an lư là chỗ đó. Chỗ đó gọi là Huỳnh đình, tức là ngọn đèn lớn ở giữa bàn đàn (cấp giữa). Ở cấp dưới, an lư lập đảnh thì gọi là một thi (chủ động), một thọ (bị động). Thi là Ly, thọ là Khảm, gọi là: Chiết Khảm điền Ly. Ở từng dưới, luyện xong tinh hóa khí, thì phải di lư hoán đảnh, nghĩa là: Dời lư lên Huỳnh đình, còn đảnh ở tại Nê huờn, sau hai bên hiệp cùng nhau, gọi là “Kiền Khôn giao cấu”, để luyện khí hóa thần. Năm dĩa quả cũng có thể tượng ngũ khí, ngũ đức, ngũ hương. Ngũ hương là: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Tri kiến hương, Giải thoát tri kiến hương. Đó là năm phần công phu tu học, cốt ở tam học là: Giới, Định, Huệ, tức là ba bình bông, luôn luôn phải được duy trì. Giới sanh định, định sanh huệ, rồi định huệ đẳng dụng mới thiệt là con đường giải thoát của các bậc chơn tu, không thể nào bỏ tam học ra ngoài được. Ngọn đèn lớn ở giữa tượng trưng cho “Tự chứng phần”, là phần chứng đắc quả vị cao siêu, đó là công phu nói trên. - Cấp trên: Phần thứ nữa là âm dương đối đãi nhau: Một hồi âm, một hồi dương, hết dương đến âm, hết âm đến dương. Âm dương thay đổi mãi mãi bất cùng, gọi là thời gian. Thời gian trong một giây, một phút, một giờ, một ngày, một tháng, một năm, hay cả nguơn, hội, vận, thế, đều có âm dương. Trong cái nhỏ như hột cải, trong cái lớn như trời đất, vũ trụ, chỗ nào cũng có âm dương. Có âm dương mới có trời, có đất có vũ trụ thế giới và chúng sanh. Không một vật nào ngoài âm dương mà có, mà sống còn, mà làm nên sự nghiệp, cho tới trong người cũng có âm dương. Âm là huyết trong người, dương là khí trong thân. Mắt nhắm là âm, mắt mở là dương, … nên gọi là: “Nhứt âm nhứt dương”. Vì có âm dương sinh sinh, khắc khắc mà hiện ra nghìn giống muôn loài. Đã có sự hoạt động, chuyển biến tình trạng, chiếm một phần khoảng không, nên gọi là không gian. Thời gian và không gian hợp lại thì gọi là Đạo, nên nói “chi vị Đạo”. Đạo hàm tàng viên mãn, gồm chứa cả Tiên Hậu nhị thiên, nên gọi tiếp “Kế chi giả thiện dã, thanh chi giả tính dã”. “Kế chi”, chữ chi nầy thế cho chữ Đạo ở trước, nghĩa là: Tiếp kế theo Đạo, là Nguyên của Trời Đất âm dương lúc ban đầu, gọi bằng Thiện. Vì đó là phần Tiên thiên, phát xuất trước hết nên gọi là trọn lành (tức là lư trầm có hơi khói xông lên, luôn luôn liên lạc cùng Trời, như trên đã giải). Khi Lý khí cấu hợp, con người trở nên hình vóc, gồm tánh của Trời ban và tinh của cha mẹ; cấu hợp mà nên hình, thì nói: “Thành chi giả, tính dã”. Tánh là lương tâm con người, chỉ phần tinh thần sử dịch cụ thể. Đi sâu vào vật chất, nó là ngọn đăng dưới bàn Hậu thiên, là Tánh Trời ban cho. Vì bị triền phược trong vòng vật chất, nên có lúc mất sáng suốt. Tánh đó, Mạnh Tử nói “tánh thiện”; Tuân Tử nói “tánh ác”; Đổng Trọng Thư nói: “Tánh có ba phần: Thiện, ác và thiện ác hỗn hợp”; Dương Hùng nói: “Có thiện có ác”. Song xét theo câu Kinh Dịch nói trên, ai nói cũng có lý hết, nhưng tùy hoàn cảnh mà định trái phải, thì thầy Mạnh nói đúng hơn là đứng về phương diện “kế chi giả, thiện dã”. Trung Dung cũng nói: “Thiên mệnh chi vị tánh”, là Tánh bản nguyên trọn lành của Trời ban cho, cũng là đúng về một phương diện với thầy Mạnh, chớ không phải nói tánh bị triền phược là tánh “thành chi giả”. Mấy vị khác đều nói về cái tánh sau nầy. Nhưng cái Tánh đó quá tuyệt đối, mầu nhiệm, mắt không thấy, tai không nghe, mà hiện ra sự hành động, nói năng, làm lụng, suy nghĩ, nghe ngóng, ngó dòm, biện biệt nghĩa phải cùng không. Không phải Thánh nhơn cũng khó nhận được toàn vẹn bản thể của nó. Như câu: “Nhân giả kiến chi vị chi nhân, trí giả kiến chi vị chi trí, bách tính nhựt dụng nhi bất tri, cố quân tử chi Đạo tiển hĩ”. Nghĩa là: Kẻ bẩm thọ phần dương khí nhiều thì nhận tánh là nhân. Kẻ thọ bẩm âm khí thạnh thì là người trí. Trí thì thấy Đạo cho là Trí. Còn bá tánh ngày ngày sống trong Đạo ấy, vì bị thọ bẩm khí chất mà chẳng biết Đạo là chi. Cũng như cá sống nhờ nước, mà không biết mình ở trong nước. Khỉ sống bằng gió, mà chẳng hay gió là sự sống của mình. Nên nói: “Ngư bất kiến thủy, hầu bất kiến phong, nhơn bất kiến trần”. Chỉ có người quân tử mới thấy được cái Tánh thiện bản nguyên ấy, cả nhân cả trí toàn diện. Còn người khác tất thảy đều mờ mịt, hoặc nhận biết được một cạnh khía, như kẻ mù rờ voi. Nên gọi: “Cố quân tử chi Đạo tiển hĩ”. Tiển nghĩa là ít oi, không có mấy người biết được. - Đèn Lưu ly: Kế đó là câu: “Hiển chư nhân, tàng chư dụng, cổ vạn vật nhi bất dữ Thánh nhơn đồng ưu, thịnh đức đại nghiệp, chí hĩ tai”. Nghĩa là: Phần đạo tâm của Thánh nhơn hay người quân tử, hiển hiện đức nhân ái, từ mẫn ra ngoài, như sự sinh sinh của Trời Đất. Nhưng phần về mầu nhiệm biến hóa thâm u, không biết làm sao mà đươc như thế, nên gọi: “Tàng chư dụng”. “Hiển chư nhân” là tâm đạo phát hiện ra ngoài. “Tàng chư dụng” là sự nghiệp công dụng gốc tàng giấu bên trong. Đối với hai phần đó, Thánh nhơn và Trời Đất không khác. Khác một điều là Trời Đất cổ động vạn vật bằng vô tâm, mà Thánh nhơn không thể vô tâm, Thánh nhơn lấy vô vi, cổ động vạn vật mà đặng thành công. Còn thạnh đức, đại nghiệp, là nghĩa làm sao? - “Hiển chư nhân” nói trên không phải là đức ở trong, mà là đức phát ra ngoài. Nếu đức không được sung thạnh bên trong, thì làm sao nó hiển hiện chư nhân ra bên ngoài được? Cho nên gọi đó là thạnh đức. - “Tàng chư dụng” nói trên chẳng phải nghiệp (việc làm, cơ đồ sự nghiệp), mà là căn bổn của sự nghiệp. Nếu chỗ tàng chư dụng mà phát ra ngoài, thì nghiệp có thể đo lường được chăng? Cho nên gọi đó là đại nghiệp. “Hiển đức nhân” là tiền diện (bước đầu tiên) của tàng dụng. “Tàng nghiệp dụng" là hậu diện (bước cuối cùng) của hiển nhân. Đây là nói ngọn đèn lớn ở cấp giữa Bàn đàn hiệp với hai ngọn đèn lớn kia ở cấp thứ nhứt, thành ra một hình tam giác, là phần của Thánh nhơn vốn bình đẳng không khác với ngọn đèn Lưu ly hình tam giác, treo tại giữa Bửu điện là phần của Trời Đất. Hai bên tuy dụng phương pháp có khác, mà chừng thành công vẫn có một, nên tượng trưng bằng dấu hiệu . Giải theo Phật giáo, đèn Lưu ly là “Bổn giác Chơn như”, còn đèn ở Bàn đàn là “Bổn giác tùy nhiễm” ở trong xác thân mỗi người để hoạt động trên thế gian, làm nhiều lợi ích cho nhơn loại. Bổn giác tùy nhiễm phải có lòng lo tu, rồi sau mới thành Thỉ giác (mới phát tâm theo con đường Đạo). Thỉ giác và Bổn giác vốn đồng có một bổn thể. Người tu thì Thỉ giác tiến hóa lần lần đến mức cứu cánh, hoàn toàn hiệp với Bổn giác, là “Lý trí nhứt như”. Lúc ấy gọi là chứng quả Phật, là thành Đạo.
HỔNG DANH CÁC BÀI VỊ TRÊN CHÁNH CUNG - TAM NGUYÊN NHỨT THỄ
TAM NGUYÊN NHỨT THỄ
Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Đức Hồng Quân Lão Tổ và Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là ba ngôi vị cực cao được thờ tại chánh điện Tam Tông Miếu. Ba ngôi này được gọi là Tam Cực hay Tam Thể hay Thượng Đế ba ngôi. Thượng Đế ba ngôi được biểu hiện qua ngọn đèn lưu ly Vô Cực đăng hình tam giác treo lơ lửng giữa chánh cung hay ba bài vị thờ tại cấp một và cấp hai của bàn thờ năm cấp bằng cẩm thạch tại Chánh điện Tam Tông Miếu là Diêu Trì Kim Mẫu, Hồng Quân Lão Tổ và Ngọc Hoàng Thượng Đế.
ĐỨCDIÊU TRÌ KIM MẪU 瑤池金母 thay mặt ngôi Vô Cực, hiệu là Vô Cực Từ Tôn hay Vô Cực Thiên Tôn.
Vô là không, Cực là chỗ cao nhất, lớn nhất, tột cùng. Vô cực nghĩa là không có chỗ tột cùng, không chỗ kết thúc, hết sức trống không; chỉ thời kỳ trước chưa có trời đất, muôn vật. Minh Lý Học Thuyết viết “Tuy nói trống không, là vì mắt phàm chẳng thấy. Nhưng trời đất, muôn vật đều sẵn tiềm phục bên trong, chỉ đợi đến thời kỳ, thì xuất hiện thiên hình vạn trạng. Vô Cực là bổn thể của người vật, là cột của Vũ trụ.
…Vô Cực vốn là ngôi tịnh tuyệt đối, nghĩa là: một thứ tịnh không bao giờ thay đổi, dầu vào cõi nào, dầu ở lúc nào, tánh thể vẫn giữ trong sạch, yên lặng, làm cốt cho mọi sự, mọi vật, nên bất biến, thường trụ”. Từ là nhân từ, từ bi, có lòng thương xót, độ dẫn tất cả chúng sanh. Tôn là cao cả, bậc rất mực tôn nghiêm, hoặc gọi là Thiên Tôn, nghĩa là bực cao cả, tôn nghiêm ở trên các từng trời. Diêu hay Đao nghĩa là Ngọc quý; Trì là ao hay hồ. Kim: vàng, kim loại quý, quý trọng, trân quý (kim khẩu, kim ngôn); (về Đạo giáo, Kim là Kiền Kim, theo phương vị Hà Đồ, Bát quái Tiên thiên, là Trời ở chánh nam, thuộc về Tiên thiên, làm căn bổn cho người tu hành theo Đại Đạo Kim đơn; theo phương vị Lạc Thơ, Bát quái Hậu thiên, thuộc về hướng tây).Mẫu là Mẹ, là tiếng gọi tôn các bậc nữ tôn trưởng, là chủ thể hữu hình sinh hóa muôn vật. Diêu trì cũng để chỉ một cảnh trí, một cung điện, là một tiên cảnh trên chót đỉnh núi Côn Lôn, người thường không đến được (nơi Tây Vương Mẫu ở). Lý do Minh Lý Đạo thờ Diêu Trì Kim Mẫu làm ngôi Một. Có thể nói Đức Diêu Trì Kim Mẫu là Đấng sinh hóa muôn vật, là Mẹ linh hồn, là gốc sanh vạn vật đất trời. Minh Lý Đạo là Tiên Thiên Đại Đạo nên Ngài đứng đầu chủ ngôi Vô Cực. Truyền thuyết về Diêu Trì Kim Mẫu: Truyền Thuyết gọi Ngài là Tây Vương Mẫu hay bà Thiên Hậu, thiết nghĩ đây chỉ là ứng hóa thân của Ngài. Theo Minh Lý Học Thuyết có hai truyền thuyết như sau:
Tây Vương Mẫucoi về các dịch bệnh ở phía tây, và làm chủ các ôn thần về dịch khí. Người nào muốn được hộ vệ, thì phải dán trước cửa mình lá phù của Tây Vương Mẫu.
Tây Vương Mẫu cũng là một vị ban thuốc trường sanh. Ngài trở thành một vị chủ tể vườn đào, ở cõi trên trời, và cai quản các vị Thần Tiên. Vườn của Tây Vương Mẫu ở trên chót núi Côn Lôn. Ngài ở trong lầu các bằng ngọc, có chín từng huyền thất và chung quanh có vách thành bằng vàng. Trong lầu có đơn phòng Tử Túy, bên trái có ao Diêu Trì, bên mặt có sông Huờn Túy. Dưới chơn có chín từng nhược thủy , sóng cao muôn trượng. Không có tiên xa, vũ luân thì không thể nào đi đến đó được.
Những từ: vườn đào, núi Côn lôn, Diêu trì, nhược thủy, huyền thất, ... đều có ý nghĩa trong việc luyện đơn. Để hiểu thêm về ngôi cao tột bậc này chúng ta hãy đọc lời tự giới thiệu của Đức Kim Mẫu khi Ngài giáng tại Tam Tông Miếu: “... Mẹ là ai, các con không cần biết. Vì quá cao tột, lấy trí người mà tìm hiểu sao thấu đáo; lấy sức người mà đo, thì chẳng khác chi lấy ngao [ dụng cụ để đo lường ] lường biển. Nên các con muốn đạt đến chỗ gốc sanh mạch sống đó, cần được giải thoát lần lần. Vì trí con bị nhiều bức màn vô minh trở ngại, không sao có thể hiểu biết tận tường. Ngày mà các con tu để phá lần các chướng duyên ngăn ngại, thì các con đã gần với Mẹ rồi. Mẹ là gốc sanh và mạch sống của đất trời. Vạn vật có hình hiện và vạn vật được sống, vạn vật tồn tại trong trật tự của thời gian. Vạn vật lần hồi được thần thánh hóa để cải tiến cuộc đời và giải thoát bản thân, đó là bắt nguồn do Mẹ. Cây cối xanh tươi, lòng người sáng suốt là Mẹ. Mẹ là gốc sanh, thì Trời Đất Người vật cũng do Mẹ mà ra, nên gọi là Mẹ, mà các con là con thì không cần nói: Mẹ Linh hồn hay Mẹ của xác thịt. Ngày các con được mở trực giác để thông đồng cùng Mẹ, là ngày Mẹ sẽ trao cho các con một bộ chìa khóa mở các kho tàng bí mật trong người của các con, để các con hầu hạ cùng Mẹ và làm chủ vũ trụ... ... … Các con chỉ cần hằng ngày trở về với MẸ, sống cùng MẸ nơi tâm, thì tự khắc con được cải hóa, tự khắc con sẽ được chuyển mê khải ngộ. MẸ là thể Khôn thanh tịnh. Thể Khôn ấy là chỗ mà những giờ công phu, các con qui nạp tinh thần, tập trung ý chí, gom trọn các căn để trở về với MẸ. Người đời gọi chỗ đó là “Khôn phúc” mà pháp môn gọi là “Tỳ lô hải ấn”, con nên để tâm làm việc đó. Những giờ con nghĩ đến là giờ con trở về với MẸ. MẸ là chỗ phát sanh. Các con nên hiểu cái gì bởi đó mà ra thì đó là chơn thật, cái đó là công năng diệu dụng. Nếu không bởi đó mà có, mà ra thì là huyễn hóa, là vô minh, là nghiệp. Nhưng từ khi con đã nhiễm trần cảnh, chướng duyên thì cái chơn thật đó bị ngăn cách, bị đoạn tuyệt, làm cho gốc ngọn chia đôi, trong ngoài mất liên hệ. Tuy có mắt để thấy, nhưng chỉ thấy cái huyễn hóa, tai không thể nghe được thanh âm của tiếng diệu huyền. Nếu các sở dụng của các con thường dùng như: tay, chân, tai, mắt, lưỡi, mũi, miệng, thân, cho đến ý thức tâm tư, nếu các con có vận dụng để xây đắp con người, xây đắp đạo pháp cứu đời giúp chúng, thì phải đem hết bao nhiêu cái sở dụng kia nối lại với cái gốc sinh là nguồn suối hồn nhiên thì mới tác dụng. Bằng không phải sự thấy, nghe, hay, biết, làm đó, không bởi từ cái gốc mà phát ra, thì cái đó toàn là nghiệp chướng gây rối cho mình và cho thiên hạ. Nếu các con muốn thấy thì nên tập đừng thấy, muốn nghe thì nên tập đừng nghe, cũng như muốn sống nên tập chết. Sự siêu đọa đều do sáu căn: mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Các con phải quay các sở dụng thấy, nghe hay biết đó nhập vào “Tỳ lô hải ấn” để nối thông nguồn suối thiêng liêng...” là nối thông cùng Mẹ. Theo Ngài Minh Thiện: Người nào hiểu biết cuộc trần thế là giả tạm xây đổi bất thường, nên chuyên chú vào bổn thể Vô Cực, gìn lòng thanh tịnh, mở lòng từ bi, chẳng ham danh lợi, hằng độ chúng sanh, thì sẽ chứng được quả vị, được thu về ngôi Vô Cực.
ĐỨC HỒNG QUÂN LÃO TỔ 鴻 钧 老 祖 thay mặt ngôi Hoàng Cực, cũng gọi là: Hoàng Cực Lão Gia. Hồng 鴻 nghĩa là rộng lớn. Quân 钧 là bàn xoay làm đồ gốm, hoặc dùng khuôn đúc. Lão Tổ: ông già, ông Tổ đầu tiên. Vậy Hồng Quân Lão Tổ nghĩa là người thợ làm đồ gốm lớn hơn hết, là Thợ Trời (Thượng Đế), sáng tạo ra tất cả muôn loài sinh vật. Hoàng Cực: Chữ Hoàngở đây có nghĩa là lớn, là tôn kính dùng để gọi Trời, vua. Cực là chỗ cao nhất, lớn nhất, tột cùng. Hoàng Cực dùng để chỉ ngôi vua Trời. Tại Tam Tông Miếu tượng trưng cho Hoàng Cực là hình tam giác của đèn Vô cực đăng, tượng trưng Trời, Đất, Người; trong nhiều sách, Hoàng Cực còn được tượng trưng như sau: gồm phân nửa âm, phân nửa dương, đường giữa tượng trưng khí xung hòa. Xung hòa là khí Hạo nhiên do âm dương ngưng kết, bàng bạc, hốt hoảng, huân chưng, mà phát ra. Khí ấy chống vững trời đất, sanh dưỡng và trưởng thành cho vạn vật. Minh Lý Học Thuyết giải thích như sau: “Khi Trời sanh ra người vật, luôn luôn có đặt ở trong tâm của mỗi người một điểm linh quang làm tánh, như một điều luật đạo đức, mà ai ai cũng phải tuân theo đó mà cư xử, mới trọn làm người. Dịch viết: “Nhứt âm nhứt dương chi vị Đạo”, nghĩa là một âm, một dương hiệp lại, thì gọi là Đạo. Hoàng Cực là ngôi âm dương hiệp chung, làm tiêu biểu cho điểm sanh ý trong thân người vật. Hễ điểm này đi xuôi xuống thì sanh nam sanh nữ, còn đi nghịch lên, thì thành Phật, thành Tiên”. Minh Lý Chơn Giải viết: Hoàng Cực cũng gọi là Nhơn Cực hay là phần tinh thần, phần tâm linh cực cao, chẳng phải chỉ có trong vua chúa như người xưa hiểu, mà có ở trong tất cả mỗi con người. Nói theo Nho giáo, thông thường ta có thể gọi Nó là Lương Tâm, là Lương Tri, Lương Năng, là Tánh Lý, là Thiên Lương, là Thiên Chơn, … Đó là hột giống căn bản để cho người vật nương theo đó mà tu hành, ngõ hầu trở về hiệp một với Trời. Nói một cách khác, mỗi người đều phải hiện hành ngôi Hoàng Cực ấy ở trong mình ta, đương bị buộc ràng, bị câ thúc; nghĩa là: mở dây trói buộc cho nó được giải thoát, là mục đích cứu cánh của Đạo. Hồng danh Đức Hồng Quân Lão Tổ có xuất hiện trong Khánh Chúc Văn của đạo Minh Sư. Ngài Minh Thiện cũng không tìm thấy các bài viết khác về ứng hóa thân của Đức Hồng Quân Lão Tổ. Đức Hồng Quân Lão Tổ đã giáng đàn tại Tam Tông Miếu ngày 30/12/1930. Bài xưng danh của Ngài khi giáng tại Huờn Cung Đàn, Tý thời lễ Nguyên Đán Năm Kỷ Dậu (16-02-1969) như sau:
HỒNG mông khí hóa vận triều Thiên, QUÂN chưởng căn cơ hạ điện tiền. LÃO ấu ân ban vi Thượng cổ, TỔ Tông hội ngộ sắc HOÀNG THIÊN.
ĐỨCNGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ, thay mặt ngôi Thái Cực, cũng gọi là Thái Cực Thánh Hoàng. Ngọc Hoàng nghĩa là Đấng chủ tể trên trời. Thượng Đế: Vua trên trời. Thái Cực: Thái nghĩa là rất lớn. Thái Cực là cực thái hay là cực đại. Tượng trưng cho Thái Cực là ngọn đèn trong vòng tròn thay thế cho một chấm ở giữa họa đồ Hỏa Hậu, tượng trưng ngôi Thái Cực. Thái Cực từ Vô Cực mà ra. Thái Cực động sanh dương, tịnh sanh âm, âm dương là hai mặt của Thái Cực: dương thì phát, âm thì thu; dương thì tán, âm thì tụ. Theo Kinh Dịch: Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … nghĩa là Thái Cực sinh âm dương, bốn tượng, tám quẻ… tinh thần, vật chất, vũ trụ, vạn vật. Thiệu Khương Tiết (1011 - 1077) cho rằng Thái Cực cũng là Đạo, là Hoàng Cực, là Tâm. Tất cả những danh từ đó đều là nhân tạo, để chỉ định Nguyên Thể vũ trụ. Đức Trần Hưng Đạo giải rõ hơn như sau: Khi chưa có Trời Đất, vũ trụ chỉ là khoảng hồng mông lặng lẽ, chỉ có một khí Hư vô. Khí ấy gọi là Vô Cực, mà ta quen gọi là Diêu Trì Kim Mẫu. Khí Hư vô mới sanh ra Thái Cực. Thái Cực cũng gọi là Trời, là Thượng Đế. Có Trời hay Thượng Đế rồi, mới có vạn hữu chúng sanh. Có vạn hữu chúng sanh mới có Thần Thánh Tiên Phật. Các Thần Thánh Tiên Phật thi thiết hết khả năng bản thể của mình, rồi trở lại Hư vô, hiệp nhứt cùng Đạo. Nếu không có khí Hư vô, thì cũng không có Thượng Đế; không có Thượng Đế, thì cũng không có gì hết. Đã không có gì hết, thì làm gì biết được Vô Cực, Thái Cực, Phật, Thánh, Tiên, Thần. Nên chi Đạo Đức kinh có câu: “Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu”. “Thỉ” là Vô Cực. “Mẫu” là Thái Cực. Thái Cực với Vô Cực không hai mà hai, không một mà một, hai và một là thể và dụng của Đạo. Đạo có sắc, có không, có động, có tịnh. Khi hiện thì gọi Thái Cực. Khi ẩn thì gọi Vô Cực. “Vô Cực nhi Thái Cực” là vậy. Đức Thánh Trần viết: Hư vô, Thái Cực cũng đồng ngôi Động tịnh, sắc không, ấy lẽ Trời. Biến hóa nhiệm mầu do một khí, Cơ quan đóng mở có trong người. Về ứng hóa thân của Ngọc Đế, theo kinh Ngọc Hoàng Bổn Hạnh được lượt dẫn bởi Ngài Minh Thiện, sự tích của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế như sau: Xưa kia, có một nước hiệu là Quang Nghiêm Diệu Lạc. Vua nước Diệu Lạc hiệu là Tịnh Đức. Còn Hoàng hậu hiệu là Bửu Nguyệt Quang. Vì không có Thái tử, vua mới truyền lịnh cho các đạo sĩ khắp các chùa chiền trong nước chon một này,trong nửa năm, không ngớt hương khói, không chút nãn lòng mà cầu con. Lòng thành kỉnh ấy cảm động Đức Thượng Đế. Đức Thái Thượng Lão Quân mới phụng sắc của Thượng Đế xuống trần gian lúc đầu giờ Tý. Theo Ngài, Linh Bửu Thiên Tôn bồng một linh hồn của Thượng Đế chiết ra, ngồi xe ngũ sắc đến nước Quang Nghiêm Diệu Lạc,. Hào quang trong chơn lông của hài nhi chiếu sáng khắp cả cung điện nhà vua. Bửu Nguyệt Quang hoàng hậu chiêm bao thấy ông Tiên bồng một hài nhi, mình có hoàng quang sáng rực. thì vía Hoàng hậu quì bạch xin, để sau nối ngôi vua mà trị vì thiên hạ. Đức Giáng Sanh Thiên Tôn, tức là Thái Thượng Lão quân, nói: “Hoàng hậu muốn xin, thì Ta cho”. Hoàng hậu liền lạy tạ ơn. Rất mừng rỡ, vía Hoàng hậu giựt mình tỉnh giấc, cảm nghe bụng nặng như thọ thai. Bà mới đem tự sự thuật lại cho vua nghe. Vua rất mừng rỡ. Đến kỳ,Hoàng Hậu sanh được thái tử hình dung tốt đẹp lạ thường, ai thấy cũng mến thương cả. Khi lớn lên, thái tử lại có lòng từ nhơn, ưa việc bố thí. Khi vua băng hà, thái tử nối ngôi vua, nhân đức bủa khắp, không ra oai mà nước trị, người người đều ca hát xưng tụng công đức của vị tân quân. Đến sau, Thái tử nhường ngôi cho một vị đại thần đạo đức, rồi vào tu trong núi Phổ Minh Hương Nghiêm Thành. Ngài tu nhiều đời, nhiều kiếp như vậy: Có khi làm vua, có khi làm thầy thuốc cứu bịnh, có khi làm việc bố thí, thi ân rộng khắp, không sao kể xiết chứng tới bực Kim tiên, xưng hiệu là Thanh Tịnh Tự Nhiên Giác Vương Như Lai. Tiếp theo đó, Ngài còn tu không biết là mấy ức kiếp nữa, kiếp nào cũng lo truyền giáo độ nhơn, mới thành Ngọc Hoàng, thay mặt cho Thượng Đế Tạo Hóa, mà trị vì một cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới. Ngọc Hoàng Thượng Đế thường giáng tại Tam Tông Miếu trong những đại đàn ban Sắc Lệnh, ban Quyền Pháp, phong phẩm cho quý tiền bối... Một trong các bài thơ báo danh của Ngài (ngày 2-7-1974) như sau:
NGỌCđâu quý sánh được Chơn Tâm, HOÀNG phụ thương con mãi lỗi lầm. THƯỢNGđạt gắng tu nên thánh thiện, ĐẾ ngồi chờ trẻ biết tuân khâm.
Ngài Minh Thiện viết: Vậy thì ba ngôi chỉ có Nhứt khí, mà mỗi ngôi đều có một vai trò riêng biệt, không giống nhau, mà luôn luôn bổ túc cho nhau. Tuy phân ba thời kỳ cho dễ hiểu, kỳ thật ba ngôi là mộ, không phân cao hạ. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát giảng rõ thêm: Minh Lý nhận thức theo Đạo học nên Vũ trụ, Tạo hóa chỉ một nguyên lý tối cao. Nguyên lý ấy gọi là “Tam nguyên nhứt thể”. Tam nguyên là: Vô Cực, Thái Cực và Hoàng Cực. Còn Tam Giáo, chư Phật, Tiên,Thánh Thần Tinh Tú… đều là ứng thân của Người. Có thể nói từ đó mà ra, rồi tất thảy cũng hoàn về nơi đó. Nên người Thiên ân cần hiểu cho chính lý mới khỏi tách ngoài giáo pháp, đối lập các giáo bạn. Vậy, ba vị: Kim Mẫu là Mẹ, là gốc của sanh thành; Hồng Quân Lão Tổ là người tạo nên vạn vật và Ngọc Hoàng Thượng Đế phán đoán muôn vật; nên tuy ba mà một bất khả phân.
TAM GIÁO TỔ SƯ
ĐỨC TÂY PHƯƠNG PHẬT TỔ Thuở còn trẻ, Đức Phật vốn tên là Tất Đạt Ta (Siddharta), có nghĩa là: vạn sự như ý, họ Cồ Đàm (Gotama). Cha là vua Tịnh Phạn (Suddhodhana), vua nước Ca Tì La (Kapila), ở phía đông bắc xứ Ấn Độ, gần núi Tuyết Sơn (Hi Mã Lạp Nhã). Mẹ là hoàng hậu Ma Da (Mayadévi). Trước kỉ nguyên Tây lịch, 563, Ngài ra đời, nhằm ngày mồng 8 tháng 4, đời vua Linh Vương nhà Châu. Nhiều sách xưa ghi sanh đời vua Chiêu Vương. Nay theo sách Từ Nguyên và tạp chí Viên Âm, đúng thời vua Linh Vương, mới trùng khớp với các sách khảo cứu của người phương Tây bấy giờ. Hoàng Hậu hạ sanh Ngài trong lúc dạo chơi trong vườn Lam-tì-ni (Lumbini). Theo tui6ng truyền: Bấy giờ, trên trời xảy ra nhiều điềm lành: có một luồng ánh sáng soi khắp mười phương thế giái, dưới đất nảy mọc sen vàng. Vừa lọt lòng, Ngài đứng thẳng dậy, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, bước đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương, mà rằng: “Trên trời dưới đất duy Ta (chỉ đại ngã, chơn ngã) là lớn”. Tiếng Ngài nói oan oan. Bởi đó, về sau mỗi khi Ngài thuyết pháp trong kinh thường gọi là sư tử rống. Ngài có ba mươi hai tướng tốt, đại khái như: dưới chân có hơn cả ngàn khu ốc, hai cánh tay dài quá đầu gối, màu da như vàng ròng, trên đầu lồi cục thịt như đầu tóc…, có ông tiên A Tư Đà (Asita) đến xem tướng đoán rằng: “Ngài ở nhà lo việc đời thì làm vua cả thiên hạ, còn xuất gia đi tu, thì thành một vị chánh giác”. Ngài sanh ra được bảy ngày thì thánh mẫu từ trần, được lên cõi trời làm Thiên thần, Ngọc nữ. Đến 16 tuổi, Ngài cưới vợ là Da Du Đà La (Yasodhara), hạ sanh một trai, đặt tên là La Hầu La (Rahula). Theo thuyết thông thường, Phật xuất gia hồi 19 tuổi (coi vía Phật xuất gia ngày mồng 8 tháng 2), tu khổ hạnh 12 năm, đến 30 tuổi thành Đạo (coi vía Phật thành đạo ngày mồng 8 tháng chạp), rồi 80 tuổi nhập Niết bàn (coi vía Phật nhập Niết bàn ngày rằm tháng 2), nhằm đời vua Châu Kỉnh vương, năm 483 trước kỉ nguyên Tây lịch.
ĐỨCVĂN TUYÊN KHỔNG THÁNH
Đức Khổng Tử dòng dõi của Vi Tử Diễn (Vi Trọng), tới Ngài là mười bốn đời. Vi Tử Diễn là con giữa của vua Đế Ất, nhà Thương (năm 1191-1154 trước kỷ nguyên Tây lịch). Còn người con lớn là Vi Tử Khải, người con út là Thọ Vương, tức là vua Trụ. Từ Vi Tử Diễn truyền lần xuống, tới ông tổ thứ sáu là Khổng Phủ Gia, trước là họ Tử, sau mới lấy họ Khổng (họ của vua ban). Khổng Phủ Gia bị giết, con là Khổng Phòng Thúc trước ở nước Tống (bây giờ là Hà Nam), sau về ngụ nước Lỗ (bây giờ là Sơn Đông), chính là quê hương của Phu Tử. Thân phụ của Ngài là Khổng Thúc Lương, thường gọi là Thúc Lương Hột, làm quan Đại phu ở ấp Trâu, làng Xương Bình. Vợ chánh của ông Thúc Lương Hột, là Thi Thị, sinh chín người con gái, mà không có con trai. Người vợ lẽ sanh một người con trai tên là Mạnh Bì, lại có tật què chân. Lúc về già ông Thúc Lương Hột mới lấy bà Nhan Thị tên Trưng Tại, là người có tánh nhơn từ, nhu thuận. Bà Nhan Thị sợ chồng không con kế tự, mới lên núi Ni Khưu, thành tâm kỳ đảo. Khi về bà bèn thọ thai. Một bữa kia, bà Nhan Thị thấy một con thú tựa như con nghé mà có sừng, mình có vảy rồng. Con thú này nhìn bà, rồi quì xuống nhả ra một cây thước bằng ngọc, trên có đề mấy chữ: “Thủy tinh chi tử, kế suy Châu nhi vi Tố vương”, nghĩa là con của Thủy Tinh (có chỗ giải: chính Ngài là Thủy Tinh Tử giáng trần), nối truyền cho nhà Châu đã suy, mà làm ông vua không ngôi. Bà thấy con thú lạ mới lấy chỉ tơ điều cột sừng nó lại rồi đi cho ông Thúc Lương Hột hay. Ông nói rằng: Đó là con kỳ lân. Hai đêm sau con lân sút dây đi mất. Bà hoài thai 11 tháng mới sanh ra Đức Khổng Tử. Lúc này nhằm đời vua Châu Linh Vương, năm thứ 21 (Canh Tuất), tháng 10, ngày Canh Tý (năm 551 trước kỷ nguyên), tức là tháng 8, ngày 27 bây giờ (coi lịch Tàu). Vì nhà Châu lấy tháng Tý làm tháng giêng, tháng 10 thuở trước tức là tháng 8 bây giờ. Ở giữa đảnh đầu của Ngài lõm xuống còn chung quanh nổi lên cao hình như là hòn núi Ni Khưu (chỗ bà lên kỳ đảo), cho nên đặt tên Ngài là Khưu, tự là Trọng Ni. Phu Tử lại có nhiều tướng khác thường nữa là: cái môi như môi trâu, bàn tay như tay cọp, bộ vai như vai chim uyên, xương sống như xương sống con rùa. Có tướng ngũ lộ: mắt lớn, hàm lộ, răng lộ, tai to, mũi rộng… gồm hết là 48 cách phát lộ ở ngoài, gọi là “tứ thập bát biểu”. Khi Khổng Tử lên ba tuổi, thân phụ của người mất. Từ đây Đức Khổng Tử chỉ nhờ mẹ nuôi nấng và dạy dỗ. Đến 19 tuổi, Ngài cưới người nước Tống là bà Thương Quan, hạ sanh một trai, tên là Lý, tự là Bá Ngư. Vì lúc sanh Bá Ngư vua có ban cho một con cá chép, nên Ngài đặt tự cho con như thế. Cháu của Ngài tên là Cấp, tự là Tử Tư. Ngài đi châu du các nước, cuối cùng cũng trở về nước Lỗ. Sau gặp con kỳ lân què chơn, Ngài mới than rằng: “Kỳ lân ra đời không phải thời”, rồi bưng mặt mà khóc, cho là đạo mình đã tới mức cùng. Đến đời vua Châu Kỉnh Vương, năm thứ 41 (Nhâm Tuất), tháng tư, ngày Ất Sửu, Ngài mang bịnh được bảy ngày thì mất, thọ được 73 tuổi.
ĐỨC THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN
Đức Thái Thượng Lão Quân là Tổ Sư của Đạo giáo, nên cũng xưng là Đạo Tổ. Đạo Tổ vốn là người Trung Quốc ở huyện Khúc Nhơn, nước Sở (thuở trước là huyện Khổ, nước Trần). Ngài giáng sanh nhằm ngày rằm, tháng 2 đời vua Châu Linh Vương, khoảng 570 trước kỷ nguyên Tây lịch. Theo Sử ký, họ của Ngài là Lý, tên thiệt là Nhĩ. Tên chữ là Đam (Đam nghĩa là lỗ tai lớn, có trái tai dài thòng xuống). Còn theo Liệt Tiên truyện, Ngài cũng là họ Lý, tên thiệt là Nhĩ, mà tên chữ là Bá Đương, còn Đam là tên thụy (tên đặt sau khi mất). Thông thường, người ta hay gọi Ngài là Đức Lão Tử. Tại sao Ngài họ Lý, mà gọi là Lão Tử? Có ba thuyết khác nhau: 1. Theo lời giải trong cuốn “Thái Thượng Huỳnh Đình Kinh Chú”, thì thánh mẫu có nghén tới 82 năm, mới sanh Ngài dưới cội cây lý, nên Ngài chỉ cây lý làm họ. Khi sanh ra, râu tóc của Ngài đều bạc trắng, hình tướng đã già, nên xưng là Lão Tử. Lão là ông già, tử là con trẻ. Ý nói con trẻ mới sanh ra đã già, hình tuy già mà sức còn trẻ. 2. Theo truyện Cao Sĩ bên Tàu, “lão” là già, “tử” là thầy. Vì Ngài tuổi cao, nên gọi sách của Ngài làm ra là Lão Tử Kinh, nghĩa là cuốn kinh của Ông thầy già. Cuốn kinh của Ngài truyền đó cũng gọi là Đạo Đức Kinh. 3. Còn theo “Triết học sử đại cương” của Hồ Thích, người đời Xuân Thu, khi xưng tên thì trước để tên chữ sau để tên thiệt. Có lẽ Đức Lão Tử tên chữ là Lão tên thiệt là Đam, nên xưng là Lão Đam. Lại theo lối xưa, dưới tên chữ, người ta hay thêm chữ “tử”, chữ “phụ” …, (như học trò của Đức Không Tử, là Nhiễm Cầu, tên chữ là Hữu, mà gọi là Hữu Tử. Cho nên người sau mới gọi Lão Đam là Lão Tử. Hồ Thích lại còn nói: Người xưa có hai họ, là thị và tánh rất phân biệt. Kẻ thường dân ở trong bá tánh, y theo họ thiệt của mình, nên gọi là tánh. Còn người giàu sang lấy tên nước, lấy chức quan làm họ, nên gọi là thị. Đức Lão Tử là dòng dõi quí tộc (có chỗ nói Ngài là cháu vua Chuyên Húc), nên tánh thường là Lão, còn Lý thì có lẽ là thị, họ theo quí tộc đó chăng? Vì Ngài là người ẩn dật, ít ai biết được đời sống của Ngài ra sao, nên sự tích của Ngài rất khó tra cứu. Nhiều sách chép khác nhau, không biết tin chắc vào đâu nhưng có một điều mà ta có thể tin được, là Đức Khổng Tử có đến hỏi lễ với Đức Lão Tử trong khoảng giữa năm 518 và năm 511, trước kỷ nguyên Tây lịch. Thế thì Đức Lão Tử ở vào cùng thời kỳ với Đức Khổng Tử. Người ta phỏng đoán Đức Lão Tử lớn hơn Đức Khổng Tử khoảng 20 tuổi và lúc hai Ngài gặp nhau, Đức Lão Tử đã già, có khoảng 60 tuổi, đương làm quan Trụ hạ sử (giữ tàng thư viện) cho nhà Châu. Khi trở về, Đức Khổng Tử khen Đức Lão Tử như con rồng, nên sách có câu: “Du long chi thán”, chỉ vào lúc hai Ngài gặp gỡ nhau đây. Sau nhà Châu suy, Đức Lão Tử từ chức đi về hướng tây, gặp Doãn Hỉ làm quan lịch giữ ải Hàm Cốc, thì Ngài có truyền cho ông này cuốn kinh Đạo Đức. Rồi từ đó bặt tích, không ai biết Ngài đi ở xứ nào và đăng tiên hồi nào. Có chỗ nói Ngài đi qua Ấn Độ hay là liễu đạo, rồi giáng sanh qua nước đó. Việc này không có chi chắc chắn. Như trong bài “Xưng tụng Đức Thái Thượng Lão Quân” chữ Nho, có câu: Tử khí đông lai, quảng truyền Đạo Đức Lưu sa tây độ, pháp hóa Tướng Tông... Nghĩa là: Mây tía ở hướng đông bay lại (điềm báo tin cho quan giữ ải Hàm Cốc biết rằng Đức Lão Tử sẽ qua ải đó), thì Ngài truyền rộng bộ kinh Đạo Đức. Qua sông Lưu sa mà đi về hướng tây (xứ Ấn Độ), thì Ngài lập phái Tướng Tông mà phổ độ người xứ ấy. Trong cuốn “Chánh Giáo Thánh Truyền” của đạo Tam kỳ phổ độ (Thánh thất Bạc Liêu, Rạch Giá), cũng có nói: Giữa đời Châu,thuở Chiêu vương, Đạo quân giáng sứ Tịnh vương độ đời. Nghĩa là: Đức Đạo Quân giáng sanh vào xứ Tịnh Phạn vương, lập ra phái Tướng Tông để độ đời. Xin lưu ý: Nói Ngài sanh đời vua Châu Chiêu Vương, nghĩa là lối 1.000 năm trước kỷ nguyên Tây lịch.
tứ đại bồ tát
ĐỨC QUAN ÂM BỒ TÁT Theo kinh Bi Hoa, thuở xưa có vua Vô Tránh Niệm thọ giáo với Ngài Bảo Tạng Như Lai và được Ngài thọ ký sau này sẽ thành Phật A Di Đà, độ sanh cõi Tây phương Cực lạc thế giái. Chánh vua Vô Tránh Niệm có nhiều con, người thứ nhứt tên là Bất Thuấn thái tử, tức là Quan Thế Âm Bồ Tát sau này. Khi vua cha cúng dường Phật Bảo Tạng, thì Bất Thuấn thái tử cũng theo cha mà hết lòng dưng cúng các món ngon quí, báu vật lạ. Thấy thái tử có lòng, quan đại thần là Bảo Hải, phụ thân của Phật Bảo Tạng khuyên lơn thái tử hồi hướng công đức, để cầu đạo Vô thượng Bồ đề. Thái tử nghe lời, bèn quỳ trước mặt Phật nguyện phát bồ đề tâm. Đức Bảo Tạng Như Lai liền thọ ký cho Bất Thuấn thái tử, mà rằng: “Ngươi thấy chúng sanh trong cõi lục đạo, đều mắc tội báo, mà sanh lòng đại bi, muốn giúp họ đoạn trừ mọi sự khổ sầu, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho cả thảy chúng sanh đồng hưởng sự an vui. Vì ngươi có lòng soi xét đến những lời yêu cầu của loài hữu tình trong thế gian nên nay Ta đặt cho ngươi hiệu là Quán Thế Âm”. Lúc mạng chung, thái tử trải kiếp nọ qua kiếp kia, lên xuống nhiều lần, hằng giữ bổn nguyện, gắng chí tu hành, làm lợi ích cho chúng sanh không xiết kể. Nên hiện nay, Ngài đã chứng được bực Đẳng Giác Bồ Tát, ở nước Cực lạc thế giái. Hằng ngày được hầu hạ Đức Phật A Di Đà để tiếp dẫn chúng sanh đem về cõi Tịnh độ. Đến khi Đức Phật A Di Đà nhập Niết bàn, Ngài thừa kế Phật vị, mà hóa độ chúng sanh tại nước Cực lạc thế giái. Theo kinh Lăng Nghiêm, chính Đức Quán Thế Âm có nói rằng: “Về vô số kiếp đời xưa, có một vị Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm Như Lai. Ta đến trước Phật mà phát bồ đề tâm. Phật dạy Ta theo ba phép: Văn, Tư, Tu, nghĩa là: nghe lời giảng dạy, suy gẫm về đạo lý và tu hành mà vào tam ma đề (samadhi). Phật lại khen Ta chóng được viên thông pháp môn nên thọ kí cho Ta hiệu là Quán Thế Âm”. Như thế là Ngài được lấy cái danh hiệu của Bổn Sư làm danh hiệu của mình vậy. Người đời thường gọi tắt là Quán Âm, vì về đời nhà Đường bên Tàu, người trong nước kiêng chữ Thế là tên vua Thái Tôn, nên mới bỏ chữ ấy đi, rồi sau thành quen. Quán Thế Âm lại còn có hiệu khác là: Quán Tự Tại Bồ Tát. Chữ Quán lấy nghĩa là: khảo sát khắp trong thế giới và chữ Tự Tại là bất cứ lúc nào tự mình cũng tự do, yên vui và lo trừ sự khổ, ban sự vui cho chúng sanh. Quán Thế Âm Bồ Tát hay là Quán Tự Tại Bồ Tát đều dịch ra từ chữ Phạn là Avalokitesvara. Tiếng Phạn còn gọi là Quán Thế Âm Phadinapâni, dịch nghĩa ra là: Liên Hoa Thủ. Vì Quán Thế Âm có phép thần thông quảng đại, thường hay biến hiện ra nhiều sắc tướng để trừ sự khổ não, cho nên trong kinh nhà Phật có chỗ nói sáu vị Quán Thế Âm, có chỗ nói bảy vị Quán Thế Âm, ... Trong các danh hiệu và sắc tướng của Quán Thế Âm, ta nên biết mấy hiệu sau này:
Quán Âm Vô Úy.
Nam Hải Viên Thông Giáo Chủ, đại từ đại bi, tầm thinh cứu khổ, linh cảm Quan Thế Âm Bồ Tát.
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chuẩn Đề Quán Âm.
Phật Bà Quán Âm, tức là bà Diệu Thiện.
Phật Bà Quán Âm, tức là bà Thị Kính.
Vậy xin hỏi có một vị Quán Thế Âm mượn hình tướng khác nhau để độ chúng sanh, hay là có nhiều vị Quán Thế Âm khác nhau? Trong bài “Xưng tụng công đức” của đạo Minh Lý, có câu: ... Phổ Đà có Phật Quan Âm, Ra công cứu thế, ân thâm đức dày. Nhiều kiếp đã đầu thai biết mấy, Xuống hồng trần khuyến dạy thương sanh... Vì thế cũng có thể nhìn nhận thuyết trước là chánh đáng. Quán Thế Âm nói đây là đàn ông. Còn Phật Bà Quán Âm có lẽ là một hóa thân để độ dẫn chúng sanh mà thôi. Có nhiều chùa Phật trong nước ta theo thuyết sau này, nên tạo tượng Quán Thế Âm Bồ Tát là một người đàn bà. Lại cũng có chỗ nói: Quán Thế Âm hóa thân làm vị Đạt Lai La Ma, tức là vị Phật sống ở xứ Tây Tạng (Tibet). Một khi vị Đạt Lai La Ma hiện tại qui vị, thì Ngài lại hóa thân vào một trẻ nhỏ và mách bảo, để dân Tây Tạng tìm rước về và tôn lên làm một Đạt Lai La Ma khác. Rồi sau vị này mất, cũng làm y như nói trước, nên ngôi Đạt Lai La Ma còn mãi mãi để trị vị và tế độ dân Tây Tạng. Hiện nay, tục ấy vẫn còn.
ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT Hiệu (Phạn ngữ) của Ngài là Kautigarbha. Sự tích của Đức Địa Tạng có rất nhiều nhưng không giống nhau, là bởi Ngài xuống thế độ chúng sanh không biết mấy kiếp mấy đời mà kể. Đây chỉ xin thuật đời Ngài làm nữ Bà-la-môn, ghi ở các trương đầu trong kinh Địa Tạng. Phật bảo: Này Bồ Tát Văn Thù Sư Lị! Xưa kia, cách đây không biết là bao nhiêu kiếp, có Đức Phật hiệu là Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Đến thời tượng pháp, có một người con gái dòng Bà-la-môn, tích phước sâu dày, ai cũng kính nể, đi đứng nằm ngồi, đều có chư thiên hộ vệ. Bà mẹ mê tín tà đạo, thường khinh Tam bảo. Vị thánh nữ dùng hết lời phương tiện, khuyên can bà mẹ, để bà phát sanh chánh kiến nhưng bà mẹ vẫn không tin. Chẳng bao lâu bà chết, thần hồn bị đọa vào địa ngục Vô gián. Bấy giờ, Thánh nữ biết ngay mẹ mình, khi còn sống ở đời, không tin nhân quả, nay chết đi, tất phải tùy nghiệp mà sanh vào ác đạo. Thánh nữ liền bán nhà cửa, mua nhiều hương hoa lễ vật đem cúng các chùa và các tháp Phật làm đại lễ cúng dường. Đến một ngôi chùa, nàng thấy pho tượng Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, tỏ vẻ oai nghi, trang nghiêm rực rỡ. Thánh nữ chiêm bái tôn nhan một cách kính ngưỡng và nghĩ rằng: Phật là bực đại giác, tất nhiên biết được chỗ mẹ ta bị đọa. Nghĩ đến điều đó, nước mắt chan hòa, chiêm ngưỡng chẳng rời tượng Phật. Bỗng trên không có tiếng nói: Này Thánh nữ đương khóc kia, đừng có đau đớn xót xa nữa, hãy nghe Ta chỉ nơi mẹ con bị đọa. Thánh nữ chắp tay hướng lên trên không, mà bạch rằng: Chẳng hay đức thần nào đây, đến giải bớt tấm lòng lo của con như thế? Từ khi mẹ con mất đến nay, ngày đêm thương nhớ, nhưng không biết đâu mà hỏi. Xin cho biết mẹ con thác sanh vào cõi nào? Ở trên không lại có tiếng bảo Thánh nữ rằng: Ta đây là Phật quá khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, mà con đương chiêm ngưỡng đó. Nay thấy con thiết tha nhớ mẹ gấp mấy thường tình, nên Ta mới đến bảo cho con biết. Thánh nữ nghe nói liền ngã lăn ra, tay chơn mình mẩy đều bị tổn thương, những người đứng bên cạnh đỡ dậy, hồi lâu mới tỉnh, lại hướng lên trên không mà khấn rằng: Con nay sắp chết, xin Phật từ mẫn bảo ngay cho con biết rõ mẹ con thác sinh về cõi nào. Lúc bấy giờ, Đức Gíác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh nữ rằng: Con cúng dường xong, sớm quay về nhà, ngồi nghiêm chỉnh, niệm danh hiệu Ta, thì con sẽ biết. Sau khi lễ Phật, Thánh nữ về ngay nhà. Vì thiết tha nhớ mẹ, nên ngồi yên lặng niệm danh hiệu Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai suốt một ngày đêm. Bỗng nhiên nàng thấy tự mình đến một bờ bể, nước sôi sùng sục, rất nhiều thú dữ thân thể đều bằng sắt, bay nhảy trên mặt bể, giong bên Đông, ruổi bên Tây. Bên dưới có hàng trăm ngàn vạn đàn ông đàn bà khi chìm khi nổi, bị thú dữ tranh nhau ăn thịt. Lại thấy quỉ Dạ Xoa hình dạng khác nhau, hoặc nhiều tay nhiều mắt, nhiều chơn nhiều đầu, răng chĩa ra ngoài, sắc nhọn như gươm, lùa những tội nhơn đến gần thú dữ cho chúng vồ bắt, vớ nắm cả chơn lẫn đầu. Nhiều cảnh ghê gớm không nỡ nhìn lâu. Bấy giờ, Thánh nữ nhờ sức niệm Phật cho nên tự nhiên không sợ hãi. Có một quỉ vương tên là Vô Độc cúi đầu nghinh tiếp, nói với Thánh nữ rằng: Quí hóa thay! Bồ Tát vì duyên gì mà đến đây? Thánh nữ bèn hỏi quỉ vương rằng: Xin hỏi đây là chốn nào? Vô Độc đáp: Đây là từng bể thứ nhứt về tây núi Đại Thiết Vi. Thánh nữ hỏi: Tôi nghe thấy nói trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có thiệt không? Vô Độc đáp: Quả có địa ngục. Thánh nữ hỏi: Tôi phải làm thế nào để vào được địa ngục? Vô Độc đáp: Nếu chẳng có oai thần, tất phải theo nghiệp lực, trừ hai nguyên do nầy thì không bao giờ vào được. Thánh nữ hỏi: Vì sao trong nước nóng sôi lại có nhiều tội nhơn và nhiều thú dữ như thế? Vô Độc đáp: Đây là chúng sinh làm ác mà lúc sống không có chút nhân lành ở cõi Nam Diêm Phù Đề, khi mới chết, trong 49 ngày, không ai kế tự làm việc công đức để cứu trừ khổ nạn, nên cứ tùy theo bổn nghiệp mà đọa vào địa ngục, tất nhiên phải qua bể này trước. Về phía đông cách đây mười vạn do-tuần, có một cái biển, sự khổ ở đấy lại gấp bội hơn. Phía đông biển này, lại còn có một biển, sự khổ lại gấp bội hơn nữa. Vì cái nhân xấu xa của ba nghiệp tự gây tự chịu như thế, nên gọi chung là biển nghiệp, tức là nơi ấy vậy. Thánh nữ lại hỏi tiếp: Địa ngục ở đâu? Vô Độc đáp: Ở trong ba biển đều là địa ngục có trăm ngàn thứ hình phạt, mỗi thứ một khác. Nhưng ngục nặng nhất thì có tất cả 18 cửa, nhẹ hơn có 500 ngục, khổ độc vô chừng, nhẹ hơn lại có 5000 ngục, cũng là khổ lắm. Thánh nữ lại hỏi quỉ vương rằng: Mẹ tôi mới chết, chẳng hay thần hồn phải đến ngõ nào? Quỉ vương hỏi lại Thánh nữ: Dám hỏi mẹ Bồ Tát khi sống, thì hành nghiệp như thế nào? Thánh nữ đáp: Mẹ tôi theo tà kiến, thường hay chê bai Tam bảo, cũng có lúc hơi tin, song lại bất kỉnh. Mẹ tôi mới chết và tôi chưa biết đọa nơi nào? Vô Độc hỏi: Thế mẹ Bồ Tát tên họ là gì? Thánh nữ đáp: Song thân tôi đều thuộc dòng Bà-la-môn, cha tôi là Thi La Thiện Kiến, mẹ tôi là Duyệt Đế Lợi. Vô Độc liền chấp tay bạch Thánh nữ rằng: Xin thỉnh Bồ Tát quay về, chớ nên ưu sầu, thương nhớ nữa; vì bà Duyệt Đế Lợi tuy có phạm tội, nhưng đã được sinh lên trời ba hôm nay rồi. Đó là nhờ lòng hiếu thuận của Bồ Tát vì mẹ, hết lòng tu phước, bố thí, cúng dường trên chùa và tháp Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai. Chẳng những một mình mẹ Bồ Tát được thoát địa ngục mà những tội nhơn khác ở trong địa ngục Vô gián hôm ấy cũng được hưởng lây phước đức và cũng đều đi đầu thai rồi. Quỉ vương Vô Độc nói xong, chắp tay vái chào rồi lui về. Thánh nữ lúc đó như người vừa tỉnh giấc mộng, liền đến trước tháp và tượng Đức Phật Giác Hoa thệ nguyện rất lớn. Con xin thệ nguyện rằng: Mãi mãi về các đời sau, nếu còn chúng sanh nào có tội khổ, con còn phải mở đường phương tiện, khiến cho tất cả đều được giải thoát. Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lị rằng: Quỉ vương Vô Độc tức là Bồ Tát Tài Thủ bây giờ, còn người con gái Bà-la-môn tức là Bồ Tát Địa Tạng vậy.
ĐỨC VĂN THÙ BỒ TÁT Theo kinh Bi Hoa, Ngài Văn Thù là con thứ ba của vua Vô Tránh Niệm, hiệu là Vương Chúng thái tử. Nhờ phụ vương khuyên bảo, nên Ngài mới phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và tăng chúng trong ba tháng. Thấy Thái tử có lòng, quan đại thần Bảo Hải cũng khuyên thái tử đem công đức cúng dường Phật tăng, mà hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vương Chúng nghe theo nên bạch với Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Công đức cúng dường Phật tăng và những hạnh nghiệp tu tập thanh tịnh của tôi, nay xin hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ đề, nguyện trải hằng sa kiếp tu hạnh bồ tát, để hóa độ chúng sanh, chớ tôi chẳng vì lợi ích riêng mình, mà cầu mau chứng đạo quả”. Đức Bảo Tạng Như Lai nghe thấy lời nguyện rồi, liền thọ ký cho Vương Chúng Thái tử rằng: “Hay thay! Hay thay! Ngươi là người “Đại trượng phu”, trí huệ sáng suốt, tỏ biết mọi lẽ, phát nguyện rất lớn và rất khó khăn, làm những việc công đức rất rộng sâu, không thế nghĩ bàn được. Chính người là bậc trí tuệ nhiệm mầu, mới làm được mọi sự như vậy. Vì lợi ích hết thảy chúng sanh mà phát thệ nguyện lớn và cầu đặng cõi Phật rất trang nghiêm như thế, nên Ta đặt hiệu ngươi là Văn Thù Sư Lị”. Văn Thù Sư Lị là tiếng dịch âm tên của Ngài từ tiếng Phạn tức là Man-jucri. Chữ Phạn này có sách dịch là Mãn Thù Thi Lị hay là Mạn Thù Thất Lị và giải nghĩa là Diệu Đức, Diệu Âm hay là Diệu Kiết Tường. Đại ý nói là một vị Bồ Tát biết rõ Phật tánh và có đủ ba đức, là Pháp thân, Bác nhã, Giải thoát và đem ba đức ấy truyền ra để giáo hóa chúng sanh. Trong kinh Phật có chỗ nói rằng: Văn Thù là một vị đại Bồ Tát ở cõi Phật trong một thế giới rất xa. Có chỗ nói Đức Thích Ca Mâu Ni phát hào quang triệu ông đến cõi Ta bà để thuyết pháp cho các đệ tử nghe những lý mầu nhiệm của Phật. Có chỗ lại nói: Văn Thù Bồ Tát hiện xuống làm một vị tì khưu đứng đầu hết thảy các đệ tử và rất thân cận Đức Thích Ca Mâu Ni. Văn Thù Bồ Tát hiểu thấu chỗ sâu xa của Phật pháp cho nên có tên gọi là Pháp Vương tử (con của vua pháp, nghĩa là: Có thể thừa kế sự nghiệp của Đức Phật). Kinh Hoa Nghiêm Sớ nói rằng: Sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni vào Niết bàn rồi, Văn Thù Bồ Tát và A-nan-đà tôn giả mới làm ra bộ kinh Hoa Nghiêm. Khi kinh làm xong, Long thần đem xuống để dưới Long cung. Sáu bảy trăm năm về sau, Long Thọ Bồ Tát (Nagarjuna) xuống Long cung thấy bộ kinh ấy có ba bản, là: thượng bản, trung bản và hạ bản. Nhưng hai cuốn đầu nghĩa lý cao quá và khó quá, nên ông chỉ lấy hạ bản đem lên truyền ra cho đời. Những đạo lý trong kinh ấy là do ba vị đại đức: Thích Ca, Văn Thù và Phổ Hiền nói ra nên mới gọi là Hoa Nghiêm tam Thánh. Trong kinh Phóng Bát, Đức Thích Ca Mâu Ni nói rằng: “Nay ta thành Phật là nhờ ơn Văn Thù Sư Lị. Về đời quá khứ, vô số Phật đã trải qua làm đệ tử của Văn Thù Sư Lị, mà chư Phật sau này ra đời cũng sẽ phải nhờ oai thần của Văn Thù Sư Lị cả. Ví như ở thế gian, đứa trẻ con phải nhờ có cha mẹ. Văn Thù Sư Lị là cha mẹ của đạo Phật”. Lấy nghĩa câu ấy mà suy, thì thấy rõ ý của Đức Thích Ca muốn lấy tên Văn Thù Sư Lị để biểu thị trí huệ vậy. Vì cớ đó, mà trong kinh cũng xưng Ngài là Đại Trí Văn Thù. Vì nghĩa đó nên các tượng của Văn Thù Bồ Tát có năm búi tóc trên đầu để biểu thị năm cái trí của Phật, tay cầm thanh gươm để biểu thị cái lợi khí của trí huệ, mình cỡi con sư tử xanh để biểu thị cái sức mạnh của trí huệ. Lại cũng bởi nghĩa đó mà có khi người ta làm tượng Văn Thù Bồ Tát như một tên đồng tử để biểu thị cái nghĩa còn nguyên thiên tánh. Các chùa bên Tàu, người ta hay làm tượng Ngài hình dung như một tăng nhơn, để biểu thị: Muốn theo đạo Phật, phải có trí huệ mới tu thành được. Nước Tàu và nước Nhựt Bổn rất sùng bái Văn Thù Bồ Tát, nhứt là phái Mật tông. Chơn ngôn thờ Ngài làm một vị bồ tát rất trọng yếu vì cho rằng: Ngài có câu thần chú tám chữ: “Ôm ác vĩ ra, hồng khê tá lạc”, rất là linh ứng. Trong chùa, người ta cũng thờ tượng Đức Thích Ca thuyết pháp, bên tả có tượng Đức Đại Trí Văn Thù và bên hữu tượng Đức Đại Hạnh Phổ Hiền. Điều này có ý nghĩa: Phật sở dĩ được thành chánh quả, là nhờ có đại trí (hiểu biết) và đại hạnh (thiệt hành). ĐỨC PHỔ HIỀN BỒ TÁT Theo kinh Bi Hoa, Đức Phổ Hiền, khi chưa xuất gia học Đạo, là con thứ tư của vua Vô Tránh Niệm, tên tục là Năng-đà-nô. Nhờ phụ vương khuyên bảo, nên Ngài mới phát tâm cúng dường Phật Bửu tạng và tăng chúng trong ba tháng. Nghe thấy hạnh lành của đệ tứ Thái tử nên quan đại thần Bảo Hải khuyên thái tử đem công đức cúng dường Phật tăng mà hồi hướng về đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, để cầu được thành Phật là quí hơn hết. Trước mặt Phật Bảo Tạng, thái tử quì xuống thệ nguyện phát bồ đề tâm, tu hạnh bồ tát, mà hóa độ mọi loài chúng sanh đồng thành Phật đạo. Đức Bảo Tạng Như Lai bèn thọ ký cho thái tử Năng-đà-nô. Các vị thiên tử ở các tầng trời đồng rải xuống đủ thứ bông thơm đẹp để cúng dường và đồng thanh khen ngợi. Phổ Hiền Bồ Tát là tiếng dịch âm hiệu Phạn của Ngài là: Tam-mạn-đa-bạt-đà-la (Samantabhadra). Hai chữ Phổ Hiền là nói tánh thể bao la khắp cả, tức là nói cái chơn lý trị được những Vô minh rất vi tế mới khởi lên, và dứt được Vô minh hoặc, gần ngang hàng với Phật. Như vậy, Phổ Hiền là vị bồ tát chủ về chơn lý, về thiền định và sự hạnh vi của chư Phật. Cho nên người ta cũng gọi Ngài là Đại Hạnh Phổ Hiền. Ngài cỡi con voi trắng, biểu thị chơn lý chắc chắn trong sạch. Tượng hình Ngài ở bên hữu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Sách Bí Tạng Ký tả hình dáng của Ngài Phổ Hiển Bồ Tát, sắc trắng, tay cầm cái hoa sen, ở trên có thanh kiếm sáng giới. Theo thuyết của Mật giáo Chơn ngôn, Phổ Hiền Bồ Tát tương lai sẽ thành Phật để nối nghiệp Đức Đại Nhựt Như Lai. Trong kinh Hoa Nghiêm, thiên Hành Nguyện phẩm có nói: “Khi ở hội Hoa Nghiêm trong rừng Thệ đa, Ngài Phổ Hiền khen ngợi công đức của Phật, rồi bảo các vị bồ tát và các vị Thiện tài rằng: Công đức của thập phương chư Phật nhiều lắm, không sao kể xiết. Nếu muốn vào pháp môn để thành tựu được công đức ấy, nên tu mười thứ hành nguyện lớn, gọi là: “Thập đại hành nguyện”, như sau nầy:
Lễ kỉnh chư Phật,
Xưng tán Như Lai,
Quảng tu cúng dường,
Sám hối nghiệp chướng,
Tùy hỉ công đức,
Thỉnh chuyển pháp luân,
Thỉnh Phật trụ thế,
Thường tùy Phật học,
Hằng thuận chúng sanh,
Giai hồi hướng.
Nghĩa là: Một: Lễ kỉnh kiền thiền chư Phật,
NGŨ ĐẨU TINH QUÂN
NAM ĐẨU TINH QUÂN Nam Đẩu có sáu vì sao, gọi là Thiên phú tinh, Thiên tướng tinh, Thiên lương tinh, Thiên đồng tinh, Thiên xu tinh, Thiên cơ tinh. Phàm có người sắp sanh ra đời, Thượng Đế dạy Xích Đế phát lịnh qua cung Tử vi. Rồi lại truyền lịnh Nam Đẩu, ghi vào ngọc sách, mới sanh ra tạng tâm; kế ghi năm tháng ngày giờ trong ngọc sách mà phát lịnh xuống Minh vương, cho Thập điện Minh vương thi hành. Đến khi đứa trẻ sổ lòng, oa oa khóc lên một tiếng, thì hồn mới nhập xác. Bất luận là người nào, số mạng giàu, sang, nghèo, hèn đều có định trước. Thiên tử nói: “Nhứt ẩm, nhứt trác, mạc phi tiền định”, nghĩa là: Mỗi lần ăn, mỗi lần uống, không chi chẳng tiền định, thật không sai. Duy về mặt đạo đức nhân nghĩa, thì hoàn toàn để cho người tự do tu lấy. (Thánh ngôn ngày 3/10/26). Mạnh tử nói: “Cầu chi hữu đạo, đắc chí hữu mạng, thị cầu vô ích ư đắc dã, cầu tại ngoại giả dã. Cầu tắc đắc chi, xả tắc thất chi, thị cầu hữu ích ư đắc dã, cầu tại ngã giả dã”. Nghĩa là: muốn cầu việc chi, phải có đạo đức, muốn đặng việc chi, phải có mạng trời. Cầu mà không thấy hiệu quả, là bởi cầu ở bên ngoài (hời hợt, không thành tâm). Muốn cầu chi cho đặng ngay, muốn buông việc chi cho mất liền, cầu mà đặng hữu ích là bởi cầu ở tự mình. Con người ta có thể không tùy địa vị của mình mà đặng, là chỉ nói về đạo đức, nhân nghĩa mà thôi.
ĐÔNG ĐẨU TINH QUÂN Đông Đẩu có ba vì sao, gọi là Thiên đồng tinh, Thiên oai tinh, Thiên dư tinh. Phàm có người sắp sanh ra đời, Thượng Đế dạy Thanh Đế phát lịch qua cung Tử vi, rồi lại truyền lịnh Đông Đẩu ghi vào ngọc sách, mới sanh ra tạng gan. Đời người, hoặc giàu, hoặc nghèo, do tội phước hiện tại hoặc tiền kiếp mà phân định. Hoặc thưởng, hoặc phạt, do đó mà làm. Một đời sống của người, hoặc giàu, hoặc nghèo, do đó mà định, hoặc thưởng, hoặc phạt, do đó mà làm. Như một tội lớn thì bớt năm, một tội nhỏ thì bớt tháng. Thậm chí như động một niệm dữ, trọng thì bớt ngày, khinh thì bớt giờ. Bởi nay mà có sự tích của Kỳ thiên tông, không phải chết mà rồi thấy chết. Chẳng cần phải nói, hễ người làm lành thì đặng thêm năm tháng. Vì cớ đó mà có Viên Liễu Phàm phải chết nhưng trái lại không chết. Kẻ tiểu nhơn, thường làm việc chẳng lành, bất kỳ việc chi cũng dám làm cả. Một khi, họ thấy người quân tử làm phải, làm việc đạo đức thì lại che dấu, ém nhẹm hoặc dèm pha chê bai để phô trương cái lành hiếm hoi, nhỏ nhặt của mình. Nhưng người quân tử xét thấy rõ tới trong gan phổi của họ. Huống là vị tinh quân!
TÂY ĐẨU TINH QUÂN Tây Đẩu có bốn vì sao, gọi là Trường minh tinh, Trường tường tinh, Trường an tinh, Trường thái tinh. Phàm có người sắp sinh ra đời, Thượng Đế dạy Bạch Đế phát lịnh qua cung Tử vi, rồi lại truyền lịnh Tây Đẩu, ghi vào ngọc sách, mới sanh ra tạng phổi. Đời người, giàu sang nghèo hèn, năm tháng ngày giờ sinh ra, địa phương cư ngụ, cháu con nhiều ít, hiền ngu, lòng công vô tư, đều do nghiệp đời trước lành dữ mà phân định. Kinh Phật nói: Dục tri tiền thế nhân, Tế khán kim sanh thọ. Dục tri hậu thế quả, Tế tư kinh sanh tác. Nghĩa là: Ví như muốn biết kiếp đầu, Xem trong đương kiếp thế nào hưởng đây. Kiếp sau vội muốn biết hay, Hành tàng đương kiếp tỏ bày thực hư. Nên xét kỹ mấy câu này để biết con người có nên cẩn thận lúc một mình (thận độc) chăng?
BẮC ĐẨU TINH QUÂN Bắc Đẩu có bảy vì sao, gọi là Tham lang tinh, Cự môn tinh, Lộc tồn tinh, Văn khúc tinh, Liêm trinh tinh, Võ khúc tinh, Phá quân tinh. Phàm có người sắp sinh ra đời, Thượng Đế dạy Thủy Tinh Tử phát lịnh qua cung Tử vi, rồi lại truyền Bắc Đẩu ghi vào ngọc sách, mới sanh ra tạng thận. Khi con người chưa sanh, Bắc Đẩu Tinh Quân đã định cho người ấy chết năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, ghi trong ngọc sách, phát lịnh đến Minh Vương để Thập Điện Minh Vương thi hành. Kịp tới kỳ hạn, trước là cho bắt hồn, rồi sau mới diệt phách. Lúc ấy coi như đèn tắt lửa dứt, chẳng còn sống nữa. Ngạn ngữ có câu: “Tiên chú tử, hậu chú sanh”, nghĩa là: Trước ghi chừng nào chết, sau mới ghi chừng nào sanh, thiệt không sai. Kẻ nào làm lành thì siêu lên Thượng giới. Còn kẻ bình thường, thì cứ ở Trung giới. Nếu có gây tội lớn, thì bị đọa nơi Hạ giớii, địa ngục thọ khổ vô cùng. Ngoài bảy sao kể trên, lại có sao Tả phù, Hữu bật, nhưng con mắt thường không thể nào thấy hai vì sao này được.
TRUNG ĐẨU TINH QUÂN Trung Đẩu có năm vì sao, gọi là Thiên hòa tinh, Thiên bình tinh, Thiên trung tinh, Thiên quyền tinh, Thiên liệt tinh. Phàm có người sắp sanh ra đời, Thượng Đế dạy Huỳnh Lão phát lịnh qua cung Tử vi, rồi lại truyền Trung Đẩu ghi vào ngọc sách, mới sanh ra tạng tì. Trung đẩu coi tất cả vạn linh. Ngài là phó chủ của Tử vi. Các sao như Nam Đẩu, Đông Đẩu, Bắc Đẩu, Tây Đẩu, phải có ấn tiết (con dấu) của Trung Đẩu mới được phép thi hành. Thế thì Trung Đẩu nắm quyền hành tối yếu trong tay mình. Đây gọi là Thiên trung tinh, có chỗ cũng gọi là Đẩu Mẫu tinh, ở trong đó, có Đẩu Mẫu cung, tức là cung riêng của Đẩu Mẫu.
CHƯ PHẬT, CHƯ TIÊN
Hai bài vị chung, một bài vị thờ Lôi Âm chư Phật và một bài vị thờ Bồng Lai Chơn Tiên. Lôi Âm là chỗ Phật thường ngự. Bồng Lai là các hòn đảo, tức là chỗ Chơn Tiên ở. Hai bài vị này tượng trương cho sự tự do (liberté) và sự cưỡng bách (nécessité), chia ranh giới của Phật Tiên và chúng sanh. Hễ ở ranh giới bên này là bị cưỡng bách, nghĩa là bị luật nhân quả bắt buộc luân hồi sanh tử, lên xuống cõi trần thế mà trả trả vay vay, không biết chừng nào thoát khỏi được cái vòng cương tỏa ấy. Còn ở ranh giới bên kia, thì được tự do, thong thả, dứt hết các phiền não, muốn làm gì tùy ý. Nghĩa là các Ngài một lòng quyết độ chúng sanh ra khỏi sông mê biển khổ, cứu dân độ thế, thức tỉnh mọi người bỏ dữ theo lành, tương thân tương ái, nhìn Ngôi Một là Cha chung Thiêng Liêng của nhơn loại, lập Đại đồng là gia đình độc nhứt cho tất cả chúng sanh.
CÁC BÀN THỜ TRONG NGÔI CHÁNH ĐIỆN
ĐỊA MẪU TỪ TÔN Bên mặt Bửu điện là bàn thờ Địa Mẫu Từ Tôn (Địa) Bài vị Địa Mẫu Từ Tôn có các chi tiết sau Ở chính giữa bài vị, là: Địa Mẫu Từ Tôn, còn hai bên tả hữu, là: Trạch Dân Tiên Thánh và Chánh Trực Thiên Thần. Đức Địa Mẫu nói đây chính là Hậu Thổ ghi trong sách xưa. Trong kinh Địa Mẫu của đạo Minh Lý có câu: Từ Bàn cổ khai thiên tịch địa, Đại TỪ TÔN oai nghĩa giúp đời, Ân cao ĐỊA MẪU vơi vơi Người người gội đức tày Trời hóa sanh. … … … … Công Hậu Thổ đức dày đạo cả, Hóa dưỡng sanh hoa quả, lúa khoai. Kim ngân, châu bửu, dược tài, Nuôi người đặng sống lâu dài trần dương. Đoạn kinh này đủ chỉ rõ công đức của Địa Mẫu đối với nhơn loại, là nuôi nấng về phần vật chất, cũng như Trời là nguồn sống về phần tinh thần vậy.
Nghĩa: Địa Mẫu Từ Tôn: Đức Địa Mẫu nói đây chánh là Hậu Thổ ghi trong kinh sách xưa. Chư Thánh sáng suốt ban ơn huệ cho dân. (Dân được thấm nhuần ơn đức của các tiền nhân thánh thiện). Chư Thần chánh trực chỉ đường ngay chánh. Hai bên bàn thờ có câu đối: * Thần Đạo Hối Nhơn Duy Chí Thiện, * Tiên Gia Trăn Diệu Chỉ Tín Thành. Dịch: * Thần dạy con người trọn lòng chỉ hướng tới cái thiện, * Tu Tiên chỉ có thành tâm tin tưởng mới nhiệm mầu. Nghĩa: * Đạo Thần Tiên chỉ dạy con người làm lành rốt ráo, * Chỗ yếu diệu của Tiên gia là ở sự Tín thành.
THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG Bên hông mặt Lễ đường là bàn thờ Thập Điện Diêm Vương. Thập điện là mười điện của vua coi các địa ngục.
Nhứt điện: Vua Tần Quảng cầm sổ sống thác.
Nhị điện: Vua Sở Giang coi Đẳng Hượt đại địa ngục.
Tam điện: Vua Tống Đế coi Hắc Thằng đại địa ngục.
Tứ điện: Vua Ngũ Quan coi Chúng Hiệp đại địa ngục.
Ngũ điện: Vua Diêm La coi Hiều Kiếu đại địa ngục.
Lục điện: Vua Biện Thành coi Đại Kiếu đại địa ngục.
Thất điện: Vua Thái Sơn coi Nhiệt Não địa ngục.
Bát điện: Vua Bình Đẳng coi đại Nhiệt Não địa ngục.
Cửu điện: Vua Đô Thị coi A Tì đại địa ngục.
Thập điện: Vua Chuyển Luân cho tội nhơn đi đầu thai.
Bên bàn thờ có câu đối: * Hiểm Ác Chung Tu Luân Địa Ngục * Nhơn Từ Định Tất Bộ Thiên Đường Dịch: * Hiểm ác cuối cùng sẽ sa xuống địa ngục * Nhân từ định sẵn bước lên Thiên đường Nghĩa: * Tánh hiểm độc tàn ác rốt rồi phải đọa địa ngục * Lòng nhơn ái từ thiện ắt tiến đến cõi thiên đường.
Hai bên bàn thờ có câu đối: * Hoan Nghênh Từ Thiện Hưu Luân Mạo, * Khu Trục Tà Ma Khởi Dụng Thinh. Dịch: * Chào đón từ thiện với diện mạo hân hoan rạng rỡ, * Đánh đuổi tà ma há phải dùng lời. Nghĩa: * Vui vẻ đón tiếp người lành mà không cần dụng ý riêng tư, (không phân biệt giàu nghèo, sang giàu), * Xua đuổi tà ma (những điều bất chánh) há cần dùng đến âm thinh.
Bên dưới bài vị lớn này có hai bài vị (nhỏ): KHAI SẮC Hộ Pháp MINH CHÁNH Hộ Pháp
Khai Sắc Hộ Pháp, Minh Chánh Hộ Pháp là các vị thiên đồ đã đắc đạo, được Ơn Trên ân phong là Hộ pháp Minh Lý Đạo.
MÔN QUAN THỔ ĐỊA
Phía ngoài cửa Chánh điện thờ Môn Quan Thổ Địa. Môn quan Thổ địa là vị thần giữ Chánh điện, hoặc gọi là Giám môn quan. Ngoài phận sự giữ cửa Chùa, vị thần này còn có quyền xét công và ban phước cho các bổn đạo. Ban phước lành bằng đồng vàng là Tài Thần.
Hai bên bàn thờ có câu đối: * Đầu Dinh Bạch Phát Tri Công Lão, * Thủ Ốc Huỳnh Kim Tứ Phúc Nhân. Dịch: * Đầu đầy tóc bạc, xét công cán, * Tay nắm đồng vàng, ban phước lành. Nghĩa: * Biết được công lao của người già tóc đã bạc, * Tay nắm vàng ròng ban cho người có phước đức.
THANH PHƯỚC CHÁNH THẦN
Bên hông trái Lễ đường là bàn thờ Thanh Phước Chánh Thần, các vị coi về phần dĩ vãng (môn sanh chết mà chưa thành đạo). Thanh Phước Chánh Thần là vị Chánh Thần dẫn vong của đạo Minh Lý. Mỗi khi có người trong đạo Minh Lý quá vãng, Ngài có phận sự dẫn vong hồn ấy về cõi Thiên đàng, Cực lạc, mà hưởng phước thanh nhàn, hoặc là đến các động thiên, Bác Nhã Địa, để tiếp tục tu hành, cho tới khi thành chánh quả. Chữ Thanh có nghĩa là: trong sạch, là cõi trên, đối với hồng trần là cõi phàm. Phước là phước đức, quả lành.
Hai bên bàn thờ có câu đối: * Thánh Thần Thành Thánh Bằng Quân Dẫn, * Chiêu Phước Chiêu Tài Phục Đức Tôn. Dịch: * Thánh Thần, thành thánh nhờ Ngài dẫn, * Cầu phước, cầu tiền cậy đức cao. Nghĩa: * Nhờ công đức của Ngài dẫn dắt mà con người trở nên Thần Thánh, * Bởi đức cao trọng mới tiếp được phước, tiếp được tài lộc.
LỊCH ĐẠI TỔ TIÊN
Bên trái Bửu Điện là bàn thờ Lịch Đại Tổ Tiên (Nhơn): Đây là chỗ niêm gắng tên họ để suy tìm công đức của ông bà cha mẹ và các bực hữu đại công đã quá vãng được ân phong. Ở chính giữa bàn thờ là bài vị: Lịch Đại Tổ Tiên. Còn phụ ở hai bên tả hữu là Tiền Hiền Sáng Nghiệp và Hậu Hiền Thủ Thành.
Dịch: * Các vị Tổ tiên: tức là ông bà nhiều đời của Minh Lý môn sanh. * Tiền hiền tạo dựng sự nghiệp: tức là các bực tiền bối có công khai sáng đạo và Chùa. * Hậu hiền gìn giữ thành quả: tức là các bực hậu lai có công gìn giữ đạo và Chùa. Nghĩa: * Hiền nhân thuở trước (Tổ Tiên) xây dựng sự nghiệp. * Hiền nhân đời sau (Con cháu) giữ vững sự nghiệp cho vẹn toàn. Hai bên bàn thờ có câu đối: * Tông Công Tổ Đức Khai Tiền Nghiệp, * Tử Hiếu Tôn Hiền Khải Hậu Nhân. Dịch: * Công Đức Tổ tông khai sáng sự nghiệp, * Con cháu hiếu thảo bắt đầu thế hệ sau. Nghĩa: * Công đức của tổ tiên khai sáng (lập nên) cơ đồ sự nghiệp, * Con hiếu cháu hiền bày tỏ sự việc (mở mang) cho đời sau.
LỄ NGHI CỦA MINH LÝ ĐẠO - THỰC HÀNH LỄ NGHI CỦA MINH LÝ ĐẠO
QUI ĐỊNH ĐÁNH ĐẠI HỒNG CHUNG BÁO CÚNG LỄ TẠI CHÁNH ĐIỆN
I.Đại lễ - Lễ khánh thành: 21 tiếng liên tiếp, nghỉ 3 phút, tiếp 3 tiếng rời (1 lơi, 2 nhặt), nghỉ 1 phút nữa, rồi đánh 12 tiếng lơi đều và cách xa, tất cả 36 tiếng. - Lễ kỷ niệm: 21 tiếng liên tiếp, nghỉ 1 phút, tiếp 3 tiếng rời (1 lơi, 2 nhặt). II.Trung lễ - Lễ cầu an và Kỳ phước: 15 tiếng liên tiếp, nghỉ 1 phút, tiếp theo 3 tiếng rời (1 lơi, 2 nhặt). - Lễ nhập môn và lễ cúng sanh con: 10 tiếng liên tiếp, nghỉ 1 phút, tiếp theo 3 tiếng (1 lơi, 2 nhặt). - Lễ cầu siêu và làm tuần: 12 tiếng liên tiếp, nghỉ 1 phút, tiếp theo Nam thất Nữ cửu (nam 7 tiếng rời, nữ 9 tiếng rời). - Lễ nhập tự: 3 hồi liên tiếp, tiếp theo 3 tiếng (1 lơi, 2 nhặt). III.Tiểu lễ - Lễ hôn cấu: 3 tiếng (1 lơi 2 nhặt). - Lễ cầu giảm bịnh: 3 tiếng (1 lơi 2 nhặt). - Lễ dộng U Minh: 3 tiếng (1 lơi 2 nhặt). IV.Đánh chuông mừng: (khi tiếp rước một vị khách quan trọng, tuyên trạng công đức của một vị chức sắc được thỉnh thờ tại bàn Lịch Đại Tổ Tiên): 3 hồi, 3 dùi, rồi đánh từng một tiếng nhỏ, lơi, từ đầu cho đến khi dứt lễ.
NGHI THỨC LỄ BÁI
Qui định cách đứng, quì, xá, lạy 1.Tư thế đứng: Thân mình ngay ngắn, hai gót chân gần nhau, đầu hai bàn chân dang ra tượng hình chữ Bát (八), đầu ngay ngắn, mắt hơi nhìn xuống, hai tay khoanh lại. Cách khoanh tay (nam nữ như nhau): - Tín đồ và môn sanh tu tại gia: cánh tay trái co lại, sát vào ngực, cánh tay phải áp vô để phía ngoài. Ngón tay cái của bàn tay phải xỏ vào kẽ khuỷu cánh tay trái, còn ngón cái và bốn ngón còn lại của bàn tay trái cũng ôm vào kẽ khuỷu cánh tay mặt, hai bàn tay ôm vào hai khuỷu tay. Như vậy, khi khoanh tay, hai bàn tay vẫn được nhìn thấy. - Môn sanh đã xuất gia nhập tự: bàn tay trái ôm hông phải, bàn tay phải ôm cùi chỏ tay trái. Như vậy, thì khoanh tay, bàn tay và cánh tay trái bị che khuất vào trong tay áo, không còn nhìn thấy nữa. 2. Tư thế quỳ: Khi quỳ, luôn luôn hai bàn tay nắm lại (nam), hoặc chắp lại (nữ), để tại chớn thủy. Thân mình thẳng, đầu ngay ngắn, hơi cúi, mắt hơi nhìn xuống. Cách quỳ: Đưa chân phải bước tới trước gối nệm, quị, đầu gối trái xuống ngay trên gối nệm, kế rút bàn chân phải về, quị và đặt đầu gối phải xuống tại chỗ song song với đầu gối trái. Nắm tay [nam] hay úp hai lòng bàn tay lại với nhau [nữ] để tại chớn thủy. Đang quỳ mà muốn đứng lên thì co đầu gối đưa chân mặt lên trước, hạ nắm tay chịu trên đầu gối chân mặt rồi mới đứng dậy. Kéo chân trái theo lên, đứng ngay lại theo tư thế đứng. 3. Lạy: - Lạy Trời Phật Thánh Thần: 9 lạy (tam quị cửu bái). - Lạy ông, bà: 3 lạy (tam bái). - Lạy vong linh còn trong tang thì 2 lạy (nhị bái). Cách lạy: Nam: Nắm tay đưa lên ngang trán (vị trí Thiên), rồi đưa xuống, đồng thời đầu và thân cũng khom xuống một lượt với nắm tay mà cúi xuống. Khi tay tới đất thì hai bàn tay mở ra úp xuống mặt đất, hai ngón tay cái gác tréo chồng lên nhau, đồng thời với động tác co thân người và hạ đầu gối trái quị xuống. Tiếp đến đầu gối phải. Đặt hai đầu gối nằm song song, cong lưng để đầu cúi xuống đến đụng lưng hai bàn tay (vị trí Địa). Xong ngẩng trở lên, (không ngừng lâu ở đó mà cũng không ngẩng lên mau quá. Động tác lên xuống phải thong thả, ăn nhịp với người xung quanh). Khi thân mình ngẩng lên ngay ngắn rồi thì chuẩn bị đứng dậy liền, hai tay nắm đưa về trước ngực (vị trí Nhơn), xong theo trình tự trên mà quị xuống lạy tiếp một hay hai lần nữa cho đủ lễ 2 hay 3 lạy. Xong đứng lên, giữ theo tư thế đứng, xá 3 xá. Lễ chín lạy, khi quị xuống lần đầu rồi ngẩng lên thì vẫn giữ tư thế quì, đầu và mình hơi cúi, nắm tay chắp về để nơi ngực, xá nhỏ hai lần rồi đưa lên trán, cúi xuống lạy lần thứ nhì, lần thứ ba cũng vậy. Xong rồi đứng lên. Đứng ngay ngắn rồi quị xuống cúi lạy 3 lạy y như trước. Rồi tiếp đến lần thứ 3 cho đủ 3 lần quị, 9 lần lạy (tam quị, cửu bái). Lần thứ ba xong thì đứng lên xá 3 xá, khoanh tay đứng như cũ. Nữ: Động tác lạy y như nam, chỉ khác là hai lòng bàn tay úp vào nhau và hướng lên Trời tạo thành một góc 30 độ so với chiều thẳng đứng của thân mình. Khi quỳ lạy nhị bái hay tam bái lúc cúng ông bà và vong linh thì khi quị xuống lạy thì quỳ luôn, lạy cho đủ số lần, không phải đứng lên như nam. Nếu lạy chung thì sau mỗi lạy thì nên chờ [nam phải đứng lên] để cùng lạy xuống một lượt cho nghiêm trang, đẹp mắt. 4. Xá: Nam: Hai bàn tay nắm lại bằng cách xòe bàn tay trái, các ngón tay khít lại, đầu ngón tay cái bấm vào chân ngón áp út, rồi nắm bàn tay trái lại, như vậy gọi là bắt ấn Tý. Đưa ngón cái của bàn tay mặt xỏ vào kẽ giữa nắm tay trái để nằm ngay dưới chơn ngón trỏ (ấn Dần), bốn ngón còn lại thì áp vào ôm ngoài nắm tay trái. Đưa nắm tay lên ngực để ngay chớn thủy. Nữ: Hai bàn tay để thẳng, chắp úp vào nhau, các ngón khít nhau, rồi cũng đưa chắp tay lên ngực ngay chớn thủy. Cách xá: - Xá tay không: Khi khởi xá, đưa nắm tay hay chắp tay ra phía trước một chút, rồi đưa xuống khoảng trước bụng, đồng thời đầu và mình cũng đều cúi xuống theo một lượt, xong đưa nắm tay hay chắp tay về vị trí cũ ở trước ngực, rồi tiếp theo xá thứ nhì. Xá thứ ba thì tay, đầu, mình xuống sâu hơn một chút. - Xá có nhang: Bàn tay trái kẹp chân nhang ở ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa. Bàn tay phải kẹp áp ở phía ngoài và cũng để ngay chớn thủy. Khi xá, động tác giống xá tay không. Cầm nhang để khấn nguyện: Tay cầm nhang để ngang mày (tề mi) khi cúng vái Trời Phật và để ngay trước ngực khi cúng ông bà hay tại bàn vong. Khấn nguyện có nhang: khi vái cúi đầu lên xuống trong tư thế đứng hay quì tay cầm nhang đang ở vị trí nào thì vẫn giữ nguyên vị trí nấy. Khi khấn nguyện xong, hạ tay xuống trước ngực rồi mới cắm lên lư hương hay đợi người rước nhang cắm lên lư hương.
NGHI THỨC TỤNG KINH Khi đọc kinh, phải đọc thong thả, đúng nhịp trường canh của mỗi cách đọc. Tai nghe người bên đọc để theo đúng nhịp và đúng giọng. Không đọc quá lớn che lấp giọng người kế bên (khi mình không nghe được tiếng những người kế bên mình là mình đã đọc quá lớn, nên đọc nhỏ lại). Khi nghe biết mình đọc chậm hay mau thì điều chỉnh tốc độ lại cho ăn rập với nhịp độ chung. Khi đọc kinh, dầu đứng hay quì, thân mình phải giữ cho ngay ngắn, đầu hơi cúi xuống một chút. Ý nghĩ phải chú về câu kinh đang đọc để không sai. Khi đọc tới câu có nêu tên Phật, Trời, Tiên, Thánh, Thần thì phải cúi đầu. Trong khi cúi đầu, tay vẫn phải khoanh (nếu đứng) hay là chắp để trước ngực (nếu quì) như thường, chớ không được buông tay xuống hay chống xuống đất mà thành ra lạy. Khi đến câu kinh phải cúi đầu thì đến chữ thứ ba mới bắt đầu cúi xuống từ từ cho đến chữ cuối câu kinh thì đầu gần kề mặt đất (không đụng đất). Đọc qua chữ đầu câu kinh kết tiếp thì từ từ ngước lên cho đến chữ thứ ba thân mình đã ngay thẳng trở lại. Bất luận bài kinh nào, đọc đến câu chót đều phải cúi đầu. Không cúi xuống nhanh hoặc chậm quá so với các đạo hữu xung quanh.
NGHI THỨC LỄ CÚNG TẠI CHÙA
1. Chuẩn bị: Khi nghe một hồi Đại Hồng chung báo hiệu chuẩn bị cúng lễ (trước giờ cúng 15 phút), các tín đồ môn sanh nam nữ đang ở hậu đường phải lo súc miệng, rửa mặt và tay (có những bài chú để đọc khi làm việc này trong kinh Nhựt Tụng), mặc lễ phục, buộc dây chân, … tề chỉnh để sẵn sàng lên tập trung trước cửa Chánh điện, tùy theo nam nữ mà chia ra hai bên tả hữu. Khi nghe một tiếng Đại hồng chung, rồi Tư chung xướng “Thiện tín nhập đàn”, tín đồ và môn sanh vào Chánh điện, sắp hàng khoanh tay đứng hai bên nam, nữ ngó đâu mặt nhau. Các vị lớn tuổi, chức sắc, thâm niên trong Đạo đứng trước, tiếp đến môn sanh tín đồ còn trẻ đứng phía sau. Người nào đến trễ (dù là chức sắc hay lớn tuổi) sau khi vị Tư khánh đã đọc bài “Chỉnh thân” thì tự động đứng vào hàng cuối. Các môn sanh lớn tuổi, sức khỏe kém thì đứng vào hàng ghế dành riêng ở sát tường, để khi mỏi có thể ngồi xuống tham dự tới hết buổi lễ, tránh ra về nửa chừng. Người nào có dẫn theo người thân đến tham dự buổi lễ, người đó phải có bổn phận hướng dẫn trước các nghi thức tối thiểu như: ăn mặc tề chỉnh, kín đáo (áo gài đủ nút, không xăn tay áo); cách đứng, ngồi, quì, lạy… và đưa khách vào hàng ghế nam hoặc nữ đặt giữa chánh điện. 2. Người dự lễ thực hiện các nghi thức theo sự điều khiển của hai vị Tư chung và Tư khánh: - Khi đánh hai tiếng chuông là hiệu lịnh động: bước ra vô, xoay qua lại… - Khi đánh một tiếng khánh là hiệu lịnh tịnh (đứng tại chỗ mà thi hành): xá, quì, lạy, khởi đọc kinh… Ngoài ra, trong các trung và đại lễ, Tư chung có xướng trước các việc phải làm như: Dưng lễ phẩm, lễ cửu bái… nên cần theo dõi nghe cho rõ để làm đúng theo lịnh. Khi các tín đồ, môn sanh, chức sắc và khách nam nữ an vị xong, Tư chung đánh hai tiếng chuông và xướng “Chư sư tựu vị” để các vị chức sắc hành lễ bước vô Chánh điện. An vị xong, Tư khánh đánh một tiếng cho đàn tràng xá chào. Tư khánh đọc bài “Chỉnh thân”. Dứt bài, Tư chung đánh hai tiếng cho bổn đạo nam nữ xoay mặt ngó vào bàn thờ. Tư chung xướng: “Nhứt tâm đồng túc tịnh” thì đàn tràng đồng cúi đầu. 3. Chính Lễ
Lên đèn,
Rót trà rượu,
Niệm hương,
Đọc các bài Tịnh khẩu, tịnh tâm, tịnh thân, an Thổ Địa chú,
Đọc kinh: Tặng Thiên Đế và Xưng tụng công đức.
Lễ cửu bái,
Dâng lễ phẩm: Trầm, nhang, hoa, quả, rượu, trà (tùy theo Đại lễ hay trung, tiểu lễ)
Dâng sớ,
Đọc kinh Cầu nguyện.
Đọc kinh “Đưa Thần”, có đánh Đại hồng chung theo cho đến khi hết bài.
Lễ tất, cửu bái
Khi xong buổi lễ, Tư chung đánh hai tiếng chuông cho hai bên nam nữ quay vào đâu mặt nhau. Sau khi Tư chung xướng: “Chư sư, thiện tín tuần tự giai thối”, Tư khánh đánh một tiếng khánh cho tất cả xá chào và lui ra. Sau khi cúng xong, nếu có hai hồi chuông reo thì tất cả bổn đạo phải tập trung ở hậu đường, để nghe thuyết giảng giáo lý, thông báo đạo sự … NHỮNG QUY ĐỊNH KHÁC
1. Trước giờ cúng lễ tại Chánh điện 15 phút, vị Thủ từ hay Tư chung phải lên Chánh điện để:
Mở các cửa sổ hai bên theo thứ tự từ bàn thờ Địa Mẫu Từ Tôn bên nam vòng qua đến bên nữ ở bàn thờ Lịch Đại Tổ Tiên.
Vặn sáng hai ngọn đèn sáu tấc ở Chánh điện.
Đốt ngọn đèn dầu nhỏ đặt dưới đại hồng chung. Cầm chày đứng ngó vào Chánh điện xá một xá rồi mới khởi sự đánh chuông theo thể lệ qui định, báo hiệu chuẩn bị cuộc lễ cúng.
2.Quy định về phụ lễ: Khi cúng đại lễ ở Chánh điện phải có đủ 10 vị phụ lễ: 8 nam và 2 nữ, chia ra: - Bốn nam tại Chánh cung: + Một vị đứng bên chuông gọi là Tư Chung, một vị đứng bên khánh gọi là Tư Khánh. Hai vị đứng phía trong sát hai bên giá chuông, khánh, khoanh tay ngó ra ngoài. + Phía trước Tư chung, Tư khánh có thêm hai vị phụ lễ: phía bên chuông để lo rượu, trà, bông, trái, dưng lễ phẩm; phía bên khánh để lo nhang đèn và rước lễ phẩm. Hai vị khoanh tay ngó mặt nhau. - Bốn nam tại các bàn Thần: Địa Mẫu Từ Tôn, Thập Điện Minh Vương, Long Thần Hộ Pháp và Môn Quan Thổ Địa. - Hai nữ tại các bàn Thần: Thanh Phước Thần và Lịch Đại Tổ Tiên. Sáu vị phụ lễ đứng hầu tại các bàn Thần: nam bên tả, nữ bên hữu. Riêng vị đứng hầu bàn thờ Môn Quan Thổ Địa vào đứng bên hữu của bàn thờ Hộ Pháp cho đủ hai bên. Trước giờ cúng năm phút, vị Tư Chung hay Trưởng ban Nghi lễ lắc hai hồi chuông tay nhỏ, để tập trung các môn sanh có phận sự phụ lễ tại Hậu đường, thông báo diễn tiến chương trình buổi lễ, chỉ định vị trí của các phụ lễ. Các phụ lễ khi đến vị trí mình phụ trách phải kiểm tra đèn, nhang, hoa, quả, rượu, trà cho đầy đủ, tránh việc vào giờ cúng mới thấy thiếu, lo chạy kiếm vật này, vật nọ làm mất trang nghiêm buổi lễ. Tại bàn đàn thì vị Tư chung lo kiểm tra lễ phẩm: trầm, hương, sớ văn, kinh, vị trí các cây đèn lớn nhỏ, dĩa quả, bông… có đầy đủ và ở đúng vị trí hay không. Trong những buổi lễ cúng có cập theo nhiều lễ phụ mà cần có sự thay đổi lễ phẩm thì phụ lễ phải kiểm tra, chia từng phần lễ phẩm để thi hành đúng lúc. Khi tất cả đã kiểm tra xong, nếu còn dư giờ, tất cả phụ lễ đều ngồi tĩnh tâm trước bàn thờ Hộ Pháp chờ đến giờ, không chuyện trò hay đi tới lui. 3. Thứ tự thực hiện lễ cửu bái: - Ông Chủ lễ, - Các vị hành lễ ở Chánh cung, - Các nam nữ chức sắc đương quyền trong Đạo, các vị xuất gia, các vị trong tịch Đạo đồng quì lạy một lượt, - Hai tiếng chuông cho các vị hành lễ ở Chánh cung bước ra hai bên, các khách nam nữ vào lạy. - Bổn đạo nam nữ. 4. Đọc kinh khi dâng lễ phẩm: Chỉ có các vị hành lễ và phụ lễ đọc kinh dâng mà thôi. Trong các đại lễ có dâng trầm và quả, khi đọc bài Mừng dưng lục cúng, chỉ có các vị hành lễ tại Chánh cung vòng tay cung nghinh mà thôi, còn đàn tràng thì chắp tay cúi đầu theo. 5. Cúi đầu khi đọc Sớ: Khi đọc Sớ, đến danh hiệu Phật, Tiên, Thánh, Thần, chỉ vị hành lễ đọc sớ cúi đầu, còn toàn đàn tràng cúi đầu ở những danh hiệu sau: - Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, - Đức Thái Thượng Lão Quân (sau danh hiệu 3 vị Giáo Tổ), - Bốn Phương Thổ Địa Phước Đức Chánh Thần. 6. Tại Hậu đường, ngoài Tề Vật Đàn còn có hai bàn thờ vong linh các vị quá vãng. Bên trái là bàn thờ các vị môn sanh Minh Lý, các vị chức sắc chưa được thọ phong, chia rõ hai bên nam nữ. Bên mặt là bàn thờ thân nhân của môn sanh Minh Lý, cũng chia hai bên nam nữ. Các cuộc lễ cúng ở hai bàn thờ tại Hậu đường: Ban Lễ cúng ở đây gồm ba vị: một vị chủ lễ và hai vị phụ lễ. Một trong hai vị phụ lễ nầy có một người làm Tướng Lễ. Vị này xướng đánh chuông, điều khiển buổi lễ. Vị phụ lễ thứ hai thì có phận sự lo đèn, nhang, rượu, trà, dâng và tiếp bản điệp văn. Tại Hậu đường, còn thiết lập một bàn thờ để cúng thập loại chúng sinh khi có lễ cúng vào các dịp:
Ba rằm lớn: tháng Giêng, tháng 7, tháng 10.
Trong lễ cúng rằm tháng 7 (Trung nguơn), có thiết lập bàn thờ Đức Tiêu Diện Đại Sĩ.
Các khóa tu Xuân phân, Hạ chí, Thu phân, Đông chí...
Khi dưng nhang, vị hành lễ tay cầm nhang để trước ngực và chỉ cúi đầu sau câu kinh cuối. Trừ khi cúng rằm Trung nguơn, có dưng nhang ở bàn Đức Tiêu Diện Đại Sĩ thì phải để trước trán và lạy chín lạy mà thôi. 7. Tại nhà môn sanh Minh Lý, lập bàn thờ Tam giáo và phải cúng ít nhứt một thời trong ngày, tùy theo thời gian sắp xếp được.
LỄ NGHI CỦA MINH LÝ ĐẠO - LỄ PHẨM TRONG MINH LÝ ĐẠO
Lễ phẩm của Đạo Minh Lý dâng cúng trong các lễ cúng tại chùa có ý nghĩa như sau: 1. Trầm: “Cái lư trầm là thiện, chí thiện, là Tánh Tiên thiên nói trên, như khói trầm nhẹ nhàng vượt lên từng cao thành một vừng mây, luôn luôn tạo sự thông cảm cùng Trời chẳng lúc nào ngừng. Cho nên trong lúc lễ bái, Tiên Phật có lời dặn: “Chẳng nên để dứt hơi trầm”. 2. Hương: Nhang thơm để tỏ rằng lương tâm con người cũng phải được như vậy mới cảm Thần Tiên. Hai món này là dấu phải khử trược tâm, cho lòng thanh khiết, mới thông đến không trung, vì trong kinh có nói rằng: “Khí khinh thanh thượng phù vi thiên, khí trọng trược hạ ngưng vi địa”. Bằng cái tâm còn trược, thì chẳng bay lên cao. (Đức Văn Tuyên Vương, ban ngày 5-8-1925). Đốt nhang khi cúng kiến là tỏ dấu kỉnh của mối đạo. 3. Bông: Ba bình bông tượng trưng cho ba đạt đức của người tu là nhân, trí, dũng. 4. Trái: Năm quả trái cây năm màu (xanh, đỏ, vàng, đen, trắng) tượng trưng cho năm đạt đạo là quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu (tức là ngũ luân). 5. Một mâm tròn đựng chín chung rượu, chín chung trà, có ý nghĩa: “Mâm trà rượu là chỗ thần khí tương giao, Khảm Ly ký tế. Đó là Hoàng Cực, làm trung khu cho tánh mạng, làm cơ chỉ cho Đất Trời, làm nền móng, làm cột rường cho đời đời, mà an dân giữ nước. (Đức Thánh Trần Hưng Đạo dạy ngày 14-12-1965). Kế đây, xin dẫn tiếp những lời Thần Tiên dạy: “Cấp giữa: Ba bình bông là “Tam huê tụ đảnh”. Năm dĩa quả là “Ngũ khí triều nguơn” (cũng đọc là triều huyền, là triều Huyền quan). (Tam huê là tinh, khí, thần. Ngũ khí là ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Ngũ và tam đều hiệp nhứt mà thành Đơn). Đơn thành sẽ giải thoát khổ đau, mà con người cộng hưởng tuổi sống lâu dài, đứng ngoài vòng sanh tử. Đơn thơ gọi an lư là chỗ đó. Chỗ đó cũng gọi là Huỳnh đình, tức là ngọn đèn lớn ở giữa bàn đàn (cấp giữa). Ở cấp dưới, an lư lập đảnh thì gọi là một thi (chủ động), một thọ (bị động). Thi là Ly, thọ là Khảm, gọi là chiết Khảm điền Ly. Ở từng dưới, luyện xong tinh hóa khí, thì phải di lư hoán đảnh, nghĩa là dời lư lên Huỳnh đình, còn đảnh ở tại Nê huờn, sau hai bên hiệp cùng nhau, gọi là “Kiền Khôn giao cấu”, để luyện khí hóa thần. Năm dĩa quả cũng có thể tượng ngũ khí, ngũ đức, ngũ hương. Ngũ hương là: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Tri kiến hương, Giải thoát tri kiến hương. Đó là năm phần công phu tu học, cốt ở tam học là: Giới, Định, Huệ, tức là ba bình bông, mà luôn luôn phải được kiên trì. Giới sanh định, định sanh huệ, rồi định huệ đẳng dụng mới thiệt là con đường giải thoát của các bậc chơn tu, không thể nào bỏ tam học ra ngoài được…”. Trong các kỳ cúng, trên bàn thờ ở chánh điện được chưng đủ sáu lễ vật, tới lễ dâng trong khi cúng thì lễ phẩm được dâng tùy theo mức độ buổi lễ như sau: 1. Đại lễ: Trầm, nhang, bông, trái, rượu, trà, gọi là lục cúng. 2. Trung lễ: Nhang, bông, rượu, trà, gọi là tứ cúng. 3. Tiểu lễ: Không dâng lễ.
LỄ NGHI CỦA MINH LÝ ĐẠO - ĐẠO PHỤC CỦA MINH LÝ ĐẠO
Màu qui định cho đạo phục Minh Lý môn sanh, cư sĩ tại gia hay tu sĩ nhập tự đều là màu trắng cho thường phục và màu đen cho áo lễ, theo bài phú Hạ nguơn Ơn Trên cho tại Minh Chơn Lý: “Đỏ, vàng, xanh, báu Thái Cực Đồ - Đen, trắng, tím, ngôi Vô Vi Cảnh”. Ba màu vàng, đỏ, xanh là của Cao Đài, còn đen, trắng, tím là của Minh Lý. Nam: áo dài đen, quần trắng, khăn đóng đen. Cổ áo cao 4 cm, mí vuông. Nữ: áo dài đen, quần đen. Cổ áo cao 3 cm, mí tròn (TN 12-5-1974). Áo dài có 2 kiểu (nam cũng như nữ): * Áo tay chẹt, dài đến phủ đầu gối để mặc khi tiếp khách, liên giao, cúng ông bà ở hậu đường, ở tư gia … * Áo tay rộng để cúng Trời, Phật nơi chánh điện tại Chùa hay tại các Thánh thất, Thánh tịnh, Hội Thánh khi đi liên giao hành đạo và có kích thước như sau cho các môn sanh tùy theo bậc trong Đạo: - Tất cả các môn sanh chức sắc còn tu tại gia: Áo dài nút thường, chiều dài khi mặc đo từ mặt đất lên mí gấu được 30 cm, cổ tay rộng 25cm. - Môn sanh chức sắc đã nhập tự: Áo tràng vai vuông, chiều dài khi mặc đo từ mặt đất lên mí gấu được 20 cm, cổ tay rộng 35cm. - Các vị hành lễ và phụ lễ, chức sắc nam: chân mang vớ trắng, hài tía (xanh ửng hồng). Nơi mũi phải chạy hai đường đen có đính một cái hoa. Nơi miệng hài phải lộn một đường đen cho giáp. - Các chức sắc nữ tịch Diệu Chơn mang vớ trắng hài tía có thêu chữ Diệu và chữ Chơn trên mặt hài, - Tịch Huyền Như và Đại Cơ mang hài đen viền hồng hay xanh nhạt có đính một cái hoa trắng trên mũi. * Khi cúng trên Chánh điện, tất cả môn sanh Minh Lý đều phải có một đôi dây buộc hai ống quần nơi cổ chơn, có kích thước rộng 3,3 cm dài 64 cm bằng vải đen, 1 đầu nhọn, 1 đầu bằng. Ý nghĩa về màu đạo phục của Đạo Minh Lý được các Đấng Thiêng Liêng dạy như sau: “Năm Giáp Tý là năm khai Đạo Minh Lý. Giáp Tý là Hải Trung Kim, tức vàng ở trong nước (vàng dưới biển). Kim thuộc màu trắng, nước thuộc màu đen. Mà năm Tý, tháng Tý là quẻ Phục, mà Tý là Bắc phương của quẻ Khảm, quẻ Khảm là Thủy ở hướng Bắc, chính Tý, nên Minh Lý chọn màu đen. Trong quẻ Khảm có hào dương thuộc Kim là màu trắng, Kim sanh Thủy, thì nên dùng màu đen, trong lót màu trắng. (Lời dạy của Đức Lữ Tổ, ngày 9-9-1925). Mà năm Giáp Tý thuộc cung Tốn, lấy Tốn tứ nhập Trung cung phi tới đến cung Khảm là Cửu Ly, tức Cửu tử (tía), nên Đạo Minh Lý dùng đôi hài màu tía (tím). … Như màu đen là căn cứ năm Tý quẻ Khảm, là Giáp Tý là Hải Trung Kim, Kim sanh Thủy. Còn đôi hài màu tía thuộc Cửu Ly. Năm đó Ly Cửu Tử cũng ở ngay tại Khảm. Ý nghĩa Đạo pháp là “Thủy Hỏa Ký tế, Khảm Ly tương hội” …
lễ nghi của minh lý đạo - NHỮNG NGÀY LỄ CHÍNH CỦA MINH LÝ ĐẠO
(Các ngày được tính theo Âm Lịch) I. Mỗi tháng vào tối 14 và 30 (tháng thiếu là 29), đều có thiết lễ cúng Cầu an cầu phước cho bá tánh. II. Các lễ chính khác trong năm được cúng theo lịch trình sau:
Vía Ngọc Hoàng Thượng Đế và giải hạn nhương tinh: tối mùng 8 tháng giêng.
Rằm Thượng nguơn - Thiên Quan Tứ Phước: tối 14 và trưa 15 tháng giêng
Vía Đức Thái Thượng Lão Quân: tối 14 tháng 2.
Vía Đức Thích Ca Phật Tổ: tối 14 tháng 4.
Vía Đức Hồng Quân Lão Tổ: tối mùng 6 tháng 7.
Rằm Trung Nguơn - Địa Quan Xá Tội: tối 14 và trưa 15 tháng 7.
Vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu: tối 17 tháng 7
Vía Đức Văn Tuyên Khổng Thánh: tối 26 tháng 8.
Rằm Hạ nguơn - Thủy Quan Giải Ách: tối 14 và trưa 15 tháng 10.
Vía Đức A Di Đà Phật và lễ tưởng niệm Đức Bác Nhã Thiền Sư qui vị: tối 16 tháng 11.
Lễ kỷ niệm Minh Lý Đạo Khai: tối 26 tháng 11.
Tư Mạng Táo Quân triều thiên và đưa thần: tối 23 tháng chạp.
Lễ rước ông bà (ở Hậu đường): chiều 29 hay 30 tháng 12.
Lễ rước Tư Mạng Táo Quân và chư Thần hồi vị: chiều 29 hay 30 tháng 12.
Lễ cúng giao thừa, tế Trời và Cầu an: tối 29 hay 30 tháng 12.
GIÁO LÝ VÀ KINH LUẬN MINH LÝ ĐẠO - GIÁO LÝ
THỰC HÀNH GIÁO LÝ MINH LÝ ĐẠO GIÁO LÝ Giáo lý của Minh Lý đạo là sự kết hợp tinh hoa của ba tôn giáo lớn ở phương Đông là Thích - Đạo - Nho làm Một (Qui nguyên tam giáo) để hướng dẫn tín đồ, môn sanh tu hành, tự độ, vị tha độ dẫn loài người xây dựng một xã hội hòa bình, an lạc. Trên cơ sở của học thuyết Tam giáo, Minh Lý đạo hình thành Kinh chú, Sớ điệp, Luật lệ, Lễ nghi và giáo lý. Những công việc hàng ngày về kinh chú, sớ điệp, luật lệ, lễ nghi thuộc về Hình nhi hạ học. Giáo lý cao siêu thuộc về Hình nhi thượng học. Giáo lý của Minh Lý đạo được hình thành trên ba nguyên tắc: Tam giáo hiệp nhứt (Thích - Đạo - Nho) trên đặc điểm luân lý, luyện khí, tu tâm là ba phương pháp cần thiết cho sự tu hành; Tam giáo qui nguyên, tuy ba tôn giáo có đặc điểm khác nhau nhưng cùng hướng về căn bổn của đạo làm người là ngôi Viên Nhứt; chấp trung thủ nhứt là nắm giữ ngôi Viên Nhứt. Tam giáo đồ của Minh Lý cũng gọi là lược đồ Hoả Hậu, tượng trưng ba nguyên tắc lập đạo nói trên. Minh Lý đạo lấy lược đồ Hoả Hậu làm biểu hiệu của Đạo. Phần học Công truyền ở tại Thánh sở Tam Tông Miếu, còn phần học Tâm pháp giảng và tu tại Bác Nhã Tịnh Đường. Mục đích của Tam giáo là phụng thờ Chơn lý, tức là Trời Phật theo nghĩa rộng rãi, rồi theo Chơn lý mà trau tâm sửa tánh, bỏ dữ theo lành, để càng ngày càng gần gũi với Ngôi Viên Nhứt. Giáo lý Minh Lý Đạo bao gồm các tài liệu thuộc về ba giáo, rồi chọn riêng sở trường của mỗi giáo mà học, chớ không phải học hết giáo lý của ba giáo. Về Phật giáo, sở trường là tu tánh. Về Đạo giáo, sở trường là luyện mạng. Về Nho giáo, sở trường là luân lý. Hiệp ba tinh hoa đó, chia ra ba lớp học, bỏ hình thức ra ngoài, để tìm cái Thiên tâm, Lý tánh nói trên, gọi là “Tam giáo qui nguyên”. Cũng như cái vòng tròn, không phải đứng ở ngoài châu vi mà nhìn về trung ương, phải tìm đến gốc Đạo ở trung ương. Đứng tại Bản thể mà quan sát ngoài thì sẽ nhận biết chẳng chi liên lạc cùng nhau. Ba bộ kinh chính dùng cho Minh Lý Đạo: - TRUNG DUNG. - ĐẠO ĐỨC KINH - VIÊN GIÁC KINH Vậy Minh Lý đạo ban sơ do Tam giáo mà lập thành, nhưng tới thời kỳ qui nguyên, Minh Lý đạo là Trung đạo, là Trung tông, chớ không còn phải là Nho giáo, Đạo giáo hay là Thích giáo nữa. Tóm lại, học đạo Minh Lý chẳng phải khó khăn, phiền phức gì, như nhiều người lầm tưởng, mà trái lại có phần giản dị hơn xưa, vì rốt cuộc chỉ học một chữ Tâm mà thôi. Ba thời kỳ nầy được tượng trưng bằng đèn Hỏa Hậu của đạo Minh Lý, được thắp lên hằng năm nhân dịp lễ Kỷ niệm nầy, để nhắc nhở cái nguyên tắc lớn đó. Từng ngoài, có ba vòng tròn lớn: vàng, xanh, đỏ tượng trưng cho Tam giáo ở thời kỳ thứ nhứt. Từng kế trong, có cái hình tam giác, tuy tam giác đồng một màu trắng, ý nói đồng một bản thể, nhưng còn thấy hình ba góc, nghĩa là cũng còn có chỗ phân biệt nhau, là thời kỳ thứ nhì. Đến từng chót ở chính giữa trung ương, chỉ có cái hình vòng tròn nhỏ, tượng trưng cho Thiên tâm, cho Phật tánh, không có hình tướng, không có ranh hạn, trải khắp mười phương mà không ở đâu có (Nho gọi là: vô tại nhi vô hồ bất tại). Nhơn loại đi tới đó, mới có thể đồng nhứt với nhau, mà không còn xâu xé, tranh đua bỉ thử với nhau nữa, mới là mong đi tới cảnh hòa bình thiệt thọ, vĩnh viễn, cùng hưởng hạnh phúc muôn đời. Muốn đạt tới mục đích đó, về phần nhơn đạo, thì đạo Minh Lý chỉ dùng tình thương và lẽ thật, không hay tranh giành, mà chỉ tùy sức làm lợi thiên hạ. Thỉnh xem năm bộ kinh của đạo Minh Lý do Thần Tiên giáng bút theo thời kỳ nầy: 1. Bố cáo, 2. Sám hối, 3. Nhựt tụng, 4. Giác thế, 5. Tịnh nghiệp vãn. và các kinh sách xưa khác, đã dịch và in ra phổ biến trong dân gian, như Minh Lý Yếu Giải, Nhị Thập Tứ Điều, Dưỡng Chơn Tập, Thiền Pháp Yếu Giải, Chỉ Quán Tọa Thiền, Đạo Đức Kinh, … Đạo Học Chỉ Nam cùng Minh Lý Học Thuyết, Minh Lý Chơn Giải là nền tảng giáo lý mà Ơn Trên đã ban cho và Ngài Định Pháp Minh Thiện đã dung hòa, tổng hợp, để môn sanh của Minh Lý Đạo tu học và xây dựng Hội Thánh theo đúng chơn truyền chánh pháp theo đường lối của Ơn Trên. Về phần thiên đạo thì đạo Minh Lý lấy bài Qui y tăng làm căn bổn, các quyết tu luyện. Đại ý gom trong bài Tam ngũ nhứt sau đây: Tam, Ngũ, nhứt đô tam cá tự, Cổ kim minh giả định nhiên hi. Đông tam, nam nhị, đông thành ngũ, Bắc nhứt, tây phương, tứ cộng chi. Mồ Kỉ tư cư sanh số ngũ, Tam gia tương kiến kiết anh nhi. Anh nhi thị Nhứt hàm chơn khí, Thập ngoạt thai viên, nhập thánh ki. Nghĩa là: Nhứt, tam, ngũ là ba số nầy, Xưa nay hiểu được ít người thay! Đông tam, nam nhị, hiệp thanh ngũ, Bắc nhứt, tây tư cộng cũng vầy. Mồ Kỉ một ngôi sanh số ngũ, Ba nhà gặp gỡ kết anh nhi. Anh nhi là Một, gom chơn khí, Mười tháng thai thành ngự thánh đài. Đại khái, bài thơ nầy nói: Phải hiệp ngũ hành, tam gia, gom lại làm một gọi là Anh nhi (tức là Thái Cực), mới mong đặng thành Đạo. Kinh Dịch lại nói: “Nhứt âm, nhứt dương chi vị Đạo”, nghĩa là: Đạo không ra ngoài hai khí âm dương hiệp nhứt. Thế thì Chánh pháp tu hành là phải bắt từ ngoài mà đi vào trong, gom nhiều sai biệt để trở lại cái Một mới là thấy được chỗ mầu nhiệm của Đạo, của Chơn lý, là thấy được Thượng Đế trong tâm mình. Trái lại, những người tìm cầu ra ngoài, theo hình tướng sai biệt nhiều chừng nào, lại càng thêm thất vọng nhiều chừng nấy! Khi thành Đạo rồi, thì tâm ta và Thượng Đế không phải là hai, nghĩa là: có một mà thôi. Do Ngôi Một đó mà chánh pháp đặng giữ vững, do Ngôi Một đó mà sanh dục muôn loài. Cho nên nói: Một là tất cả, tất cả là Một. Ơn Trên có dạy cho Minh Lý: “… Nhưng để quán thông lẽ Đạo, không có kinh điển nào tóm đủ các nguyên tắc suốt cả nhơn sự, thiên cơ bằng Dịch lý, nên lấy Dịch làm bộ Thánh kinh. Hãy đem ba bộ kinh Dịch: Thiền giải, Xiển chơn và Châu Dịch (Đại Toàn) mà kết tinh làm một bộ: “Dịch Kinh Huyền Giải”, để thống nhứt chơn truyền. Phương tu thì chấp thiên đạo mà hành nhơn đạo, nghĩa là: Người lãnh đạo phải tu chứng đạo pháp mà dìu dắt nhơn sanh. Nhơn sanh thì dạy đạo làm người, là dạy người theo con đường nhơn luân, đạo nghĩa, lập nên nền phong hóa thuần thành đại đồng. Hàng tu sĩ cho đến kẻ Thiên ân phải được thọ truyền bí pháp, hầu tu tâm luyện mạng được đồng nhứt cùng Tạo Hóa, để đủ tư cách lãnh đạo cứu đời. Hãy lấy Tiên gia làm phương châm điều nhiếp, dung thông với con đường Nho, Thích. Phần nầy cần được bắt đầu hạ thủ công phu”. (Thánh ngôn ngày 30-12-1965)
CÔNG TRUYỀN
Công: Chung. Truyền: trao lại cho người khác. Công truyền là phổ truyền một cách công khai, rộng rãi cho mọi người đều biết và hành theo giáo lý. - Phần Công truyền là phần phổ thông giáo lý, độ người bước đầu vào Ðạo. Thánh Sở Tam Tông Miếu là nơi để các bậc nguyên căn gặp gỡ trong cộng đồng giáo pháp, hầu mở rộng tôn chỉ cứu nhơn độ thế. Yếu tố là người mô phạm. Người mà thiên hạ kính vì đức, trọng vì tài. Tài đức đủ tiêu biểu quyền pháp làm cho sáng danh Đại Đạo, ai cũng yêu, cũng chiêm ngưỡng, thì giáo lý đủ tượng trưng. Điều cần yếu là ngôn thuyết kinh làm sao tổ chức được cộng đồng, quân bình sự sống. Lấy tình thương từ bi tha thứ, thắt chặt hàng ngũ sao cho nam nữ ai cũng trong sạch, tỏ rạng giới hạnh tập thể. Như thế danh nghĩa được lan rộng và tâm đức cũng chứng đến quả hiền thiên. Được vậy, không cần nói nhiều mà người đều nghe. Đường lối công truyền như vậy cũng đủ qui tụ các nguyên căn xa gần: cũng có thể đảm bảo một châu, một xứ, một nước được thanh bình; cũng có thể tập hợp các nguyên khí rời rạt, các đấng thần linh về cùng một hướng. Công phu này thuộc về phần nhập thế, nên xin phải lấy Nho tông làm căn bổn. Nho dạy: “Tồn tâm dưỡng tánh”, hay là: “cùng lý tận tánh”. Nghĩa là: Phải tìm xét lý lẽ, mà kềm chế cái phàm tâm của mình, đừng cho phóng túng. Lại còn phải hàm dưỡng cái tánh lành của mình, tìm phương thế mà thực hiện nó cho được. Thầy Mạnh gọi là: “Nuôi khí hạo nhiên”. Đây là chỉ cái trạng thái dốc tín (tin chắc), kiện hành (hăng hái về việc làm lành) ở trong ý chí. Khi nó phát động, thì tác dụng của nó rất hoạt bát. Đứng về phương diện động tác mà nói, khí hạo nhiên tức là công dụng của đạo Nhân nghĩa, chớ không chi khác lạ. Tóm lại, làm các việc lành, việc phải theo lương tâm, lý tánh gọi là tu tánh. Tu tánh như vầy có thể xem kinh sách, tìm hiểu, rồi chiêm nghiệm mà tu, thuộc về mặt phổ thông. Nhưng tu tánh cách này còn ở trong vòng âm khí. Tu cách này căn cứ trên giáo lý của Nho giáo nhiều hơn. Ơn Trên cũng dạy người tu nên phải học tập bốn chữ “Từ, Bi, Hỉ, Xả” để lòng mình nhẹ nhõm yên vui, suốt thông không chướng ngại, để sinh khí nội bộ ngày một nẩy nở. Ai tu cũng muốn cho mình sớm được chánh tâm diệt dục, cầu lấy thanh tịnh giải thoát, để nhẹ lòng trần, tiêu chướng lậu. Vì vậy, người giác ngộ buông bỏ tất cả những gì còn phàm tục đắm mê. Nếu không giác ngộ, thì hơn thua một lời cũng chẳng ai nhịn ai. Đó là người thế gian phàm tục, đôi co, tranh chấp nên tai họa đao binh cứ khởi mãi, tình cốt nhục cứ chia lìa trần tục. Ngày nay nhơn loại lãnh đủ tai kiếp, hứng chịu đau thương, là vì họ nôn, họ mời, họ gây nên, họ không sao biết nhịn, biết nhường, biết quí thân, quí Đạo. Đời loạn như ngày nay, ai nấy cũng đua đòi chạy theo lợi danh vật chất, không còn quí thân, quí Đạo. Nên thân bị dày đạp mà họ không biết nhục, Đạo bị loại bỏ mà họ chẳng tiếc yêu. Nhưng cuộc thế xoay vần, âm qua dương lại, ngày đến đây Đạo Đức được đặt trên ngôi quí. Xin đừng vội coi thường quyền pháp. Ngày Đạo thành, dầu bậc đại phú, đại vương cũng không sánh kịp người tu hành đứng trong hàng ngũ Đạo.
TÂM TRUYỀN
Tâm: cái tâm bên trong của con người. Truyền: trao lại cho người khác. Tâm truyền là truyền vào tâm, thầy trực tiếp truyền thẳng Bí pháp luyện đạo vào tâm của đệ tử, không cho một người thứ ba biết được. - Phần Tâm truyền thì lựa chọn những đệ tử đã có đủ phẩm hạnh, đạo tâm kiên cố, quyết tu giải thoát, để truyền cho Bí pháp luyện đạo. Ðó là phần tu luyện, phần cuối của con đường tu, để đắc thành Tiên, Phật, giải thoát khỏi luân hồi. Ngôi BÁC NHÃ TỊNH ĐƯỜNG là nơi dành riêng cho các bậc nguyên căn giác ngộ tu hành để đạt cơ mầu nhiệm tác Tiên, tác Phật, làm hướng đạo cứu độ chúng sanh. Nếu Đạo pháp không luyện được thân này nên thánh thiện, người tu hành không thành quả Bác Nhã Trí Tuệ Bồ Đề, thần thông thấu cơ Tạo Hóa để hình hiện mối Đạo Vô vi, để tiêu biểu quyền pháp từ bi thánh đức, thì không sao chuyển hóa lòng người, tạo nên thời thế thanh bình an lạc cho mười phương thiên hạ. Nên Bác Nhã Tịnh Đường là chỗ học Đạo, để tu cho được Đạo, chứng cho nên Đạo. Vì vậy đó là lò đào tạo con người trở nên Thánh, không phải ở tại kinh sách, ở sự học nhiều nói giỏi, mà ở tại tu hành đắc Ma Ha Bác Nhã. Đó là Đạo hiện, đó là Đạo thành, đó là người thông suốt mười phương, cộng tác cùng thiên ân trên thế giới mà hành Đạo. Được vậy thì Tam Giáo mới qui nguyên, Ngũ Chi mới phục Nhất, tổng hợp cộng đồng tín ngưỡng Đông Tây thành một mối chơn truyền. Mỗi người môn sanh trong MINH LÝ đặt lòng thanh tịnh là xây nền móng cho bước đầu, mà cũng để cho toàn Đạo có một dịp gieo lấy hạt giống Đại thừa tâm, mà cũng để khai khiếu cho Người với Trời nối nhau làm cầu giao hội. Nên không luận bậc tu giữ giới đức, mà đó là thiên ân MINH LÝ sau này. Đức VÔ CỰC TỪ TÔN DIÊU TRÌ KIM MẪU dạy: “Hôm nay MINH LÝ sẽ bước vào giai đoạn “Huyền công Thần Bí” là phần “Nội Giới Tâm Truyền”. Song về phần “Công Truyền” để phô trương giáo lý, để giao hảo mọi tầng lớp người đời, để tạo nên một trường công quả cho các con nào chưa đủ sức thọ pháp Thượng Thừa, nên ngoại giáo công truyền cần được củng cố lớn mạnh để phổ thông hoằng hóa Đạo Trời, phần nầy cũng một trọng trách tối yếu của Đạo MINH LÝ”. Đức QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT dạy: “Đứng trước hoàn cảnh thiên nan, vạn nan, muốn được dung hòa cùng mọi xu hướng, hợp tác cùng các giai từng trong xã hội, không phải một sớm một chiều mà xong, mà cũng không dễ một mình đảm đương gánh nặng; nên cần làm sao để thông đồng cùng thiên giới, thấu lẽ nhiệm mầu. Vì vậy người thiên ân, ngoài công đức, công tâm, còn phải công phu đạt Đạo, hầu phối đồng cùng Trời Đất làm một, để đủ sức hoằng hóa Chánh Pháp kỳ ba”.
TÂM PHÁP
Mục đích cứu cánh của MINH LÝ là con đường “phản bổn huờn nguyên”, giải thoát cho tâm linh ngoài vòng huyễn hóa, xác nhận cái lẽ chơn thật chỉ có nằm gọn trong thâm tâm của con người, ngoài ra không có CHƠN không có THẬT. Tâm pháp của Minh Lý là phương tu Đốn Nhập Đại Thừa Bằng Bồ Tát Đạo. “Pháp Môn Đốn Nhập Đại Thừa”, bằng mọi phương tiện của hoàn mọi người đều có thể làm được, chứng được, không ràng buộc trong giới luật quá khó khăn. Phương “Đốn nhập Đại thừa” áp dụng cho mọi hoàn cảnh, đã nhập tự hoặc chưa nhập tự, thiên ân hay chưa dự thiên ân, miễn phát tâm cầu pháp Đại thừa, dầu còn một vài lý do nghĩa vụ ở đời, thì lấy cái đạo pháp lồng trong thế gian mà tự tha hưởng lợi. Ơn Trên cho Minh Lý một môn làm di biểu cho con đường “Trung Đạo”. Người ta sở dĩ mất sự sống còn, mất tự do lành mạnh, (mất sự) không ăn mà sống, không mặc mà lành, là con đường Nhâm, Đốc bị phân đôi. Vạn thù qui nhứt là thâu phóng tâm, ngăn loạn tưởng, tánh mạng thành một thể bất phân, ấy là âm dương trong Thái Cực, thần khí trong Kim Đơn, chẳng có chi ngoài Kiền Khôn Ly Khảm, thủ phúc thận tâm, mà chi tiết phải theo khẩu quyết trong chín tiết công phu, tiệm tu tiệm ngộ. Nhưng khẩu quyết dầu hay đến đâu, Minh Sư dầu được hoàn thiện, cũng phải do một phần công đức tiền căn cộng với phát tâm nhứt thành chung thỉ của hành giả, thì Đại Đạo mới dễ thành. Còn kẻ nặng nợ oan gia, kết nhiều nghiệp chướng thì phải phát tâm dũng mãnh, quyết tâm hành thiện, tác phước lập công, thân cận cùng người thiện trí chơn tu, đè nén hỏa tâm kiêu khí, luyện cửu chuyển chi pháp. Đối với xã hội nhơn quần, cảnh có thuận nghịch làm sao, cũng không bộc lộ quá vui quá buồn. Rèn luyện mình mọi thử thách không nao núng, nghĩa nhơn xử trọn, thì bước vào mật thất cầu tu, tưởng không còn khó mấy. Thế thì pháp tu đâu phải riêng dành cho bực thượng căn, mà kẻ hạ ngu, nếu biết giác ngộ, thì vào nhà Tiên Phật tưởng cũng dễ dàng. Nói cách khác, sự thiên biến vạn hóa, nhứt bổn tán vạn thù, và phép cách vật trí tri, thật không phải suy diễn chia cắt ra từng nhánh nhóc đa thù, mà nắm cho được then chốt ở người là thần khí. Bởi đó mà khởi ra đường đọa đường siêu, bên phàm bên Thánh. Hễ chia lìa thì sanh tử luân hồi lộn quanh trong lục đạo, bằng hiệp nhứt thì đăng Tiên đắc Thánh, Tạo Hóa đồng quyền. Hễ phóng tán với ngoại vật thì tiêu hao mờ tối, bằng thâu hồi trong nhứt khiếu thì linh hồn viên giác.
- TRUNG DUNG
Bản sách Trung Dung là một bộ quan trọng thứ nhứt, thuộc về phái chánh tông của Khổng giáo. Nó làm biểu lý với bộ sách Đại Học: Đại Học chủ về Nhơn Đạo, còn Trung Dung chủ về Thiên Đạo. Tác giả của bản sách Trung Dung này là thầy Tử Tư, con ông Bá Ngư, mà ông Bá Ngư là con của đức Khổng Tử. Thế thì, thầy Tử Tư là cháu đích tôn của đức Khổng Tử, tên là Khổng Cấp. Bản sách này rất cao, đạo lý rất thâm thuý. Về mặt văn tự và chương cú, thì sách này không phải dễ hiểu như sách Đại Học và sách Luận Ngữ. Cần phải đọc nhiều lần và suy nghĩ lâu ngày, mới là có thể lãnh hội được ít nhiều. Số là những bực Thánh Hiền xưa về đời Thượng cổ, thế trời lập pháp, nên mối đạo truyền mới có gốc gác từ đó. Nay ta thấy trong kinh có những câu: “Doãn chấp khuyết trung” (Luận Ngữ), nghĩa là: tin nắm chặt đạo trung của mình. Đó là lời vua Nghiêu truyền lại cho vua Thuấn. “Nhơn tâm duy nguy, đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhứt, doãn chấp khuyết trung” (Kinh Thơ), nghĩa là: lòng người (lòng phàm) thiệt rắc rối, lòng đạo nhỏ nhem (khó biết), giữ thiệt tinh (ròng), thiệt nhứt (một), tin nắm chặt đạo trung của mình. Đó là lời vua Thuấn truyền cho vua Vũ. Vua Nghiêu chỉ nói một lời vắn tắt, còn vua Thuấn lại thêm ba câu nữa ở phía trước, để giải rõ lời của vua Nghiêu. Làm như thế mới mong người sau này rõ biết mà thiệt hành. Trên nói: “Doãn chấp khuyết trung”, thì đức Khổng Tử dạy: “Nhứt dĩ quán chi”. Chữ Trung và chữ Nhứt đều là Chơn Lý tối cao của Nho giáo. Trên nói: “tinh, nhứt”, thì thầy Tăng Tử dạy: “Trung thứ”, cả hai đều là công phu thiệt hành, để đạt tới “khuyết trung” và “nhứt quán”. Đủ thấy cả hai bên: Chơn lý và công phu rất rõ ràng, nghĩa là: đủ cả lý luận và thiệt hành. Thiệt là bổ ích cho thân tâm của chúng ta biết mấy! Theo thường luận, tâm của chúng ta vừa hư linh (trống không và sáng suốt), vừa tri giác (hay biết bởi giác quan), mà hư linh và tri giác chỉ có một mà thôi Tâm hư linh gọi là đạo tâm, gốc nơi tánh mạng, thuộc về phần chánh. Còn tâm tri giác gọi là nhơn tâm, gốc ở giác quan, thuộc về phần tà. Cho nên tâm con người có khi rắc rối chẳng yên, mà cũng có khi nhỏ nhẹm khó biết là thế. Nếu ta không biết lấy đạo tâm mà kềm chế nhơn tâm, thì rắc rối càng thêm rắc rối mãi. Chơn lý là phần công sẽ bị vùi lấp trong nhơn dục là phần tư. Vì cớ đó, mà khi động, khi tịnh, khi nói, khi làm, chúng ta phải chịu lầm sai, mới có chỗ thái quá và bất cập. Cho nên phải cần học sách Trung Dung, để giải phá chỗ sai lầm đó, mà lần lần qui về trung đạo, nghĩa là theo đúng đạo tâm. Từ xưa đến nay, thánh thánh nối nhau mà tiếp truyền mối đạo này cho tới đức Khổng Tử. Trong hàng đệ tử của đức Khổng Tử, chỉ có hai người đặng chơn truyền mà thôi, tức là thầy Nhan Hồi và thầy Tăng Sâm. Đến sau, mối đạo của thầy Tăng Sâm đặng truyền xuống cho thầy Tử Tư. Thầy Tử Tư sợ càng ngày càng mất chơn truyền, mới viết ra cuốn sách này để dạy kẻ đời sau. Thầy càng lo sợ chừng nào, thì lời nói lại càng thâm thiết và tỏ rõ thêm chừng nấy. Thầy nói: “Thiên mạng, suất tánh” là chỉ đạo tâm. (Tánh là lý gồm có đủ trong tâm, đạo tâm là tâm ứng đối với mọi người hiệp với lý, với đạo). Thầy nói: “Trạch thiện” (chọn điều lành) – thiệt ròng, “cố chấp” (nắm bo bo) –thiệt một là chỉ ròng, một (tinh nhứt) Thầy nói: “Quân tử thời trung” (người quân tử tuỳ thời mà xử trung) là chỉ cách chấp trung (nắm giữ đạo trung). Trải qua nhiều đời, có hơn hai ngàn năm dư, mà lời thầy nói vẫn là Chơn Lý, không hề thay đổi. Tuy cũng có nhiều sách Thánh Hiền trước bàn về cương duy, uẩn áo của mối đạo, mà chưa có sách nào rõ ràng và tận tột như cuốn này. Sau này, có thầy Mạnh Tử, thầy Trình Tử. . . nhờ chỗ khảo sát tinh tường mối đạo này, nhứt là nhờ hai cuốn Trung Dung và Đại Học, nên có phát minh thêm nhiều điều ích lợi. Lại có thầy Châu Hi làm ra một cuốn chương cú (nghĩa là: phân ra có chương, thích nghĩa từ câu (cú), chia từng chi (chi thể), giải từng tiết (giai đoạn), mạch lạc suốt thông, bổ giúp lẫn nhau. Thiệt là có công trợ người mới nhập đạo không phải nhỏ! Sách Đại Học chẳng thấy nói đến chữ tánh, còn sách này chẳng thấy nói đến chữ tâm, cho nên trong bài tựa này luận nhiều về chữ tâm. Nhưng tâm tánh chẳng phải khác. Thầy Trình Tử nói: “Tánh hay là tâm cũng là một lý mà thôi”. Sau rốt, đây xin chia sách Trung Dung này làm bảy tiết, theo thứ tự đó mà bàn giải cho có mạch lạc, dễ hiểu.
Tiết 1: Trung hoà (chương 1)
Tiết 2: Trung dung (từ chương 2 tới chương 11)
Tiết 3: Đạo có phị ẩn (từ chương 12 tới 19)
Tiết 4: Thành nhứt – lý luận (từ chương 20 tới 23)
Tiết 5: Thành nhứt – Thiệt hành và công dụng (từ chương 24 tới chương 29)
Tiết 6: Cực công của đức Khổng Tử trong Thiên đạo
(từ chương 30 tới chương 32) 7. Tiết 7: Kết luận qui về công phu thận độc (chương 33)
- đạo đức kinh
Theo sử ký của Tư Mã Thiên : Đức Lão Tử người sanh ở nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân thuộc Tỉnh Hà Nam bây giờ.
Ngài Họ Lý, tên Nhỉ, tự Bá Dương, húy là Đam. Ngài làm quan giữ tàng thất nhà Châu.
Trước Dương lịch 50 năm, có một người đàn bà nhà quê ( sử không nói tên ) ở nước Lỗ gặp gở một người bạn trai trong một rừng nước Sở, đêm ấy có xuất hiện một vì sao chổi, bảy sắc hào quanggg rọi vào bực đá khi hai người giao tình tri ngôn.
Rạng đông sao chổi lặng, Ông chồng cũng chết! bà vợ thọ thai quá lâu - đến 80 năm mới sanh vào giờ Sửu ngày 15 tháng 2 năm Canh Thìn. Một hài nhi tóc và râu trắng như tuyết nơi cội cây Lý, Bà lấy tên Lý làm họ, tai dài mỗi cái có ba lỗ ở trong nên đặt tên Nhỉ, gọi là Lý Nhỉ, có chỗ gọi là Lão Đam hay Lão Tử.
Lớn lên, Người cảnh nghèo mẹ già, cha đã chết sớm nên phải rày mai đó khắp nơi để sanh sống. Còn sự học chữ không được học nơi trường, chỉ học lóm với bạn bè, có nhiều khi đi ngang qua các trường lén rình nghe các thầy giáo đang giãng sách. Người đã sẵn khiếu thông minh nên nghe qua đều thâu nhận được hết.
Cảnh sống của Người, đã được Người (len) lõi vào từng lớp dân chúng, của vạn vật núi rừng, nên giao cảm với những cảnh vật thiên nhiên - làm cho Người có tinh thần suy gẩm, trầm tư, mặc tưỡng và Người được đọc quyển sách "Thiên nhiên" vĩ đại của vũ trụ của Thượng Đế, nhờ đó mà Người trở nên một nhà Triết Lý.
Vua Kinh Vương nhà Châu có mời phong Người làm Quan Trụ Hạ Sử và giao sử Tàng Kinh Viện tại Am Hồn Miếu. Nên Người rất sung sướng, sẵn có kinh sách quý được lưu trử ngàn xưa mà đọc, nhờ vậy mà giúp cho Người thêm hiểu biết và nhận xét rõ rệt về khoa Triết Lý Học mà danh đồn Người là một Triết Lý Thánh Nhơn ra khắp thế gian.
Một thời gian sau Người từ quan đi tầm Đạo đến ghé Ải Hàm Cốc viết bộ Đạo Đức giao cho Doãn Hỷ, rồi Ngài đi ngao du luôn, vắng dạng kể từ đó. TÔNG CHỈ CỦA ĐẠO ĐỨC KINH Cái đạo “ tu thân xử thế ” của đức Thái-Thượng vốn thiệt là nhứt quán (thông suốt cả hai), chẳng phải chia riêng biệt hai việc đó. Nếu chẳng giải thích rõ ràng, mà chỉ nói : phép tu thân cũng là phép trị thế, thì phần trị thế lép đi, chỉ còn phần tu thân. Sách Đại-Học mở đầu liền nói ra câu : “ minh minh đức . . .” rồi thôi, mà không bàn rộng đến “ tân dân ” cũng là thuộc về cái học thiên-chấp một bên. Thế thì đủ thấy cái đạo của Thánh-nhơn là dạy luôn thể dụng, gồm cả bốn mặt, hai bên đều tiến đồng thời. Số là cái đạo của Thánh-nhơn chẳng ra ngoài một chữ kính mà thôi. Con người nếu quả lấy chữ kính mà tồn tâm ứng sự, thì việc trị thiên hạ có gì là khó đâu ! - Đức Khổng-tử nói : “ Có thể lấy lễ nhượng mà lập quốc chăng ? (Nếu dùng lễ nhượng thì) có chi mà không làm được ”. - Lấy lễ nhượng mà lập quốc là như thế nào ? Thánh Hiền từ xưa chẳng phải là chỉ vụ tu thân, mà không ứng tiếp với đời. Hãy xét qua trời đất, thì biết được việc Thánh Hiền làm. Trời đất lấy khí “ Nhứt-nguyên ” mà tự vận động, tức là khí Nhứt-nguyên để nuôi dân. Trong đó cũng có : hàn thử ôn lương (như bốn mùa), cùng là phong vân lôi võ, tức là hành động của Trời. Chánh lịnh của Trời là thi bố sinh hóa, tuy biến chuyển vô cùng, nhưng Trời chỉ thuận theo lẽ thường của khí-cơ. Luận về Thánh Hiền, thế là lấy kỉnh mà giữ mình, tức là lấy kỉnh mà đối với mọi người, ở trong đó phải là có : ai, lạc, hỉ, nộ, chăng ? Nói về lễ nhạc hình chính, tức là Thánh Hiền thuận hành theo cách trị đạo để định cái tình của nhơn vật, tuy phong thổ chẳng giống nhau, mà Thánh-nhơn chỉ tận tánh của mình là được. Cho nên nói : Trời không thể chẳng có : phong, vân, lôi, võ, mà cũng không được nói : phong vân lôi võ tức là Trời. Thánh-nhơn cũng không thể chẳng có : ai, nộ, hỉ, lạc, mà không được nói : ai, nộ, hỉ, lạc tức là Thánh. Trời có chơn thiên-thể, Thánh có chơn thánh-tâm, đều kỉnh đó làm chủ ; một khi lo việc thiên hạ, biến hóa vạn đoan rối ren, mà không có một việc chi chẳng sắp xếp chánh đáng. Ôi ! Đại Đạo bất minh đã lâu rồi ! Nếu luận Đạo đức mà chỉ nói : “ hư-tịnh vô-vi ” (trống lặng, không làm), bàn về cách trị mà chỉ nói : “ công nghiệp bưu bính ”(sự nghiệp rực rỡ), thì đã phân thiên-đức và vương-đạo ra làm hai đoạn. Điều nầy từ tam đại về sau, khó mà tìm người giải thích. Thái-Thượng nói : tu thân trị thế, không phải chia làm hai việc, nghĩa là : chấp cứng một việc tu kỷ, mà hoàn toàn chẳng lo đến quản trị dân sự. Hoặc là toàn lo quản trị dân sự, mà chẳng trước nhờ đến tu kỷ bên trong. Biết được cái tông chỉ đó để tu thân, tức là cũng để trị nhơn, thì bên trong tự mình không có chi tổn, bên ngoài người khác không có chi tổn, tức là chỗ sách Trung-Dung gọi : “ Thành kỷ là nhân, thành vật là trí” (chữ vật ở đây có nghĩa là người, vật), là đức của tánh, là đạo hiệp cả trong ngoài. Bên trong (ở nhà tu thân) thì gọi là thánh công, bên ngoài (đi ra làm quan) thì gọi là vương-đạo (nội thánh nhi ngoại vương). Ai nói rằng học thuyết của Lão-Tử chỉ là tịch diệt vô-vi mà thôi ?
Xin kính thỉnh chư đạo hữu, đạo tâm cùng thưởng lãm và thấu nhập.
- VIÊN GIÁC KINH
Viên giác kinh (zh: 圓覺經, yuánjué-jīng; ja: engaku-kyō, kr: 원각경, Wongakgyeong; en: The Sutra of Perfect Enlightenment), tên đầy đủ là bộ kinh Ðại phương quảng viên giác tu-đa-la liễu nghĩa kinh (sa:mahāvaipulyapūrṇa-buddhasūtra-prasannārtha-sūtra). Kinh này bao gồm 12 chương, mỗi chương lấy tên của một trong 12 vị Đại bồ tát đã tham vấn với Phật Thích-Ca-Mâu Ni. Phần nội dung và kết thúc của mỗi chương bao gồm 12 lần hỏi đáp, trong đó đặc biệt nhất là chương Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền được Đức Phật khai thị về sự viên mãn của giác ngộ (Viên Giác). Xoay quanh các chương này là các cuộc tham vấn liên quan đến các vấn đề như nguồn gốc và bản chất của Vô minh, Đốn Ngộ và Tiệm Tu, bản thể Phật Tính nguyên thủy, phương pháp Thiền Định... những vấn đề này về sau cũng được làm rõ trong Đại Thừa Khởi Tín Luận. Tên kinh này Viên Giác, tức chỉ cho bản thể tự tính vốn viên mãn, đầy đủ công đức trí huệ, cùng khắp không gian và thời gian. Hơn nữa, hết thảy chúng sinh hữu tình đều có sẵn bản giác chân tâm, từ vô thủy đến nay thường tự vốn thanh tịnh, sáng rõ không mê mờ, rõ ràng thường biết. Nếu nói là thể thì đó là nhất tâm, nếu nói về nhân thì đó là Như Lai tạng (zh: 如來藏), nếu nói về quả thì đó là Viên Giác. Đại sư Khuê Phong Tông Mật trong tác phẩm Viên Giác Kinh Lược Sớ Tự Chú (zh: 圓覺經略疏序注)- luận giải Kinh Viên Giác sớm nhất vào thế kỷ 9 có giải thích như sau:
"Muôn pháp không thật, do duyên gặp mà sinh ra, pháp sinh ra vốn không, hết thảy chỉ có biết, biết như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm, tâm lặng mà biết, mắt thấy là Viên Giác." (萬法虛僞、緣會而生、生法本無、一切唯識、識如幻夢、但是一心、心寂而知、目之爲圓覺)
Kinh này có ảnh hưởng lớn đối với tư tưởng Thiền Tông và Hoa Nghiêm Tông. Đặc biệt là đối với chủ trương Kiến Tính Khởi Tu của Khuê Phong Tông Mật. Thích Nghĩa VIÊN GIÁC Viên nghĩa là: đầy đủ trải khắp (mãn túc châu bị), ngoài ra chẳng có dư pháp nào (nghĩa là nó gồm bao tất cả), tức là chỗ gọi : vô khiếm vô dư (không thiếu không dư). Giác nghĩa: trống không sáng rỡ linh thiên diệu chiếu (hư minh linh chiếu), chẳng có thứ tưởng niệm phân biệt, tức là chỗ gọi : tuyệt tư tuyệt lự (dứt hẳn các sự lo nghĩ). Nếu riêng nói về một chữ Giác, thì như cuốn Khởi-Tín Luận nói : “Sở ngôn giác giả, vị tâm thế ly niệm”, mà tướng ly niệm thì khác nào hư-không, trải cùng khắp nơi, đâu đâu cũng có. Pháp giái nhứt tướng tức là Pháp-thân bình-đẳng của Như-Lai, dựa theo Pháp-thân này mà đặt tên là Bổn-giác. Cho nên biết chữ Giác này, chẳng lìa phàm cuộc thánh, chẳng lìa cảnh cuộc tâm, tâm cảnh không hai, phàm thánh như một cho nên gia thêm chữ Viên ở phía trước. Cho nên kinh nói: “Niết-bàn tạc mộng, thế giái không hoa, chúng sanh bổn thành Phật đạo.” Lại nói : “Vô thỉ huyễn Vô-minh, Viên-Giác tâm kiến lập. Huyễn tùng chư giác sinh, huyễn diệt giác viên mãn”. Lại nói : “Nhứt thiết chúng sinh, giai chứng Viên-Giác”. Cứ do kinh sách trước sau, tuy là bổn-chứng của chúng sanh, thật do huyễn diệt mới đặng viên. Nếu chẳng do huyễn mà tu, thì không theo đâu mà đặng chứng. Cho nên: Nhứt thiết Bồ-tát phải xa lìa nhứt thiết huyễn hóa, mà tâm cũng như huyễn nên cũng phải xa lìa, chừng hết còn gì phải lìa nữa, tức là trừ hết các huyễn. Như nấu lọc vàng khóang (quặng), vàng không chảy nên còn, tuy phục lại vàng y bổn-lai (như xưa), kết cuộc nhờ nấu chảy ra mà thành tựu. Một khi thế chơn kim thành rồi, thì chẳng khi nào trở lại thành khóang. Nếu ai biết được cái tâm này, rồi sau mới là cầu Viên-Giác Phật trả lời cho Văn-Thù, khai khẩu liền nói: Vô thượng Pháp Vương có Đại Đà-La-Ni môn, gọi là Viên-Giác, trổ ra các thứ thanh-tịnh Chơn-như, Bồ-đề, Niết-bàn, cập Ba-la-mật, giáo thọ Bồ-tát, nhứt thiết Như-lai, khởi tu lấy đó làm nhân-địa, đều là y theo giác tướng thanh-tịnh viên chiếu, vĩnh đoạn Vô-minh, mới thành Phật-đạo. Cho nên biết chúng sinh chứng cái Lý là Lý của Như-lai cứu cánh chứng. Giác thì trước sau (thỉ chung) chẳng phải một, Viên cũng chúng sanh và Phật khác hẳn. Cho nên nói : “ Nhứt thiết Như-lai Diệu Viên-Giác tâm, bổn vô Bồ-đề, cập dử Niết-bàn, diệc vô thành Phật, vô vọng luân hồi, cập phi luân hồi.” Nhưng chỗ gọi Viên cảnh-giái của chư Thinh-văn, thân tâm ngữ ngôn đều là đoạn diệt, rốt cuộc họ không thân chứng được Niết-bàn hiện ra. Hà huống chúng sinh có tâm tư duy, trắc độ cảnh giái Viên-Giác của Như-lai, nên phải biết: Chúng sinh Viên-Giác, đối với Chư Phật Viên-Giác, chẳng phải giống như nhau. Kinh nói rằng: “Nhứt thiết chúng sinh dục phiếm Như-lai đại Viên-Giác hải, tiên đương phát nguyện, cần đoạn nhị chướng, nhị chướng dỉ phục, tức năng ngộ nhập Bồ-tát cảnh-giái.” Nếu sự lý chướng ngại, mà đoạn diệt hẳn rồi, tức là nhập vi diệu Viên-Giác của Như-lai, mãn túc Bồ-đề, cùng đại Niết-bàn. Đó là minh chứng nghĩa trước sau chẳng phải một, chúng sanh và Phật khác hẳn nhau. Nghĩa chữ Viên-Giác tới đây đã trọn.
GIÁO LÝ VÀ KINH LUẬN MINH LÝ ĐẠO - KINH
CÁCH TIẾP KINH MINH LÝ
Kinh của Minh Lý đạo chỉ dùng Việt ngữ để người đọc dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thuộc. Bộ kinh gồm năm cuốn: Kinh Bố cáo, Kinh Sấm hối, Kinh Tịnh nghiệp vãn, Kinh Nhựt tụng, Kinh Giác thế. Một số bài kinh của Minh Lý đạo được đạo Cao đài sử dụng như bài Niệm hương, Bài Khai kinh, Kinh Sấm hối… Về lịch sử các bộ Kinh Minh Lý, các vị tiền bối khai đạo đã tiếp kinh qua phò cơ chấp bút và được các Đấng Thiêng Liêng ban trong thời gian thành lập tổ chức hữu hình của Minh Lý Đạo. Trích đoạn lời kể của Ngài Âu Minh Chánh như sau: “… Kể từ ngày 22-12-1924, là ngày tiếp đặng bài Tặng Thiên Đế, cho đến nay, thì chúng tôi tiếp thêm nhiều bài khác nữa, là những kinh tụng, các bài khuyên đời và những bài giải đạo đức. Kinh tiếp đã lâu mà ngày nay mới ấn tống là bởi tiếp chưa trọn bộ. Nay chúng tôi vưng lịnh Thần Tiên giáng dạy, in các thứ kinh đã tiếp bấy lâu nay, đặng phát cho người dốc chí làm lành. Thật anh em chúng tôi tài hèn sức mọn, chỉ giữ một tấm lòng thành tín, ra công tiếp mấy thứ kinh kể trên đây, là những lời châu ngọc của Thần Tiên truyền xuống đặng độ người đời biết việc tu hành. Chúng tôi hết lòng ao ước có bạn tri âm, người đồng chí, khi gặp mấy bài kinh nầy, đọc kinh rồi giữ theo lời dạy trong kinh. Đó là nương ngọn đuốc Thần Tiên, bỏ tối theo sáng, quy về đàng chánh là đàng đạo đức, ngõ hầu chẳng phụ ơn trọng của Phật Tiên đã nhọc công giảng dạy từ lời, lại cũng chẳng phụ lòng thiện nguyện của chúng tôi nữa. Kinh là vật quý trọng, xin chớ khá dể duôi, để nơi uế trược và chỉ nên đọc cho nghe, hoặc cho mượn coi, chớ khá trao luôn cho người không ham mộ, rồi bỏ rơi rớt mà mang tội với Thần Tiên. Kinh Thần, sách Thánh, giải phân minh, Có chí kỉnh thành đọc mới linh. Chọn được người lành trao phép báu, Uổng truyền kẻ vạy, chẳng lòng gìn.
KINH BỐ CÁO
Kinh này thường được đọc vào buổi lễ kỷ niệm Minh Lý Đạo Khai hằng năm. Kinh với nội dung quảng cáo về việc sự hình thành nền đạo Minh Lý và Thánh sở Tam Tông Miếu và việc chép biên kinh Tiên sám Phật để dạy khuyên người đời làm lành lánh dữ. Có khuyến cáo để thúc giục người vào con đường lành và phô bày một vài tôn chỉ của đạo Minh lý như bài: Đạo là căn bổn, khá tầm mò. Minh mẫn lương tâm, cạn xét dò. Lý ấy tánh chơn, vô nhị thị. Giải phân họa phước chẳng so đo. Rồi lại khuyên: Lòng lành tỉnh ngộ sớm lo. Tinh chuyên học đạo, nhỏ to chỉ truyền. Chẳng hay ghét ngõ ganh hiền. Gặp cơn sai siển, giúp khuyên nhau cùng. Và sau cùng có bài thơ gồm 24 câu diễn bày sứ mạng của Minh Lý trong nền đạo của nhân loại, khuyên chúng sanh không nên chậm trễ trong việc tu hành mà phải trôi lăn trong luân hồi lục đạo.
Thất MINH LÝ nền chung các đạo, Không trọng khinh TAM GIÁO, cửu lưu. Các đạo đều đồng chí cần ưu, Do đường chánh tỳ khưu tu niệm. Chớ đem dạ tỵ hiềm bao biếm, Mà trễ lo kiểm điểm hồi đầu. Khá nương nhau, tương ái tương cầu, Ráng công biện cơ mầu lý diệu. Bởi mê muội, bít ngăn cửu khiếu, Làm cho người khó hiểu Đạo Trời. Nên sanh ra lầm lỗi khắp nơi, Mau sớm kíp chung hơi giác ngộ. Phật, Tiên, Thánh, từ bi phổ độ, Bố đức ân cứu khổ lê dân. Dạy khuyên người liên hạp tương thân, Bền gìn lễ, nghĩa, nhân, trí, tín. Lớn thương nhỏ, dưới trên cung kỉnh, Chốn tam đồ dắt vịn dìu ra. Khỏi luân hồi lục đạo đọa sa, Ắt gặp đặng Tiên gia, Phật, Thánh. Trên Cổ Phật Nhiên Đăng gióng khánh, Dưới thiện nam tâm tánh sửa trau. Tín nữ mau nẻo sáng lướt vào, E trễ bước xiết bao rất uổng!
KINH SÁM HỐI
Sám là “Sám tiền phi”, hối là “hối hậu quá”. Kinh này biên các điều thiện và điều ác, để cho người ta nhìn vào đó mà ăn năn sửa mình, nên gọi là kinh Sám Hối. Kinh Sám Hối gồm phần đầu viết về lễ nghi:
Kiểu bài vị thờ
Phép sắp đàn
Phép khai đàn
Phép đọc kinh
Và phần hai gồm các bài kinh:
Bài Niệm Hương
Tịnh Khẩu Chú
Tịnh Tâm Chú
Tịnh Thân Chú
An Địa Thổ Chú
Bài Tặng Thiên Đế
Bài Xưng Tụng Công Đức
Bài Dưng Lục Cúng: Trầm-Hương-Hoa-Quả-Rượu-Trà
Sớ phát nguyện đọc Kinh Sám Hối
Sớ Cầu sự
Bài Khai Kinh
Bài Khải Kinh
Kinh Sám Hối
Bài khen ngợi Kinh Sám Hối
Bài “Đưa Thần”
Phần sau của Kinh Sám Hối có minh họa hình Thập Điện giải thích về phần tội phước để khuyên người tu hành thiện lánh ác. Cuốn kinh Sám Hối kết luận như vầy: Người ở thế mấy ai khỏi lỗi, Biết lạc lầm, sám hối tội căn Tu tâm sửa tánh ăn năn. Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi. Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật. Mà trong lòng chẳng thật kỉnh thành, Lâm nguy, nguyện vái làm lành. Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong. Chớ thái quá, đừng lòng bất cập. Phép tu hành, luyện tập nhiều ngày. Làm lành, xem phải, nói ngay. Giữ ba điều ấy, thiệt rày phước duyên.
KINH NHỰT TỤNG
Là kinh đọc hằng ngày, mỗi ngày bốn thời: Tý, Mẹo, Ngọ, Dậu, nên cũng gọi là kinh tứ thời. Mở đầu là bài Giới sát, khuyên người tu hành nếu đã biết đọc kinh thì nên tránh sát sanh hại vật để dâng cúng các Đấng Thiêng Liêng. Ngoài ra còn có những bài Chú khuyên dạy trước khi lễ đọc kinh như Chú buộc chân, Chú súc miệng, Chú rửa tay, Chú đốt nhang. Trong phần Kinh Nhựt tụng, gồm các bài kinh được đọc hằng ngày chia ra bốn thời:
Thời Mẹo (6giờ sáng): Kinh Thái Dương – Tứ Đại Điều Quy – Kim Quang Thần Chú.
Thời Ngọ (11giờ trưa): Kinh Địa Mẫu – Kinh Cứu Khổ – Bác Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.
Thời Dậu (6giờ chiều): Kinh Thái Âm – Thông Minh Chú – Diệt Tâm Quá chú.
Thời Tý (11giờ tối): Kinh Nhựt Dụng Biểu – Bài Tặng Thiên Đế.
Trong tất cả các thời cúng đều có đọc thêm bài Kinh Cầu nguyện và bài Ngũ nguyện tiếp sau các bài kinh chánh. Sau cuốn Kinh Nhựt tụng có phụ thêm nhiều bài kinh khác, thuộc về hôn, tang… Phần sau cùng có bài đọc khi ‘Dưng Lục cúng” trong Lễ Minh Lý Đạo Khai.
KINH GIÁC THẾ
Giác thế nghĩa là: Gọi người thế thức tỉnh theo con đường lành. Mở đầu là bài “Tặng Đức Tạo Hóa” và bài “Giải cách tu hành”. Kinh Giác Thế được sắp xếp thứ tự như sau:
Tam qui ngũ giới,
Bài “Bát Tiết” bao gồm: Khuyến Hiếu Ca – Khuyến Đễ Ca – Khuyến Trung Ca – Khuyến Tín Ca – Khuyến Lễ Ca – Khuyến Nghĩa Ca – Khuyến Liêm Ca – Khuyến Sĩ Ca.
Bát chánh đạo bao gồm các bài: Sơ Giai – Thứ Giai – Chánh Giai – Chuẩn Ân – Thiên Ân – Huệ Ân – Pháp Ân – Phật Ân.
Bài Khuyến Thế và bài Giác Thế.
Các bài kinh ngắn khuyến tu và giác ngộ người tu bao gồm: Cùng khổn giải – Tật đố giải – Bạo táo giải – Khẩu thiệt giải – Nhơn ngã giải – Lại đọa giải – Tài trí giải – Hoạn nạn giải – Úy nan giải – Thành tín giải – Nhân quả giải – Sắc dục giải – Trước không giải – Ân ái giải – Vinh quý giải – Tài lợi giải – Sắc thân giải – Ngạo khí giải – Sân hận giải – Nhậm tánh giải – Quỷ trá giải – Thai nghị giải – Huyễn hư giải – Vọng tưởng giải – Sanh tử giải – Tự mãn giải – Khinh mạn giải.
KINH TỊNH NGHIỆP VÃN
Tịnh nghĩa là làm cho sạch, cho dứt hết. Nghiệp là ác nghiệp, nghĩa là: các việc làm tội lỗi. Tam giáo Thánh nhơn đều nhìn nhận rằng con người ở đời phải chịu lắm điều khổ sở, nào là sanh lão bịnh tử khổ (bốn khổ về xác thịt), nào là ái biệt li khổ, oán tắng hội khổ, cầu bắt đắc khổ, ngũ ấm thạnh khổ (bốn khổ về tinh thần). Kinh Tịnh Nghiệp Vãn của đạo Minh Lý nói rằng: Gẫm thân là thiệt khổ căn, Ai may sớm biết, ăn năn tu trì, Sắc thân, này có ra chi. Mấy ai có tưởng nó thì cội tai. Lại nói: Lẽ đâu không bịnh không già, Cái thân hư hoại, khỏi mà thác sao? Trăm năm dường giấc chiêm bao. Một đời cũng thể bọt trào nước xao. … … … Xương khô thịt thúi khác màu, Khó tường vinh nhục biết sao kẻ nào? Sình trương dễ dám ngó vào, Xấu xa thể ấy, người nào chẳng kinh. Mấy câu này đều nói: cái thân thể con người biến dịch vô thường là gốc sanh ra đủ thứ khổ: sanh ra đời, bịnh hoạn, già cỗi, chết chóc. Còn về phần tinh thần, cũng cuốn kinh Tịnh Nghiệp Vãn ấy nói: Bé thơ đói khát quơ quào, Lạnh lùng nóng nực, nói sao ra lời? Lớn lên mến lợi danh đời Quên ăn, bỏ ngủ, hao hơi, tổn thần. Nên người, ràng buộc nợ trần. Trong lòng lo lắng, huyết lần giảm suy. Giàu lo trộm cướp có khi. Sang e nhục nhã, hiểm nguy không ngừng. Các nỗi khổ nói trên là sự thật rõ rệt, ai ai cũng trông thấy, ai ai cũng kinh nghiệm rồi. Các nỗi khổ ấy là khổ nhập thế. Hễ ai đã mang cái xác thân này, đều cũng phải chịu nhiều nổi khổ sở như thế đó cả. - Các thứ khổ đó do nơi nguyên nhân nào mà xuất hiện? - Xin chỉ hai nguyên nhân chánh mà thôi. Nguyên nhân gần là xác thân của ta, nguyên nhân xa là vọng tâm của ta. nhưng xác thân cũng do vọng tâm mà có, cho nên rốt cuộc chi chi cũng do vọng tâm mà ra cả.
Mở đầu có các câu như sau: Vóc hình cha mẹ sở sanh, Không nên vô cớ nỡ đành hủy thân. Cũng đừng giỡn hớt sanh sân, Giận hờn đâm chém khôn cần thịt da. Để nhắc nhở người đời biết trọng cái thân người do cha mẹ sanh mà biết tu tỉnh, chớ bị lụy vì thất tình lục dục, hủy hoại thân này mà uổng một kiếp làm người, khi tiếc nuối thì đã muộn. Tay chơn gân chuyển mắt khờ, Trực trào trong dạ, hòng giờ biệt ly. Thôi rồi đại nạn đến kỳ, Tước sang phủi ráo, còn gì mà trông. Dứt hơi hồn xuất mạng vong, Của tiền nào có một đồng dính tay! Vợ con thương tiếc thảm thay, Không phương cầm đặng vài ngày sống đây. Cả nhà thân thích đông đầy, Nào ai có thế chết nầy đặng chăng? Kinh Tịnh Nghiệp Vãn là kinh buồn, nói về các sự đau khổ của chúng sanh, để đọc trong lúc tang tế, thức tỉnh hồn người quá vãng cũng như người hiện tại, phải sớm lo tỉnh ngộ hồi đầu, tìm phương thoát khổ.
GIÁO LÝ VÀ KINH LUẬN MINH LÝ ĐẠO - LUẬN THUYẾT
Đạo Minh Lý thờ Thượng Đế và Tam Giáo Đạo Chủ, là: Tây Phương Phật Tổ hay Phật Thích Ca Mâu Ni, Văn Tuyên Khổng Thánh hay Đức Khổng Phu Tử, Thái Thượng Lão Quân hay Đức Lão Tử; và nghiên cứu cả ba giáo lý xưa của Thích, Đạo, Nho, để làm nền tảng cho Đạo Minh Lý.
Về Thế Đạo, Minh Lý lấy con người làm đích chánh. Người là đại diện của Trời Đất, giữ mối tương quan, làm cho sáng tỏ và rộng bày Đại Đạo. Nếu Trời Đất có mà không có con người thì Trời Đất cũng không cần có để làm gì. Con người có tài thành Thiên Địa chi Đạo, phụ tướng Thiên đạo chi nghi. Nhưng tại sao chúng ta gặp hôm nay một hoàn cảnh rất đen tối, thù ghét nhau, giết lẫn nhau. Tại sao? Đó là con người bị ám ảnh bởi lòng tham dục mà say đắm với hoàn cảnh, nên gây ra biết bao sự đổ nát hư hại, làm cho đất bằng sóng dậy chẳng vừa. Nên đặt trúng vấn đề là một việc, còn việc quan trọng hơn là phải có con người lành mạnh tượng trưng, đủ trí tuệ, đủ từ tâm, mới có thể đặt tay vào đời mà không làm cho đời hư hại. Muốn có con người ấy, không phải học giỏi tài cao mà ra gánh đời độ chúng được. Muốn đòi hỏi cho đời đặng trở nên thanh bình thánh đức, phải có con người chơn tu, chứng đạo, nội thánh ngoại vương, tự giải thoát được thân, để giải phóng loài người ra ngoài đau khổ. Về Thiên đạo, Minh Lý nhìn nhận mỗi người đều có tánh Minh Lý tối thiêng liêng, bất sanh bất diệt, ngang cùng Trời Đất, hoặc gọi là Minh Đức, Minh tánh, Minh giác, v.v... làm căn bản cho sự tu thân. Cho nên bề trên có dạy:
Minh Lý tánh, minh tâm kiến tánh, Đạo Tam Tông, thọ lãnh hóa hoằng.
Nhưng khó ở chỗ nhìn rõ cái tánh Minh Lý. Chết tại đó mà sống cũng tại đó, nên gọi chỗ đó là Sanh Tử quan đầu.
Do đó mà Kinh luận Minh Lý bao gồm tinh hoa của Tam giáo, lời dạy từ Thiêng liêng hầu giúp cho người tu đạt đến cứu cánh là song tu tánh mạng, hoàn thành sứ mạng tự độ và độ tha, mang tình thương lẽ thật đến với vạn vật.
- TAM GIỚI VÀ LỤC ĐẠO LUÂN HỒI
Minh Lý Đạo kết hợp tinh hoa giáo lý của Tam giáo mà trong đó Phật Giáo có vai trò trong phần tu tánh, để đạt đến cứu cánh. Trong Phật giáo, chúng ta thường nghe câu “Ba giới, sáu đường luân hồi” (tam giới, lục đạo luân hồi). Đây là một cách diễn tả quan niệm về các hình thái hiện sinh của mọi loài luân hồi trong cõi Ta-bà (Samsāra, Sa-bà). Ba giới là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Sáu đường luân hồi là sáu loài chúng sinh: 1) Chư thiên, 2) Loài người, 3) Loài a-tu-la, 4) Loài ngạ quỷ, 5) Loài thú vật, 6) Loài đọa địa ngục. Hai loài đầu tiên, chư thiên và loài người, được xem là có nhiều phước báu, còn bốn loài kia chịu những cảnh đọa đày, đau đớn. Thiên đạo tức cõi Trời ở trong Tam giới. Tuy là thuộc về Lục phàm, nhưng được ở cảnh Thần Tiên hưởng phước. Nhưng vì ít tu lục độ, nên đến ngày hết phước cũng phải chuyển sanh xuống cõi người mà tu công bồi đức tiếp cho đến khi viên thành mới được phản hoàn ngôi vị. Duy có cõi người là trung tâm con đường siêu đọa, nếu biết tu sẽ siêu lên cõi Trời hay đạt được Phật quả vô sanh, tu Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và cuối cùng là Phật. Riêng chư thiên gồm 26 loài (có sách liệt kê 27 hoặc 28 loài), ở trong ba cõi giới khác nhau: Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Loài người và bốn loài đau khổ thì ở trong cõi Dục giới. Tất cả các loài trong cõi Ta-bà, kể cả chư thiên, đều phải qua cảnh sinh, trụ, hoại, diệt, và cùng chịu tám loại khổ (bát khổ), dù rằng có thể có những cường độ và thời gian khác nhau. Đôi khi chúng ta thấy có cụm từ “tam đồ, bát khổ” dùng trong các kinh sách, trong đó, “tam đồ” đồng nghĩa với “tam giới” (dục giới, sắc giới, vô sắc giới). Tám loại khổ đó là: 1) Sinh khổ: khổ do sinh, 2) Lão khổ: khổ do già, 3) Bệnh khổ: khổ do bệnh, 4) Tử khổ: khổ do chết, 5) Ái biệt ly khổ: khổ do xa lìa những gì ta thích, 6) Oán tắng hội khổ: khổ do nối kết với gì ta không ưa thích, 7) Cầu bất đắc khổ: khổ do không được điều ta mong cầu, 8) Ngũ ấm xí thạnh khổ: khổ do hiện hữu năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Sau đây là bảng liệt kê các loài trong cõi Ta-bà, từ cao xuống thấp: A. Vô sắc giới (Formless World, Arūpa Loka) 31. Phi tưởng, phi phi tưởng thiên (Devas of Sphere of Neither-perception nor non-perception; Nevasaññā-nasaññā-yatanūpagā devā). 30. Vô sở hữu thiên (Devas of Sphere of No-thingness; Ākiñcañña-yatanūpagā devā). 29. Thức vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Concsiousness; Viññānañca-yatanūpagā devā). 28. Không vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Space; Ākāsānañca-yatanūpā devā). B. Sắc giới (World of Form, Rūpa Loka) B1. Tứ thiền 27. Vô song thiên (Peerless devas; Akanitthā devā). 26. Thiện kiến thiên (Clear-sighted devas; Sudassī devā). 25. Thiện hiện thiên (Beautiful or Clearly Visible devas); Sudassā devā). 24. Thanh tịnh thiên (Untroubled devas; Atappā devā). 23. Vô đọa thiên (Devas not Falling Away; Avihā devā). 22. Vô tưởng thiên (Unconscious beings; Asaññā sattā). 21. Quảng quả thiên (Very Fruitful devas; Vehapphalā devā). B2. Tam thiền 20. Biến tịnh thiên (Devas of Refulgent Glory; Subhakinnā devā). 19. Vô lượng tịnh thiên (Devas of Unbounded Glory; Appamānasubhā devā). 18. Thiểu tịnh thiên (Devas of Limited Glory; Parittasubhā devā). B3. Nhị thiền 17. Quang minh thiên (Devas of Streaming Radiance; Ābhassarā devā). 16. Vô lượng quang thiên (Devas of Unbounded Radiance; Appamānabhā devā). 15. Thiểu quang thiên (Devas of Limited Radiance; Parittabhā devā). B4. Sơ thiền 14. Đại phạm thiên (Great Brahmas; Mahā Brahmā). 13. Phạm phụ thiên (Ministers of Brahmas; Brahma- Purohitā devā). 12. Phạm chúng thiên (Retinue of Brahma; Brahma-Parisajjā devā). C. Dục giới (World of Sense-Desires, Kama Loka) 11. Tha hóa tự tại thiên. 10. Hóa lạc thiên. 09. Đâu suất thiên (Đẩu). 08. Dạ ma thiên. 07. Đao lợi thiên. 06. Tứ thiên vương thiên. 05. Loài người. 04. Loài a-tu-la. 03. Loài ngạ quỷ. 02. Loài thú vật. 01. Loài đọa địa ngục. Theo đó, loài người chúng ta chỉ đứng hàng thứ năm, trên bốn loài khác là địa ngục, thú vật (súc sinh), ngạ quỷ và a-tu-la. Bốn loài sau cùng này thường được gọi là những chúng sinh trong đọa xứ hay khổ cảnh. A-tu-la là loài có nhiều quyền lực nhưng không hạnh phúc vì có tánh sân hận, thường hay gây chiến với các loài khác. Loài người ở trong một cảnh giới có hạnh phúc và đau khổ lẫn lộn. Chư vị Bồ Tát thường chọn tái sinh vào cảnh nầy, vì ở đây có nhiều hoàn cảnh thuận lợi để phục vụ và thực hành những Pháp cần thiết nhằm thành tựu Đạo Quả Phật. Kiếp cuối cùng của Bồ Tát luôn luôn ở cảnh người. Chư thiên có mặt trong cả ba cõi giới. Có sáu loại chư thiên trong Dục giới (hạng số sáu đến mười một trong biểu đồ), trong đó kinh điển thường đề cập đến cõi trời Đao lợi và Đâu suất. Cõi trời Đao lợi còn gọi là cõi trời Ba Mươi Ba vì ở đó có 33 vị trời mà ngài Đế Thích (Sakka) là thiên chủ. Chính ở nơi đây, theo truyền thuyết, Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp trong ba tháng hạ. Cõi trời Đâu suất là nơi lưu ngụ của những vị Bồ Tát đã thực hành tròn đủ các Pháp cần thiết để đắc Quả Phật, chờ cơ hội thích nghi để tái sinh vào cảnh người lần cuối cùng. Ngài Bồ Tát Mettaya (Di Lạc), vị Phật tương lai, hiện đang ở cảnh trời nầy, chờ ngày tái sinh vào cảnh người để thành tựu Đạo Quả Phật. Theo truyền thuyết, hoàng hậu Maya (Ma-da, Tịnh Diệu), mẹ của ngài Bồ Tát Siddhattha (Sĩ-đạt-ta), sau khi chết, tái sinh vào cảnh trời Đâu suất, và từ đó sang cung trời Đao lợi nghe Đức Phật giảng Vi Diệu Pháp. Trên Dục giới có Sắc giới (rūpa loka), cảnh giới các vị Phạm Thiên, những vị Trời đã từ bỏ tham dục và đang thọ hưởng hạnh phúc của thiền-na (jhāna). Có tất cả 16 cảnh (số 12 đến 27 trong biểu đồ), tương ứng với bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa jhāna). Trong đó, 5 cảnh giới cao nhất (số 23 đến 27) thường được gọi chung là Vô Phiền Thiên (suddavasa) hay Tịnh Cư Thiên, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết. Đây là cảnh giới tuyệt đối riêng biệt của các vị Bất Lai (A-na-hàm, Anāgāmi). Chúng sinh ở trong một cảnh khác mà đắc quả Bất Lai thì tái sinh vào cảnh nầy. Tiếp tục tu tập, các vị ấy đắc quả A-la-hán và sống ở đó cho đến lúc hết tuổi thọ, nhập Đại Niết Bàn. Cao nhất là Cõi Vô sắc giới (arūpa loka) gồm có bốn hạng chư thiên tương ứng với bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa jhāna). Theo Thánh Ngôn Minh Lý Đạo, Ơn trên có dạy về Bát Địa Hồng Danh như sau: Nhờ sanh tiền có tu, nên Bác Nhã Thiền Sư mới nhờ sức thần thông của Tam Giáo mà lập “BÁT ĐỊA HỒNG DANH” để tiếp độ các chơn linh về đó an cư, tiếp tục tu luyện cho đến khi nào tâm địa viên thành y như các danh địa ấy như: 1. An Lạc Địa để trị cái tâm phiền nhiễu. 2. Thanh Lương Địa để trị cái tâm sân hận. 3. Ly Cấu Địa để trị cái tâm ô nhiễm. 4. Hoan Hỉ Địa để trị cái tâm chấp nhứt. 5. Viên Thông Địa để trị cái tâm nê trệ. 6. Vô Ngại Địa để trị cái tâm chướng ngăn ngại. 7. Vô Đối Địa để trị cái tâm phan duyên, đối đãi. 8. Bồ Đề Tự Tại Địa để trị cái tâm bất định, câu nệ. Tất cả các tâm ấy làm mê tự tánh, cản trở bước đạo, trải nhiều kiếp mãi cứ quẩn quanh trong lưới nghiệp, không phá nổi vô minh. Nay đã được truy tìm, độ dẫn về một chỗ, song trong mỗi người còn thâm nhiễm phàm tình, nghiệp ác phủ quanh mấy vòng bao kín tự tâm, nên “Tâm kiên thật” ấy như bị cầm giam trong ngục. Phải nhờ công tu luyện, quán sát gốc nghiệp mà chiếu phá cho tiêu sạch mọi thứ chướng ấy mới nhẹ nhàng. Vượt qua các cõi trần thanh hư mới không bị cản trở. Vì các cõi trên càng cao, tinh khí càng nhẹ, nên gọi là “Bồng lai nhược thủy”, một mảy lông cũng bị chìm, thì tâm phàm trọng trược đâu đến đó được. Những nguyên căn xuống thế để thi hành một sứ mạng của Trời Phật giao cho, khi xong bỏ xác trở về, nhưng tánh linh ít nhiều bị mùi trần xông ướp, cáu bợn bám vào, thì cũng nhập tạm nơi “Đâu Suất Cung”, mượn sức thần thông của Di Lạc Bồ Tát để quán chiếu cho thanh sạch, rồi mới được tự do đi lại các cõi Thần Phật vô hình. Nghiệp thức ở cõi nào thì bỏ lại cõi ấy, mỗi cõi có một thân sống kết bằng tinh khí hạp với nơi đó. Như Minh Thiện, Khai Diệu, Khai Sắc, phải qua một thời gian để tẩy trần, thâu nhiếp tinh nguyên kết thể, mới được thọ phong mà đi lại nhơn gian hành đạo. Khi hoàn tất sứ mạng, mới được hoàn nguyên chánh vị. “Bát Địa” là chỗ để đạo đồ quá vãng về đó mượn sức thần thông ơn cứu độ của Tam Giáo để tu luyện huân tập thâu hồi tám cái tâm công đức cho được hoàn nguyên như cũ. Lúc đó mới tự do tự tại nơi thiên thượng nhơn gian, tới lui không chướng ngại. Theo các bậc chơn tu, giáo pháp của Đức Phật không nhằm mục đích truyền bá một lý thuyết về vũ trụ. Dù những cảnh giới trên có hiện hữu hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lý của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với suy luận của mình. Nhưng chúng ta cũng không nên bác bỏ tất cả những gì mà lý trí hữu hạn của con người không thể thấu hiểu tường tận.
- TAM GIÁO ĐỒ
TAM GIÁO ĐỒ
Lược đồ Hỏa Hậu cũng gọi là Tam Giáo Đồ vì nó chỉ rõ ba tông giáo Nho, Phật, Đạo đồng căn cứ vào một gốc lớn là Đại Đạo. Đại Đạo Hư Vô tượng trưng như hình trên lược giải như sau: màu trắng ở chính giữa lược đồ, màu trắng tinh khiết trong sạch. Mà màu trắng cũng như ánh sáng gồm tất cả các màu khác. Về hưu thể Đạo có hình tướng nên được tượng trưng bằng hình tam giác. Nhìn lại lược đồ Hỏa Hậu, chúng ta nhận ra: Chính giữa có một hình tam giác, trong đó có một vòng tròn, và giữa vòng tròn có một chấm. Hợp lại thành một hình, tượng trưng Đế, hay là Thượng Đế ba ngôi: Ngôi nhứt : vòng tròn gọi là Vô Cực; Ngôi nhì : chấm giữa vòng tròn, gọi là Thái Cực; Ngôi ba : hình tam giác, gọi là Hoàng Cực hay Nhơn Cực. Đó là Tam Cực, có nghĩa là cao hơn cả, như trong một cái nhà, trên cao là đòn dông không chi cao hơn nó. Chúng ta kiểm lại thấy rằng trước là Đại Đạo Vô thể (vòng tròn Vô Cực), kế tiếp Đại Đạo Hữu thể là Đấng tối cao (chấm giữa Thái Cực) sau rốt là Hoàng Cực hay Nhơn Cực (hình tam giác). Tam Cực tuy phân chia ra ba ngôi riêng rẽ, mà thật ra chỉ là một thể. Thể đó là Thượng Đế. Do đó Tam Cực vẫn bình đẳng, không cao thấp nhỏ lớn, không Cực nào cao hay thấp hơn Cực nào, cũng không Cực nào nhỏ hay lớn hơn Cực nào. Tại Chánh Điện Chùa Tam Tông Miếu, rõ ràng Đạo Minh Lý lấy hình tam giác làm đèn lưu ly treo giữa Bửu Điện, để tượng trưng thờ Thượng Đế ba ngôi. Phía dưới, trên hai buc tam cấp đầu của các cấp bằng cẩm thâch, có ba bài vị, sắp thành hình tam giác, là:
DIÊU TRÌ KIM MẪU (Vô Cực)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ (Thái Cực) HỒNG QUÂN LÃO TỔ (Hoàng Cực)
là ba vị đại diện cho Thượng Đế khai đạo Minh Lý. Đó là phần Tiên thiên.
Về phần Hậu thiên: là phần còn lại của lược đồ Hỏa Hậu. Trước hết là ba vòng tròn dựa trên hình tam giác cho ta cái cảm giác là từ tam giác xuất hiện ra: Một vòng tròn lớn màu vàng, có ghi chữ Ý, một vòng tròn lớn màu đỏ có ghi chữ Trí và một vòng tròn lớn màu xanh có ghi chữ Tình. - Chữ Ý nói đủ chữ là Ý chí (Volonté) và vòng tròn lớn màu vàng tượng trưng Phật giáo, vì Phật giáo Đại thừa lấy Ý làm căn bổn. Tuy Phật có dạy lấy tam nghiệp làm quan yếu là Thân, Khẩu và Ý, nhưng hai nghiệp đầu đều tùy theo Ý cả. Có phát Ý trước, sau mới động tới Thân và Khẩu. Bát thức Qui Củ Tụng của Thầy Huyền Trang nói về Ý, theo Duy thức học, có câu “Động thân, phát ngữ, độc vi tối” là chỉ về nghĩa nầy. Cho nên lấy Ý tốt hay xấu mà bình phẩm mọi việc, mọi hành động của con người. Ý tốt thì mọi việc làm đều tốt, còn xấu thì việc làm có hay cũng là mất giá trị, cũng thành xấu. Vậy Phật giáo ứng với chữ Ý hay là ngôi Nhứt. - Chữ Trí nói đủ chữ là Trí Huệ (Sagesse) và vòng tròn lớn màu đỏ bên tả, tượng trưng Nho giáo, vì Nho giáo dạy mở trí làm gốc. Sách Đại Học dạy có tám điều mục là Cách vật, Trí tri, Thành ý, Chánh tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ. Đành vậy! Nhưng hai điều mục đầu cách vật và trí tri được xem là căn bản. Tìm hiểu mọi vật, mở mang sự hiểu biết tới nơi tới chốn, chẳng phải mở trí, thì gọi là gì? Vậy Nho giáo ứng với chữ Trí hay là ngôi Nhì. - Chữ Tình nói đủ là tình cảm (sentiment, amour) và vòng tròn lớn màu xanh bên hữu, tượng trưng Đạo giáo, vì Đạo giáo tuy dạy bao hàm nhưng lấy chữ Tình làm cốt yếu. Có bài thơ nói về vấn đề nầy như sau: Nhơn tình nông hậu, Đạo tình vi, Đạo dụng nhơn tình, thế khởi tri? Khống hữu nhơn tình vô Đạo dụng, Đạo tình năng đắc kỷ đa thì. Nghĩa là: Nhơn tình thô cạn, Đạo tình tinh, Đạo dụng nhơn tình, ai biết nào? Chẳng có tình người, Đạo không dùng được. Đạo tình mà đặng, có bao lâu?
Người hiểu chữ Đạo tình là gì và biết dùng nó thì sẽ mau thành Đạo. Vậy Đạo giáo ứng với chữ Tình (tức Đạo tình) hay ngôi Ba. - Đây nói về sở trường của mỗi giáo, chớ không phải nói: mỗi giáo chỉ biết có một mặt như đã nói mà thôi. Ta nên để ý: ở trong vòng tròn lớn, có xen hai khoảnh nhỏ hình như nửa múi quít hai màu hiệp lại thành màu khác nữa. Như trong vòng tròn lớn màu vàng là Phật giáo có phụ hai khoảnh nhỏ màu đỏ và màu xanh ý nói Phật giáo có một chỗ cao luận đặc biệt hơn làm sở trường là “Chữ Ý”. Vòng tròn lớn màu xanh cũng vậy, trong tinh thần Đạo giáo có một chỗ cao luận làm sở trường là “Luyện Tình”. Vòng tròn lớn màu đỏ là Nho giáo có một chỗ cao luận đặc biệt hơn làm sở trường là “Mở Trí”. Còn hai phần phụ thuộc tượng trưng hai chỗ sở trường của hai giáo kia tuy cũng có nói đến nhưng không được giải rộng như hai giáo kia. Theo tâm lý học, tâm của ta có ba phương diện là Trí, Tình, Ý. Nhưng ba phương diện cũng tượng trưng cho ba đức tánh, có một đức tánh mạnh hơn khi ta hành động, tức là sở trường của mỗi giáo. Dầu ba phương diện của tâm hiển bày rõ rệt cách mấy đi nữa, nghĩa là có phân biệt đến đâu cũng luôn luôn còn giữ một gốc, không phải gián cách, biệt lập. Nhờ đó nếu ta nội tỉnh, tự giác tự ngộ thì cũng có thể tìm phương trở về căn bổn, là ngôi Viên Nhứt. Như đã nói ngoài ba vòng tròn lớn, còn có sáu hình nửa múi quít: Mỗi vòng tròn lớn toàn màu lại có hai hình nửa múi quít nhỏ khác màu. Ba vòng tròn lớn hiệp lại như trong lược đồ cho thấy sáu hình nửa múi quít nhỏ tượng trưng sáu đức: Thông, Minh, Nhân, Trí, Hùng, Lược. Bề Trên có giải nghĩa sơ lược như sau đây:
Thông: Chẳng phải nghe nhiều mà gọi rằng Thông. Nghe rồi còn phải thực hành, kiến cơ nhi tác, tùy cơ ứng biến, nương theo thời thế mà giúp cho đời.
Minh: Chẳng phải biết nhiều mà gọi rằng Minh. Nên phân biệt chỗ lợi hại, giúp người hiền tài thất vận, trợ kẻ ít học nên thân, ráng làm tròn phận sự đối với gia đình xã hội.
Nhân: Chẳng phải ăn chay đủ gọi là Nhân. Mà còn phải phải giúp người an vui, mở lòng từ bi quảng đại cứu vớt chúng sanh hoạn nạn, đói khổ, không cố chấp thù xưa, …
Trí: Chẳng phải tránh hết mọi việc thế gian, mà gọi là Trí. Trí là có độ lượng rộng rãi, phòng ngừa hậu hoạn có thể xảy ra.
Hùng: Chẳng phải tranh cãi có lý lẽ và lôi cuốn mà gọi là Hùng. Hùng là tinh tiến, không vì khó nhọc mà lười biếng, không vì hoạn nạn mà giải đãi.
Lược: Chẳng phải khéo cầu an, tránh mọi việc vì sợ liên lụy, mà gọi là Lược. Mỗi việc làm đều có phương pháp, có kế hoạch, tiên liệu thứ tự trước sau,nên hư mà theo mà tránh để đạt tới thành công mới gọi là lược.
Theo Phật giáo Đại Thừa, sáu khoản nầy có thể đối chiếu với Lục Độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Bác Nhã, ứng với ba thân: Pháp, Báo, Ứng. Theo Đạo giáo, có thể gọi là lục đức đó, ứng với Tam thanh: Ngọc, Thượng, và Thái. Theo Nho giáo, sáu khoản nầy có thể gọi là Lục hạp (sáu hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới) ứng với Tam thể: Mạng, Tánh, Lý. Quan sát thêm, chúng ta còn thấy có các vành đen viể quanh khiến cho các màu vàng, xanh, đỏ hiển lộ rõ ràng hơn. Kế đó lại có ba chia từ vòng tròn nhỏ chính giữa đi ra. Ba cái chia đó rất ngay thẳng tượng trưng sứ mạng công bình, ngay thẳng giữ mức trung lập, để biện biệt phân minh những điều phải, quấy, không thiên bên nầy không ngả bên kia, không kết liên với phe nầy phái nọ mà phải đứng giữa để minh lý mà thôi.
Nhìn lại lược đồ Hỏa Hậu, chúng ta thấy một vòng tròn đen (màu đen thuộc âm) ở vào giữa. Bổn đạo Minh Lý y theo màu biểu hiệu đó mà mặc đạo phục. Có người hỏi: Thuần dương mới là chánh. Đã nói Minh Lý là chánh đạo, sao lại thuộc âm? Đáp: Bề ngoài sắc đen là âm, mà bên trong sắc trắng là dương. Luận theo Tiên thiên, sắc đen là thủy thuộc dương, nghĩa là trong âm có dương. Theo Hà Đồ đó là các số 1 - 6. Còn ngoài cái vòng tròn sắc đen là màu trắng. Trắng thuộc dương mà luận về Tiên thiên sắc trắng thuộc âm, tức là trong dương có âm. Đó thuộc các số 4 - 9 của Hà Đồ. Ba vòng tròn xanh, đỏ, vàng, thuộc Hậu thiên càng mở rộng ra chừng nào, thì ba chia đen càng kéo dài thêm mãi. Ba chia đen, như đã thấy, tượng trưng cho Đại Đạo Tiên Thiên gồm Minh Lý Đạo.
Kinh Đại Đạo có ghi: Thêm Minh Lý lãnh phần truyền Đạo, Ban sám kinh, khuyên bảo tu hành; … … Và Vì chưng lắm cuộc phong trào, Mấy chi (chi phái có 5) sợ khó, hiệp vào một nơi. Thầy phải sửa cơ Trời khai đạo, Nên truyền cho Đạo Tổ giáng trần; Lập chi Minh Lý khuyến dân, Truyền ban kinh, luật hồng ân cứu đời.
Cơ Trời về mặt Đạo có sắp đặt sẵn trong lược đồ Hỏa Hậu nầy. Nghiên cứu ,suy nghĩ kỹ thì sẽ thấy rõ. Phận sự của Đạo Minh Lý rất phân minh nên Minh Lý môn sanh suy xét cho rõ, đề ai ai cũng phải tin theo đó mà ráng lo làm phận sự. Khi ban lược đồ nầy, Đức Khổng Thánh có dạy rằng: “Bởi các ngươi học Đạo không rốt ráo, nên làm hư Đại Đạo. Lược đồ này chỉ cho chư nhu biết rằng Nho, Thích, Đạo chỉ có một gốc mà thôi”. Y như trong bài Khai Kinh của đạo Minh Lý có những câu sau đây:
Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy, Gốc bởi lòng làm phải làm lành. Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành, Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn. Phép Tiên Đạo tu chơn dưỡng tánh, Một cội sanh ba nhánh in nhau.
“Đạo Tổ có dạy làm một bài giảng góp hết ý tứ trong các Thánh Ngôn để làm nêu dẫn đường cho các đạo hữu Minh Lý Đạo. Minh Lý môn sanh khá vưng theo lời Bề Trên mà hành động cho đúng Thiên cơ, mới mong Đạo Minh Lý đi đến kết quả tốt đẹp, không phụ lòng Ơn Trên hằng nhắc nhở, dạy khuyên”. Trên đây, Tam Giáo Đồ của Minh Lý Đạo đã được lược giải từ trong đến ngoài, đầy đủ không sót khoản nào. Chúng ta cần suy nghĩ thêm về phần đạo lý, rộng rãi thâm sâu vô cùng. Ai trong chúng ta cũng cần tìm hiểu, tự mình phát huy sáng kiến theo trình độ học hỏi, tùy mức giác ngộ của mình, để góp công đức vào sự hoằng khai Đại Đạo. Học hỏi, tìm tòi, hiểu rõ, hiểu vững chắc hầu đặt tất lòng tin nơi Chánh Đạo, để rồi tuân lịnh Bề Trên đã dạy,thi hành rốt ráo cho hợp với Thiên cơ.
- VÒNG TRÒN ÂM DƯƠNG (TRONG MINH LÝ ĐẠO)
Đức Bác Nhã Thiền Sư có dạy: “Tất cã cõi vũ trụ bao la, trên trời dưới đất, đâu đâu cũng huyễn hóa, ảo ảnh, giả tượng; khắp vũ trụ, suốt vạn vật, thấu hết thân người, không đâu không là hiện tượng của âm dương tiêu trưởng, mà âm dương là cái diệu dụng của Trời Đất, chưa phải cái nguyên thể linh không Vô Cực, là cái tự tánh thanh tịnh như như bất động của chính mình. Cái linh không ấy mới chơn thật thường còn; phải hướng tâm về đó, tập trung tất cả, qui gọn vào đó; mắt, tai, mũi, miệng, tình, ý, tưởng, niệm hội tụ ở đó, nhồi trộn đúc kết tất cả trở thành một khối nguyên vẹn, gọi là phản hoàn trở lại bổn thể. Đó là cái mặt thật của chính mình, được Một rồi là Phật, Tiên, là Đạo, là Thành, thay Trờimà điều động âm dương và vạn pháp”. Cốt tủy của Kinh Dịch nằm trong câu của Hệ từ thượng: “Dịch hữu Thái Cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”. Chữ sinh ở đây có nghĩa là biến. Như thế, Dịch là lịch trình đại biến hóa của vũ trụ vạn vật. Thái Cực là một khí Tiên thiên, một thứ linh căn bất diệt, vô cùng huyền diệu, trong đó tiềm phục hai nguyên lý Âm - Dương. Nói Thái cực sinh lưỡng nghi, chữ “sinh” là ứng hiện vì hai nguyên lý mâu thuẫn ấy trước khi thành hình, đã tiềm ẩn trong Thái Cực. Cái khí của Thái Cực còn được gọi là Nguyên khí. “Thái Cực động sanh dương, tịnh sanh âm. Âm dương là hai mặt của Thái Cực. Dương thì phát, âm thì thu; dương thì tán, âm thì tụ. Tán ra thì thành khí, tụ lại thành hình. Mà hình tán ra lại thành khí. Tuy nói âm dương cũng là một mối. Lúc thì dương, để phát xuất chuyển động mà có sanh hóa, có luân lưu. Lúc lại âm, thu nạp mà thành hình, trở nên muôn vàn trạng thái”. Nên có câu: “Nhứt thể lưỡng diện”. 1. Âm dương hòa hiệp. Tất cả mọi cuộc biến hóa, sanh thành trên đời đều do hai lẽ âm dương mà ra, nên còn gọi là luật Cơ Ngẫu. (Cơ là lẻ, dương. Ngẫu là chẵn, âm). Vũ trụ là hình thể của Trời Đất được xây dựng bởi một âm, một dương “Âm là vũ, dương là trụ. Vũ thì đóng khép nằm trong gầm Trời, Trụ thì mở rộng. Trụ là thời gian là âm dương nối tiếp nhau. Vũ là không gian, là âm dương đồng thời tương đối”. Dịch là “Sinh sinh chi vị Dịch”, vì cái đức lớn của Trời Đất là sự “Sinh” (Hệ từ hạ truyện). Sinh là sống vì vậy. âm dương không thể tuyệt, tức là nó phải không bao giờ rời nhau, vì rời nhau thì sẽ không có cái nào tồn tại. Do đó, không có trạng thái cô âm, hay cô dương. “Cô âm bất sanh, cô dương bất trưởng”. 2. Trong Âm có dương, trong Dương có âm. Ngay trong Thái Cực, mỗi nghi cũng lại là một Thái Cực, điểm dương trong âm, điểm âm trong dương. Đây là một quy luật rất quan trọng dù là một phần tử nhỏ bé rời rạc cũng chứa đầy đủ như các đại toàn thể của vũ trụ. Lấy một thanh nam châm dài hai đầu là một âm một dương. Cắt nó ra làm hai mảnh, mỗi mảnh cũng có hai đầu, một âm một dương. Và cắt ra nữa thì mỗi mảnh cũng đều có một âm, một dương. Vậy dù nhỏ đến đâu cũng có Âm và Dương. Dịch nhận rằng “Các hữu Thái Cực”, nghĩa là không có sự vật nào trong đời mà tự nó không phải là một Thái Cực. Như con người là một tiểu vụ trụ cùng đồng một qui tắc cấu tạo, nguyên lý vận hành như một đại vũ trụ. Tiểu vũ trụ ấy là mô hình thu nhỏ của đại vũ trụ. “Người là Tiểu Thiên Địa đó, Người với Trời nào có khác chi. Hễ Trời có những món gì, Người người đều cũng đủ y như Trời”. 3.Âm cực thì dương sinh - Dương cực thì âm sinh Vì trong Âm có Dương tiềm phục, trong Dương có Âm tiềm phục. 4.Âm Dương ngược nhau nhưng hỗ tương. Dương là động, sanh, nhẹ, nóng, cứng… Âm là tịnh, dưỡng, nặng, lạnh, mềm… Âm dương tính chất khác nhau nhưng chế hóa lẫn nhau để giữ sự quân bình. Âm dương còn nghịch nhau ở đường đi và về. Dịch là động nhưng động hai chiều nghịch nhau: - Dương thăng, đi ra, mở, qua trái. - Âm giáng, đi vô, đóng, qua phải. Nếu có vào mà không có ra, có qua mà không có lại thì sự vật sẽ bị bế tắc chẳng được hanh thông. Ngay việc ăn uống, hô hấp của ta hằng giây, hằng phút, đủ thấy cái đạo mở đóng của Dịch rồi. Cũng nên lưu ý: Dương có dương thuận (đi lên), là Dương tụ. Dương nghịch (đi xuống) là Dương tán. Âm có âm thuận (đi xuống) là Âm tụ. Âm nghịch (đi lên) là Âm tán. Tất cả đều có hai chiều tác động. Sở dĩ gọi âm hay dương là vì phần âm lấn phần dương, như bẩm thụ dương nhiều thì sinh ra giống đực, bẩm thụ âm nhiều thì sinh ra giống cái. Âm dương vừa xem kẽ lẫn nhau mà cũng vừa hàm chứa lẫn nhau. Đó lẽ nhiệm mầu của lưỡng nghi. “Luật Trời vô vi, nhưng cũng có hai năng lực mạnh bạo phi thường là nhứt âm nhứt dương mới tạo nên Càn Khôn vũ trụ (…) Ấy là hai năng lực tương phản tương đối mà hóa hóa sanh sanh (…) Vậy thì cái sự sanh đó cũng do nơi hòa mà có. Thế nên Đạo của Trời Đất cũng bất ngoại hai chữ Trung Hòa”. 5.Âm dương bằng tịnh và động. Âm dương chỉ là danh từ tương đối. Cho nên khi nói Âm là tịnh, phải hiểu ngay đó là muốn nói cái tịnh bên ngoài nhưng bên trong là một cái động mạnh của cái gọi là tịnh cực, vì tịnh cực là động sinh. Điểm này giúp ta hiểu Đạo Âm của các môn võ thuật Trung Hoa, Nhật Bản. Không nhận thấy cái động trong cái tịnh, cũng như cái tịnh trong cái động thì sẽ không bao giờ hiểu được Dịch. 6.Cần lưu ý sự khác nhau của âm dương Tiên thiên và âm dương Hậu thiên. Ở Tiên thiên (trước Trời) thì âm dương đi chung với nhau, là khí tuy có động tịnh nhưng chưa biểu lộ hình tượng. Ở Hậu thiên (sau Trời), âm dương tách riêng, có hình tượng. Nhờ có âm dương trong cấu tạo nội thể và khả năng kết hợp với âm dương ở bên ngoài ngoại giới mà vạn vật không ngừng phát triển về mặt hữu hình. Vậy, với nguồn cội Tiên thiên là Đạo vạn vật, còn có cội nguồn Hậu thiên là những thế hệ tổ tiên của mình. 7.Tại sao gọi âm dương mà không gọi dương âm? “Vạn vật phụ âm nhi bảo dương”, nghĩa là vạn vật đều cõng âm bồng dương hay nói bồ lưng thuộc âm, bồ bụng thuộc dương. Bên ngoài vật chất là âm, bên trong tinh thần là dương. Âm dễ thấy hơn vì chủ về hình tượng thể chất, còn dương thuộc về phần vô hình chỉ có thể cảm được mà không thấy. Có lẽ vì thế mà người xưa thường gọi là âm dương. 8.Phù hiệu Dương được tượng trưng bằng gạch liền Âm được tượng trưng bằng gạch đứt Tóm lại: “Luật tắc âm dương động tịnh chứng minh sự tác động đối nghịch để chuyển vận mọi sự tiến hóa được phát sinh từ mâu thuẫn tác hiệp. Sự mâu thuẫn ở đây phải nằm trong luật tắc tương hiệp tương hòa, bởi vì nếu đi ngoài luật tắc ấy, vạn hữu đối nghịch sẽ khởi thỉ cho sự phân tranh và tự diệt. Trái lại, nhờ nó mà vũ trụ mới sinh trưởng biến hóa, vần xây cho cuộc thế diễn phô thanh sắc, qua màn ảnh lục thức của con người. Màn đêm và ánh sáng không tiêu diệt nhau mà chúng đã tạo lấy buổi bình minh hay cảnh hoàng hôn huy hoàng rực rỡ làm rung cảm bao kẻ ưu tư. Nhịp khúc ân tình có hay không, đều nằm trong luật tắc. Nhờ vậy, con người hiệp thành xã hội, thiết lập thế giới nhân sinh”.
THÁI CỰC – ÂM DƯƠNG – TỨ TƯỢNG – BÁT QUÁI THỂ HIỆN NƠI TỔ CHỨC HỘI THÁNH MINH LÝ
Hội Thánh tượng trưng cho Thái Cực. Thái Cực sinh lưỡng nghi: Hội Thánh có nam và nữ. + Kiền: nam thuộc dương, nên cương kiện thủ xướng mọi việc. + Khôn: nữ thuộc âm, nên nhu thuận, kế tiếp hoàn thành công việc. Hai bên hiệp lại hỗ trợ cho nhau thì mọi việc mới được kết quả mỹ mãn. Nếu hai bên xung đột nhau thì mọi việc phải hư hại. Lưỡng nghi sinh tứ tượng: Hội Thánh có nam nữ, đặt trên không gian và thời gian để điều hành bộ máy của Đạo. Vì cớ đó mà Hội Thánh kiêm cả chức sắc nam nữ, mỗi bên có ngành dọc (thời gian, trụ) và ngành ngang (không gian, vũ). ............. Ngành dọc – Bảo pháp Chức sắc nam: { ............. Ngành ngang – Hành pháp ............. Ngành dọc – Bảo pháp Chức sắc nữ: { ............. Ngành ngang – Hành pháp
Tứ tượng sinh bát quái, tượng trưng qua tám cấp Đạo:
Hội Thánh tượng trưng Thái Cực. Bộ phận thông công tượng trưng Thái Cực. Nội chính vụ tượng trưng Hoàng Cực. “Ngành ngang, ngành dọc hiệp nhau là Hoàng Cực, Thái Cực, là Đại Đạo”.
- TAM GIÁO QUI NGUYÊN
Tam giáo qui nguyên, như nước ba sông lớn đổ về biển cả, không thể biết nước nào thuộc về sông nào. Học thuyết mỗi giáo tuy luận điểm và danh từ có khác nhau, nhưng xét về mặt nguyên lý, thì Tam giáo đồng thờ một căn bổn Độc nhứt và Phổ biến, mà thông thường mà người ta gọi tắt là Ngôi Độc Nhứt. Ngoài ra, ba giáo đều chủ về tâm tánh và luận về thiện ác, họa phước vay trả. Tam Giáo thường được biết đến là: - Đạo Phật cũng gọi là Thích giáo - Đạo Tiên (Đạo) cũng gọi là Lão giáo - Đạo Thánh (Nho) cũng gọi là Khổng giáo Là ba tôn giáo lớn ở Đông Nam Á. Tại Trung Hoa, cũng như trong nước Việt Nam ta, ba giáo này vì gần gũi nhau, chung đụng nhau lâu ngày, nên hiện nay về mặt giáo lý, ba giáo này xen lẫn và ảnh hưởng lẫn nhau, khó mà phân biệt mỗi giáo cho rạch ròi. Cho nên có người nói: Tam giáo qui nguyên, như nước ba sông lớn đổ về biển cả, không thể biết nước nào thuộc về sông nào.
I. TAM GIÁO ĐỀU HƯỚNG ĐẾN NGÔI ĐỘC NHỨT (VIÊN NHỨT)
Theo Phật giáo, Ngôi Độc Nhứt này được gọi là Pháp hay Phật.
Theo Tiên giáo, Ngôi Độc Nhứt này được gọi là Đạo hay Đức.
Theo Thánh giáo, Ngôi Độc Nhứt này được gọi là Thiên hay là Thượng Đế.
Tam giáo có phải là đồng thờ một Ngôi Độc Nhứt? Tuy danh từ xưng tụng có ý khác nhưng ý nghĩa Ngôi Độc Nhứt thì không khác. - Phật giáo nói: “Van pháp qui Nhứt”. - Tiên giáo nói: “Bảo nguơn thủ Nhứt”. - Thánh giáo nói: “Chấp trung quán Nhứt”. Mỗi giáo đều có tuyên xưng về với Ngôi Nhứt, tức là một danh từ tĩnh bút của Ngôi Độc Nhứt và phổ biến. Như trên đã giải: đó là nguyên lý luôn luôn chỉ Ngôi Tạo Hóa sanh người vật, chủ tể vũ trụ tối cao, tối thượng, bất sanh bất diệt, mà ai ai cũng phải tôn kính và phục vụ.
II. BA GIÁO ĐỀU CHỦ VỀ TÂM TÁNH Chủ trương của ba giáo đồng trau tâm sửa tánh. - Thánh giáo nói: Tồn tâm dưỡng tánh, hay là Cùng lý tận tánh. - Tiên giáo nói: Tu tâm luyện tánh. - Phật giáo nói: Minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh, tu tâm luyện tánh, tồn tâm dưỡng tánh, mặc dầu danh từ gọi có khác nhau mà công phu cũng đều đem tâm tánh từ chỗ hình thức, sanh diệt, trở về chốn vô hình, bất sanh bất diệt, để hiệp cùng Ngôi Độc Nhứt.
III. BA GIÁO ĐỀU CÓ LUẬN VỀ THIỆN ÁC VÀ HỌA PHƯỚC TRẢ VAY Tuy đồng luận về thiện ác và họa phước trả vay nhưng tên gọi gọi tên thuyết khác nhau, Phật gọi là Nhân quả, Đạo gọi là Cảm ứng, Nho gọi là Báo ứng. - Nhân quả của Phật giáo: Nhân quả là tiếng thường dùng. Có kinh gọi là Nghiệp. Chữ Nghiệp nghĩa là: việc làm, hành động, động lực. Luật Nhân quả và vấn đề luân hồi sanh tử là cái luật chung có từ lâu, chẳng phải mới xuất hiện từ khi Phật ra đời. Nó vốn đã có từ xưa đã có trong các kinh của Bà-la-môn giáo ở Ấn Độ. Nhưng nhờ có Phật luật ấy mới được chỉnh đốn và bổ túc thêm hoàn hảo. - Cảm ứng của Tiên gia: Lấy cái này mà xúc động (chạm đến) cái kia, gọi là Cảm. Người Pháp dịch chữ Cảm là Action (hành động), thì cũng đồng nghĩa với chữ Nghiệp nói trên của Phật giáo. Rồi cái kia đối đáp (dội lại) cái này gọi là Ứng. Người Pháp dịch chữ Ứng là Reaction (phản động). Cảm đã là hành động (việc người làm), Ứng là phản động, thì ứng phải do cảm, nghĩa là bởi hành động trước, rồi sau đó mới có sức phản động. Cuốn Kinh Cảm Ứng của Đức Thái Thượng Lão Quân khởi đầu viết: “Họa phước vô môn, duy nhơn tự triệu; thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình”. Nghĩa là: điều họa phước không có ngõ nhất định, chỉ tại người tự vời lấy cho mình; dữ lành hai lẽ báo ứng, tỉ như bóng tùy hình. Trong kinh Sám Hối của đạo Minh Lý nói: Điều họa phước không hay tìm tới, Tại người vời nên mới theo mình. Cũng như bóng nọ tùy hình Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn. Chữ tùy có nghĩa là theo một bên mình chẳng rời, mà cũng có nghĩa là: chiều sự lớn, nhỏ, nặng, nhẹ nữa. Ý nói: việc lành, việc dữ của mình làm có lớn, có nhỏ, có nặng, có nhẹ, thì sự báo ứng tùy theo đó mà trả nhiều ít, mau chậm, không bao giờ sai chạy. - Báo ứng của Nho giáo: Báo, nghĩa là đền đáp, thưởng phạt. Ứng là tùy việc mình làm trước mà ứng đáp lại. Nói cho đúng, Nho giáo không có lập thuyết Báo ứng. Nhưng có nhiều tư tưởng thuộc vấn đề này, chẳng phải là không bổ ích, nên xin dẫn ra sau đây: Đức Khổng Tử nói rằng: “Người làm việc lành thì Trời lấy phước mà báo ứng cho họ, người làm việc chẳng lành thì Trời lấy họa mà báo ứng cho”. Từ Thần Ông nói: “Chứa lành gặp lành, chứa dữ gặp dữ, tử tế xét suy, Trời Đất không lầm”. Lại nói: Hành tàng hư thiệt tự gia tri, Họa phước nhân do cánh vấn thùy? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì. Nghĩa là: Việc làm dối thiệt tự mình hay Họa phước do ta lại hỏi ai? Lành dữ rốt rồi, có báo ứng, Khác nhau là tại sớm hay chầy. Như vậy thì ba giáo chẳng khác nhau ở nguyên lý mà chỉ khác nhau ở danh từ kêu gọi, cách giải thích mà thôi. Ước mong mọi người trong chúng ta cùng nhau tìm xét lẽ chơn thiệt mà theo, nên bỏ qua sự cố chấp hình thức nhỏ nhen, thì có lo chi các tôn giáo không đi đến dung hòa lý thuyết, tương thân tương ái. Rồi vì Chơn lý có một, cùng nhau đồng tâm nhất trí, chung lòng để tìm con đường giải thoát chân chính. Được vậy, nhân loại hết tư tâm bản ngã, trần gian chắc chắn sẽ đi đến hòa bình. Ngũ trược ác thế của chúng ta đây cũng sẽ dứt sự phiền não, hóa thành Tây phương Cực lạc, đặng hưởng phước vô cùng.
- THUYẾT TAM NGUƠN
Về mặt vô vi trên phương diện Tôn Giáo phải mặc nhiên công nhận : Nguyên Hội chính là chiếc đồng hồ lớn dùng để tính toán khí số và thời vận của trời đất vũ trụ. Do vậy, Đạo phải tùy mỗi hoàn cảnh, mỗi thời gian mà xuất hiện. Đó là tùy theo trình độ, phong hóa mà chuyển di, tác hợp đúng thời. Nếu không có Thượng Đế chủ trương, thì lấy ai điều khiển? Lấy ai dạy dỗ? Cũng như trong một cái nhà mà thiếu vị gia trưởng làm chủ, thì chắc chi nhà ấy đứng vững được. Thượng Đế là tượng trưng cho sự duy nhứt của thiên hạ. Ngài trổ Thần xuống cho những nguyên nhơn ứng thân giúp Đạo, để hoằng truyền Chánh pháp, lập tam hội Long Hoa, trải qua ba thời kỳ:
Long Hoa nhứt hội, là hình thể (xác thân) pháp.
Long Hoa nhị hội, là khí thể (khí phách) pháp.
Long Hoa tam hội, là thần thể (thần hồn) pháp.
1. Thượng Nguơn hay là Nguơn Thượng Đức (Thời Thượng cổ): Còn gọi là Long Hoa nhứt hội. Vào thời Thượng cổ, Đạo xuất hiện ở trong con người chất phác, lòng không bị vật dục ám ảnh, thôi miên. Người đó là Thiên tử tức là con Trời. Con Trời kiêm cả đạo làm vua để trị nước, làm thầy để dạy dân. Đó là Thượng Đế giáng sanh lập Đạo. Thời đó ứng với thời Ngũ Đế, Tam Vương, lấy hình thể con người cao trỗi đức độ, nên thời đó không có tôn giáo. Mà cũng không cần có tôn giáo, vì toàn dân tuân giữ ở một mệnh lệnh, một đấng Quyền năng chăm lo phần xác lẫn cả phần hồn, gọi là hình thể. 2. Trung Nguơn hay là Nguơn Thượng lực (Thời Trung cổ): Thời nầy còn gọi là Long Hoa nhị hội. Đến thời Trung cổ, lòng người biến cải, đắm chìm trong vật dục, nên quyền vua không còn kiêm cả Vương đạo (Đế đạo) và tôn giáo. Lần nầy Thượng Đế giáng sanh cứu đời, phân quyền cho thế gian: Vua lo phần chánh trị, tôn giáo lo phần cứu rỗi linh hồn, mới có các vị Giáo Tổ ra đời. Giáo Tổ ra đời lập Đạo, mục đích giải thoát con người khỏi lợi danh, xuất thân tu hành cho đắc Đạo, chứng được Tam minh, Lục thông, tâm tánh khế đồng cùng Trời Đất, vượt trên tất cả những gì ở thế gian, giẫm lên bao nhiêu cái gì chướng ngại. Do vậy sự giáng sanh lần nầy cần phải nhiều công phu tu học, tiến hơn phần trước một bực, là thoát ngoài thể chất, để đến một xác thân tinh khí, gọi là khí thể. Thời kỳ nầy vì nhơn tâm bất nhứt, tập quán theo thói đời thâm nhiễm nhiều nết xấu, mới làm cho xa mất điểm Thiên lương, cậy ở sức mình mà hiếp bức, chém giết lẫn nhau, tương sát tương tàn, mạnh còn yếu mất, nên sanh ra biết bao trường huyết chiến, không còn kể đồng loại đồng chủng, làm phai lợt tình nghĩa đồng bào. Bởi đó, đời Trung cổ mới có danh là đời Thượng lực, mà Trung Nguơn ấy cũng gọi là Nguơn Tranh đấu nữa. 3. Hạ Nguơn hay là Đời Mạt kiếp (Thời mạt pháp): Đây là thời hiện tại còn gọi là Long Hoa tam hội. Xuống đến Hạ nguơn, con người đã mất thiên tính, tình thức lấn át lương tâm, hung hăng, táo bạo, không còn ai biết tôn kính lẽ phải, đạo đức. Vương đạo mất, bá đạo chủ quyền, chánh giáo suy đồi, tà giáo phong khởi. Bốn phương loạn lạc cạnh tranh, dùng sức mạnh đàn áp, chém giết lẫn nhau. Dùng trí thuật, mưu sâu, kế độc, để lừa dối phỉnh phờ nhau. Nhiều lúc, họ lấy Đạo làm phương tiện, mua lợi bán quyền, cũng có lúc vì quyền lợi mà tôn giáo sát hại lẫn nhau. Chúa bị trăn mình, phải chăng do tâm trạng ganh tị, chia rẽ? Còn giữa các bá, bá nầy chống lên bá nọ, bá bá tranh quyền, vì chỉ biết ích kỷ cho một mình, mà đem dân làm bia hứng đạn. Nên lần nầy Thượng Đế đến với thế gian để tận độ toàn linh. Đã chẳng phân quyền, mà còn truất luôn, nên về mặt đời cũng chẳng thấy một ai là anh minh vương đạo. Về mặt tôn giáo, cũng chẳng mấy người chứng quả vô lậu từ bi. Sau đời Lục Tổ đến nay, tu hành rất nhiều công phu khổ hạnh, mà có thấy ai thành? Đó là phần đời lấn át phần Đạo, tinh khí không hiệp được cùng thần. Thần không ở cùng tinh khí, thì tam bửu khó hoàn đơn. Vì vậy lần nầy Thượng Đế không đến trần gian bằng hai lối trên, mà đến bằng điển quang, dùng cơ bút mà lập Pháp. Quyền lập pháp ở tay Trời. Trời chủ trương khai giáo, để tránh cái nạn chính giáo hóa ra phàm giáo. Cho nên Ngài dùng thần thể hiệp với lương sanh mà dìu dắt quần sanh. Thần thể hiệp với nhiều người làm một Giáo hội. Giáo hội đó là hình thức lập giáo của Trời, nên gọi là “Gia đình Thượng Đế”. Thượng Đế đến bằng Thần, mà Thần là điển quang nên mới độ tận được loài người. Điển quang có đến được thì mới phá tiêu ác khí hồng trần. Chỗ nào muốn vời thỉnh Ngài, thì có Ngài đến dạy dỗ, bất cứ Đông hay Tây, nước nầy hoặc nước nọ, đều được Ngài gần gũi dạy khuyên. Ngài hiện ra nhiều cách: xây bàn, cầu cơ, ứng khẩu cho nhiều người nói được, tiên tri, kêu gọi bốn phuơng thiên hạ làm lành làm thiện. Trong cơ tận độ, Thần đến hiệp cùng Tinh Khí, thì trong cơ tận độ, làm cho loài người đặng chí thiện, chí mỹ, xây dựng đời sống Đại đồng cho loài người giữa thế gian gọi là Cực lạc tại thế. Loài người sống hồn nhiên chí thiện. Khi mạng kết thúc thì được trở lại cùng Trời. Đó cứu cánh của phần hồn nhơn loại.
*** Một năm có Tam Nguơn: Một năm cũng được chia làm ba Nguơn. Ba ngày rằm của ba Nguơn là ba ngày rằm lớn, xin kể :
Rằm Thượng Nguơn là ngày 15 tháng Giêng âm lịch.
Rằm Trung Nguơn là ngày 15 tháng 7 âm lịch.
Rằm Hạ Nguơn là ngày 15 tháng 10 âm lịch.
- MINH LÝ YẾU GIẢI
Quyển sách nầy ra đời vào đầu thời kỳ thứ nhì (1941-1965) là thời gian “Tự tu học - Nghiên cứu Kinh sách”. Thời kỳ nầy kéo dài 24 năm, là một khoảng thời gian dài đăng đẳng, Thần Tiên tuyệt dứt Thần cơ, dạy chư môn sinh phải tự tu học. Chính trong thời kỳ này, Ngài Định Pháp Tổng Lý Nguyễn Minh Thiện (1897-1972) đã phế bỏ việc đời để chuyên tâm lèo lái mối Đạo. Ngài kết tập Thánh ngôn, Thánh giáo, viết sách, dịch Kinh, trùng tu Thánh miếu, chuẩn bị xây dựng Bác Nhã Tịnh Đường, hướng dẫn môn sanh theo con đường chánh nghĩa chơn tu, đúng theo chơn truyền Đạo pháp của Minh Lý mà Ơn Trên đã dạy bày, trong đó có cuốn Minh Lý Yếu Giải. Phật giáo căn cứ ở bổn tâm, có ba mặt là: giải, tín, hành, ví như triết học ngày nay gọi: trí, tình, ý là ba thứ tác dụng của cái tâm. Sách này căn cứ ở Lý tánh, là bổn thể của tâm. Tác dụng của tâm tức là tác dụng của tánh.
Sách có năm chương: Chương nhứt: Tổng luận, nghĩa là luận đại cương
Mục đích, tông chỉ Đạo Minh Lý.
Đạo Minh Lý đối với Nho, Thích, Đạo và Triết học.
Chương nhì: Giải, nghĩa là hiểu biết
Vì sao phải minh Lý Tánh và phương cách minh Lý Tánh.
Trí tri và học hỏi.
Chương ba: Tín, nghĩa là tin tưởng
Giải nghĩa chữ TÍN
Về tôn kính, lễ bái, thờ phượng, xưng tụng.
Ích lợi của sự đọc và nghe kinh.
Chương tư: Hành, nghĩa là làm việc
Ý nghĩa và thực hành Cảm Ứng.
Ý nghĩa và thực hành Sám Hối.
Ý nghĩa chữ Công Đức.
Lược giải phép “Song tu”.
Chương năm: Kết luận.
Tổng hợp sở trường của tam giáo trong phép song tu tánh mạng.
Khuyến khích thiện tâm học hỏi và tu hành để tự độ và độ tha.
- MINH LÝ HỌC THUYẾT
Lịch sử ra đời: Thời kỳ thứ nhì kéo dài 24 năm (1941-1965), là một khoảng thời gian dài đăng đẳng, Thần Tiên tuyệt dứt Thần cơ, dạy chư môn sinh phải tự tu học. Trong lúc nầy, Minh Lý Đạo bị khảo đảo nhiều thứ: Tài chính kiệt quệ, cơ đạo chinh nghiêng, đạo hữu rã rời. Tuy vậy, một số người trung kiên còn ở lại, theo phương pháp của Thần Tiên chỉ dạy, biết lợi dụng lúc rảnh rang, không cầu đàn, ít lễ cúng, trùng tu ngôi Tam Tông Miếu, chuyên về kinh tế cho các bạn tu hành sinh sống. Chính trong giai đoạn này, Ngài Định Pháp Nguyễn Minh Thiện (1897-1972) đã phế bỏ việc đời để chuyên tâm lèo lái mối Đạo. Ngài kết tập Thánh ngôn, Thánh giáo, viết sách, dịch Kinh, trùng tu Thánh miếu, chuẩn bị xây dựng Bác Nhã Tịnh Đường, hướng dẫn môn sanh theo con đường chánh nghĩa chơn tu đúng theo chơn truyền Đạo pháp của Minh Lý mà Ơn Trên đã dạy bày. Trời Phật ủng hộ người lành, nên việc chi cũng được thành tựu theo ý nguyện. Thiệt là: “Nhơn hữu thiện nguyện, thiên tất tùng chi”. Trong thời kỳ nầy, tuy có học và dịch nhiều kinh sách, mà chỉ giữ ba cuốn Viên Giác Kinh, Đạo Đức Kinh và sách Trung Dung làm căn bản. Cho nên thời kỳ nầy có thể gọi là thời kỳ nghiên cứu kinh sách Tam giáo.
Chính trong thời kỳ này, Ngài Minh Thiện đã biên soạn cuốn giáo lý làm nền tảng cho Minh Lý Đạo là Minh Lý Học Thuyết, để cho môn sanh theo đó mà tu học. Minh Lý Học Thuyết gồm có 7 chương. Nội dung của Minh Lý Học Thuyết có thể tóm lược như sau:
Chương 1: Tổng luận về Đạo Minh Lý
1. Ngày giờ khai sáng Đạo Minh Lý 2. Phương pháp lập Đạo 3. Định nghĩa Đạo hiệu Minh Lý
Chương 2: Luận về đồng điểm của Tam giáo
1. Ba giáo đều thờ Ngôi Độc Nhứt 2. Ba giáo đều chủ về tâm tánh 3. Ba giáo đều có luận về thiện ác và họa phước trả vay
Chương 3: Luận về dị điểm của Tam giáo
1. Sở trường của mỗi giáo 2. Mỗi giáo đặng ví khác nhau 3. Cực công của Tam giáo
Chương 4: Lý thuyết về nền tảng của Đạo Minh Lý
1. Ngôi Viên Nhứt 2. Ngôi Viên Nhứt biến hóa hay là họa đồ Hỏa Hậu 3. Phản bổn hườn nguyên là nguyên tắc lớn tu hành
Chương 5: Chương trình học vấn
1. Tổng luận về sự khổ 2. Luân lý (Nhơn Đạo) 3. Tu mạng 4. Tu tánh
Chương 6: Cách sắp đặt - phụng thờ trong Chùa
1. Tại Bửu Điện 2. Tại Lễ đường 3. Tại Chung lâu (lầu chuông)
Chương 7: Lễ nghi và luật lệ
1. Tổng luận 2. Lễ nghi 3. Luật lệ
- MINH LÝ CHƠN GIẢI
Đây là thời kỳ thứ ba (1965-1975) là thời kỳ khai cơ giáo pháp ngõ chuyển cơ thành Đạo. Năm 1965, Ơn Trên có chuyển đồng tử đến giúp cho đạo Minh Lý. Trước tiên, Ngài dạy Châu Dịch Huyền Nghĩa, nói về Thiên đạo, nhứt là giải về quẻ Phục, quẻ Tùy, quẻ Thái, quẻ Kiền, quẻ Khôn, quẻ Thiên Lôi Vô vọng, kế tiếp dạy nhiều quẻ khác nhằm làm rõ thêm nghĩa đạo lý Tiên thiên. Trong thời kỳ nầy, Ơn Trên ban cho hai bộ kinh rất quan trọng là “Minh Lý Chơn Giải và Đạo Học Chỉ Nam”. Minh Lý Chơn Giải là một bộ kinh quan trọng mà Ơn Trên chỉ dạy phương cách tổ chức và hình thành Hội thánh làm nền tảng cơ sở cho việc tổ chức Hội thánh Minh Lý Đạo hiện nay. Minh Lý Chơn giải gồm có lời nói đầu và năm chương. Đức Trần Hưng Đạo huấn dụ cho môn sanh Minh Lý trong phần mở đầu về sứ mạng của Minh Lý trong buổi hạ ngươn tận diệt. “Hướng đạo nầy ôi! Cố gắng lên! Trời ban sứ mạng, khá tâm bền. Đuốc linh rọi bước đưa người thế, Gánh đạo, nghiêng vai, xứng đáp đền. … Các hiền hãy tin và vững tin ở sau lưng mình, trước mặt mình, trên đầu mình và trong lòng mình có một Thần Lẽ Thật đang bảo hộ mình làm tròn nhiệm vụ. Thần ấy chưa hiện ra một cách rõ ràng, là bởi mình còn thiếu lòng tín ngưỡng và kém phần đạo hạnh. Thần Lẽ Thật sẽ đến cùng ta và cũng đến trước mọi người. Nếu không có Thần ấy ra đời, thì chắc gì chúng ta làm tròn cái sứ mạng đó. Tuy vận hội đã suy, mà vì cộng nghiệp loài người còn to, cơ hủy diệt còn đang trình diễn để phá hoại cái cũ kỹ, và xây dựng cái tương lai mới mẻ, nên Thần ấy còn đang ẩn chờ mạng lịnh. Vậy muốn biết tôn chỉ của Minh lý như thế nào và chương trình sinh hoạt của mỗi người phải làm gì, hãy đi sâu vào các chương lý giải sau nầy sẽ rõ”. Nội dung của Minh Lý Chơn Giải có thể tóm lược như sau:
Lời nói đầu (Lời kêu gọi của Ngài Trần Hưng Đạo Đại Vương)
Chương 1: Định nghĩa chữ Minh Lý Đạo
Nghĩa phổ thông
Nghĩa chiết tự
Nghĩa huyền bí
Chương 2: Nghĩa Tam Tông Miếu
Giải nghĩa hiệu Tam Tông Miếu
Hình thức xây dựng
Thờ phượng
Chương 3: Thành hình Hội Thánh
Thành hình Hội Thánh
Thương đế chủ trương Hội Thánh
Buổi hạ nguyên, Hội thánh là tối cần
Hội Thánh ví như bản thân con người
Hội thánh ví với Đạo pháp
Chương 4: Áp dụng phương pháp tu thân và độ thế
Nghĩa chữ “Công dụng”
Công dụng của ba chương 1, 2, 3
Chánh pháp tu thân và độ thế
Công dụng cứu cánh là Phản bổn hườn nguyên
Chương 5: Kết thúc
Và Ngài kết luận: “… Bổn phận của nền giáo lý mới không lập một pháp gì khác hơn là kết tinh giáo lý, học thuyết Đông Tây kim cổ làm một chương trình để tự tu, tự độ, mà độ dẫn loài người. Cái tinh ba thuần nhứt đó được qui tựu, trở thành một tổ chức dung hòa, mà sứ mạng của chúng ta có bổn phận tiên phong, dọn đường cho một Đấng Quyền pháp trọn lành đến sau. Đấng ấy đủ ân oai chận đứng được nỗi thống khổ đang diễn hành, và cảm hóa được lòng người trở về cùng chơn lý đồng nhứt. Quyền ấy, pháp ấy đã trao cho các hiền một phần để lập công, để gây thiện duyên cùng nhơn loại và để nương đó mà phản bổn huờn nguyên”.
- ĐẠO HỌC CHỈ NAM
Đây là thời kỳ thứ ba (1965-1975) là thời kỳ khai cơ giáo pháp ngõ chuyển cơ thành Đạo. Bước qua năm Mậu Thân (1968), Đức Trần Hưng Đạo Đại Vương hiệp với Ngài Vạn Hạnh Thiền Sư giáng bút truyền một bộ Kinh là “Đạo Học Chỉ Nam”, do Ngài Định Pháp Minh Thiện kết tập, gồm có Thánh Tựa và năm chương:
Thánh Tựa của Đức Thái Thượng Lão Quân.
“Từ ngàn xưa, vấn đề Đạo học, kinh điển Đông Tây kim cổ bàn giải rất nhiều, tưởng cũng đủ cho người tham khảo lãnh hội chỗ chí Đạo chí Chơn, tìm phương giải thoát cho con người đạt đến cõi bất sinh bất diệt. Nhưng các kinh điển ấy, hoặc vì dụng ý của cổ nhơn, hoặc vì thời gian, hoàn cảnh và trình độ con người, hoặc vì văn tự mỗi thời đại diễn tả khác nhau, chưa đủ làm thỏa mãn cho sự lãnh hội giữa buổi gặp mặt năm châu bốn biển ngày nay, để tài thành một phương châm tổng hợp giữa Đạo học và Khoa học, giữa Tâm học và Vật học, tạo nên một thế cộng đồng sinh hoạt cho con người. Vì vậy, “ĐẠO HỌC CHỈ NAM” ra đời, cốt yếu vạch ra một lối tiến đồng nhứt về Đạo học, hòng góp phần thực thi sứ mạng ấy”. Cũng ước mong sao người đời thức tỉnh, biết rõ Đạo là sự thật bất phân, đâu đâu cũng là lẽ Một, mà cùng vun bồi nền đạo đức, không còn thù hằn ghen ghét nữa, thì mới mong an hưởng cảnh an lạc thái bình. Vì đời đang hồi mạt kiếp, cõi trần hườn xáo trộn, nhơn dân tai nạn, giặc giã triền miên, Trời Phật động lòng từ bi cho xuống thế gian bộ kinh “Đạo Học Chỉ Nam” để độ dẫn chúng sanh. Ai thức tỉnh thi hành theo đó, thì tự nhiên sẽ đặng tai qua nạn khỏi, an hưởng phước lành. Bằng ai tu đúng mức, thì sẽ thành Tiên tác Phật, hiệp đức cùng Trời là mục đích cứu cánh. Trước hết, xin giải nghĩa bốn chữ hiệu sách “Đạo Học Chỉ Nam”. Đạo học với nghĩa gần của nó là: chỉ dẫn cho loài người nói chung, cho Minh Lý nói riêng, thấy bản thể của Trời Đất, bản tánh của con người, bản năng của vạn vật. Ba thứ đó đều do một nguyên lý phát xuất mà thôi. Nguyên lý đó gọi là: ĐẠO. Còn Học đây có nghĩa là noi theo lời Kinh dạy, ngõ hầu đồng hóa, hiệp nhứt cùng Đạo. Chỉ Nam là cái la bàn (boussole) định hướng cho người hàng hải (đi biển) khỏi phải lạc hướng sai đàng. “Đạo Học Chỉ Nam” chỉ Bản thể cho người tìm học Đạo. Đạo nầy, các sách xưa đặt nhiều tên khác nhau, nhưng giờ đây Đạo Học Chỉ Nam gọi là “Bản nguyên sơ thỉ”, là Đạo, là Trời. Sách có năm chương.
Đó là:
Chương thứ nhứt: Vũ trụ nhứt nguyên;
Chương thứ nhì: Nhơn sanh nhứt quán;
Chương thứ ba: Đạo pháp nhứt đơn;
Chương thứ tư: Dung hòa nhứt lý;
Chương thứ năm: Tổng luận.
Cuối cùng được Tam Giáo Tổ Sư ban ơn chứng minh và chư Đại Tiên tóm tắt ý nghĩa, chuẩn phê ngày làm lễ hoàn Kinh. Đạo Học chỉ Nam cùngMinh Lý Học Thuyết, Minh Lý Chơn Giải là nền tảng giáo lý mà Ơn Trên đã ban cho, Ngài Định Pháp Tổng Lý Minh Thiện kết tập đã dung hòa, tổng hợp, để môn sanh của Minh Lý Đạo tu học và xây dựng Hội thánh theo đúng chơn truyền chánh pháp theo đường lối của Ơn Trên. Trong phần cuối của Bửu Kinh Đạo Học Chỉ Nam có phần “Tổng yếu của Đức Đông Phương Lão Tổ” như sau: THI ĐẠO HỌC CHỈ NAM phép nhiệm mầu, Chơn truyền một quyển rộng và sâu. Con đường nhập Thánh đà minh định, Mở cửa huyền quan một điểm đầu.
GIÁO LUẬT MINH LÝ ĐẠO
THỰC HÀNH GIÁO LUẬT MINH LÝ ĐẠO Luật đạo có Giới Luật và Hình Phạt, Tứ Đại Điều Qui và Nhị Thập Tứ Điều. Chiếu theo Thánh ngôn ngày 20 tháng 8 năm 1928, đạo Minh Lý có lập thành các cấp tu (phẩm trật chức sắc) như sau: { Hướng tịnh sư - Hữu tâm hướng Đạo { Tín đồ { Chí tịnh sư - Thành tâm hướng Đạo { Môn sanh { Tâm tịnh sư - Ngôn chánh thuận Đạo - { Thanh tịnh sư - Ngôn hạnh hiệp Đạo - { Khiết tịnh sư - Khiết kỷ tu thân, { Giáo sư { Vĩnh tịnh sư - Tâm tịnh ngộ Đạo, - { Siêu tịnh sư - Tham thấu thiền Đạo - { Giác tịnh sư - Viên chứng liễu đạo { Giáo Tổ Ngay mỗi chức sắc được chỉ đại lược công phu nhứt định. Vậy mỗi chức sắc phải coi theo đó mà làm cho đúng theo chức phận của mình. Giới luật Hình phạt. Cuốn Sa-di Luật Nghi có nói “Nghi tiên học luật, hậu học tu đa-la, bất đắc vi việt”. Nghĩa là: Trước phải học luật, sau học kinh điển, chẳng nên làm ngược hay là vượt bực. Nho gia lại nói: “Tiên học lễ nhi hậu học văn”. Nghĩa là: Trước học lễ, rồi sau học chữ. Đủ thấy luật và lễ là nền tảng của các nhà giáo dục, dầu cho người trong đạo hay ngoài đời, đều cũng phải như thế. Vậy chúng tôi há dám không để ý đến sao? Cuốn Giới Luật - Hình Phạt chia ra làm hai phần: a) Giới Luật
Luật tu tại gia
Tín đồ - Người tín đồ của đạo Minh Lý phải ăn chay 6 ngày và giữ đủ năm giới cấm (phần đại lược), như sau:
Cấm sát thương nhơn mạng,
Cấm trộm cấp, gian tham, sang đoạt,
Cấm tà dâm (gần người không phải vợ chánh thức),
Cấm nói dối, chưởi rủa, xúi giục,
Cấm uống rượu mạnh, hay là hút nha phiến.
Môn sanh - Hàng Môn sanh là người tu tại gia, ăn chay hoặc 6 ngày, hoặc 10 ngày, hoặc tam nguơn, trường trai càng tốt. Phải học và hành chương trình học hiệu của đạo Minh Lý và giữ năm giới cấm đầy đủ như sau:
Sát sanh,
Thâu đạo,
Tà dâm,
Ẩm tửu
Vọng ngữ,
Nghĩa là đúng theo nghĩa định trong cuốn Giới Luật - Hình Phạt, do Bề Trên phê chuẩn ngày 15 tháng 9 năm Tân Vì (Tân Mùi)
Luật tu xuất gia
Giáo sư và môn sanh - Hàng Giáo sư là người tu xuất gia (luật buộc) đều phải ăn chay trường, tự tu và dạy Môn sanh theo chương trình học hiệu của đạo Minh Lý và giữ mười giới cấm, nghĩa là: năm giới cấm của Môn sanh nói trên và thêm năm giới cấm khác như sau đây:
Bất trước hoa mạn, bất hương đồ thân (chẳng đặng dùng để trang sức, hay là son phấn, dầu thơm).
Bất ca vũ xướng kỵ, bất vãng quan thính (chẳng đặng ca múa hát xướng và cũng chẳng đặng đến nghe xem)
Bất tọa cao quảng đại sàng (chẳng đặng ngồi chỗ cao sang rộng lớn, là vật sơn son thếp vàng, chạm trỗ và dùng đồ tế mỹ).
Bất phi thời thực (chẳng đặng ăn sái giờ, ba bữa sớm mơi trưa, chiều mà thôi, chớ chẳng phải lúc nào ăn cũng được)
10. Bất tróc trì kim ngân bửu vật (chẳng đặng cất giữ trong mình của riêng: như bạc vàng, vật báu). Hàng Môn sanh xin xuất gia cũng phải giữ luật y như bậc Giáo sư nói trên, trừ những việc như dạy học và việc khác khiến không đủ sức thi hành thì được miễn. Hạng xuất gia phải giữ các giới cấm ghi trong cuốn Giới Luật - Hình Phạt nói trên. b) Hình phạt 1. Các thứ hình phạt Ai phạm các giới luật nói trên thì phải chịu hình phạt. Người phạm tội có nặng nhẹ, cố ý hay là vô ý, … khác nhau, mà hình phạt phải chia ra nhiều thứ, tùy theo tội phạm, để trừng trị. Có sáu hình phạt là:
Quở trách,
Quì hương,
Nhìn kiếng trong phòng,
Nhìn kiếng giữa công chúng,
Giáng cấp hay là cấm dự các lễ trong 6 tháng,
Trục xuất.
Phàm trong ba tháng, kể từ ngày chịu phạt, mà tái phạm thì hình phạt sẽ nhắc lên cao hơn một bực. Như đang phần phạt số 1, thì phải chịu số 2; đang phần phạt số 2, thì phải chịu phần phạt số 3, đang phần phạt số 3, thì phải chịu phần phạt số 4. Phàm trong sáu tháng, kể từ ngày chịu phạt mà tái phạm cũng chịu tội. Đang chịu hình phạt số 4, và số 5 thì sẽ nhắc lên cao hơn một bực. Lại cũng có tình trạng giảm khinh. Tuy phần phạt đã định mà người cầm quyền xử đoán, xét kỹ rồi giảm xuống một bực hay là tha bổng (trường hợp tam hựu nói sau). 2. Quy định thực hiện (theo Hiến chương) Chức sắc, chức việc, môn sanh Minh Lý Đạo vi phạm Hiến chương, Luật lệ hay giới qui của Minh Lý Đạo, tùy theo mức độ và hoàn cảnh vi phạm sẽ bị xử lý theo giới luật của Đạo. Chức sắc, môn sanh có hoạt động và hành vi vi phạm pháp luật thì Hội Thánh sẽ xử lý theo mức độ vi phạm hoặc Hội Thánh sẽ đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý theo pháp luật. Cá nhân là chức sắc ở các cấp bậc, giữ cương vị trong: Hội Đồng Hội Thánh, Viện Bảo Đạo, Viện Hành Đạo … nếu bị mất quyền công dân đương nhiên sẽ mất chức vụ đang đảm nhận. Các cấp tu từ Hướng Tịnh sư/cô đến Thanh Tịnh sư/cô khi vi phạm giới luật, qui điều thì Hòa giải Vụ đảm nhận giải quyết. Nếu lỗi vi phạm xét thấy phải cách chức, bãi nhiệm, hạ cấp phẩm… hoặc trục xuất khỏi đạo thì Hòa giải Vụ trình lên Viện Hành Đạo xem xét đề nghị biện pháp rồi trình lên Hội Đồng Hội quyết định.
- GIỚI LUẬT - HÌNH PHẠT
“Giới luật – Hình phạt” là cuốn sách quy định các quy tắc trong hoạt động tu hành của tín đồ và môn sanh Đạo Minh Lý. Sách được lập từ năm 1931, có hai phần:
Giới luật: Gồm những quy định, quy tắc mà mỗi tín đồ, môn sanh Minh Lý phải tuân thủ trong tu hành và cuộc sống. Luật rất cần yếu cho kẻ tu hành, người mới theo Đạo, trước hết phải lo học luật đặng tập sửa tánh tình, câu thúc phàm tâm lần lần, hầu một ngày kia, người tu hành mới mong đạt tới cõi chí thiện.
Hình phạt: Là những quy định đặng trừng trị tội người vi phạm trong thực hiện Giới luật.
Cuốn Giới Luật nầy, căn cứ theo các bậc chức sắc của Đạo MINH LÝ mà lập ra, tùy theo phẩm cấp mà định luật, buộc vào Hình Phạt. Hễ chức sắc càng cao chừng nào thì luật lệ lại càng ép buộc thêm chừng nấy. Trách nhiệm càng lớn chừng nào thì Hình Phạt lại càng nghiêm khắc chừng nấy. Cuốn “Sa di luật nghi” của nhà Phật có nói rằng: “Nghi tiên học luật, hậu học tu đa la, bất đắc vi việt”. Nghĩa là: Phải trước lo học luật, sau mới học kinh điển, chẳng đặng trái ngược hay là vượt bực. Người đời nay nghe lời dặn thâm thiết của Thánh Hiền xưa như vậy, ghi nhớ trong trí não, mà tuân hành luật pháp cho chín chắn. Theo thời gian, vào các năm 1947, 1953 “Giới luật và Hình phạt” được sửa chữa, bãi bỏ một số điều không còn phù hợp thực tế và bổ sung một số điều.
CÁC PHẨM CẤP CỦA ĐẠO MINH LÝ
PHẨM I: TÙNG SƯ (gồm bậc Tín đồ và Môn sanh) TÍN ĐỒ: Chức sắc là Hướng Tịnh Sư/Cô (tức là Hữu Tâm Hướng Đạo). Đây là những người mới nhập môn vào đạo. MÔN SANH: Chức sắc là Chí Tịnh Sư/Cô (Thành Tâm Hướng Đạo). Tâm Tịnh Sư/Cô (Ngôn Chánh Thuận Đạo). Thanh Tịnh Sư/Cô (Ngôn Hạnh Hiệp Đạo). PHẨM II: CHÁNH SƯ (bậc GIÁO SƯ) Gồm các chức sắc: Khiết Tịnh Sư/Cô (Khiết Kỷ Tu Thân). Vĩnh Tịnh Sư/Cô (Tâm Tịnh Ngộ Đạo). Siêu Tịnh Sư/Cô (Tham Thấu Thiền Đạo). Phẩm hàm nầy được chọn trong hàng Siêu Tịnh Sư, để điều hành Đạo. PHẨM III: TỔ SƯ (ĐỊNH PHÁP - TỔNG LÝ) Chức sắc: GIÁC TỊNH SƯ (tức là Giác Hạnh Viên Mãn). Bậc GIÁC TỊNH SƯ đứng đầu chư vị trong Hội đồng Hội Thánh và cai quản mọi việc trong Đạo. PHẦN I. GIỚI LUẬT Gồm năm chương, 108 điều lớn. Chương I dành cho bậc tín đồ, có mười hai điều về năm giới cấm: sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngữ, ẩm tửu và hút ma túy. Bậc tín đồ ăn chay sáu ngày một tháng. Chương II dành cho bậc môn sanh, giữ năm giới cấm, trong đó có mười ba điều (chín điều thuần cho hàng môn sanh và ba điều dành cho môn sanh xuất gia. Bậc môn sanh tùy theo cấp bậc sẽ ăn chay: 10 ngày (Chí Tịnh); 10 ngày + Tam nguơn (Tâm Tịnh); trường chay (Thanh Tịnh và môn sanh xuất gia). Chương III dành cho bậc Giáo sư, có bảy điều quy định, bậc này giữ mười giới cấm gồm năm giới chung các bậc và năm giới riêng của bực Giáo sư. Chương IV dành cho Bình Nghị Viên, giữ 58 giới cấm của Bồ Tát thừa (10 giới cấm + 10 trọng giới + 48 khinh giới). Giới luật của bậc Tổ Sư được qui định tại một quyết định riêng. Chương V. Quy định chung về thực hiện các hoạt động:
Lễ cúng tế,
Đối với các tôn giáo khác,
Giữ gìn luật pháp thế gian,
Xuất gia nhập tự,
Lễ bái tu học,
Nằm ngồi,
Đi đứng,
Ăn uống,
Y phục,
Cư xử
Chuyện trò,
Thứ tự, xử đoán,
Thăm viếng,
Bịnh hoạn,
Tập sự.
PHẦN II. HÌNH PHẠT Gồm 3 chương 28 điều lớn. Chương I. Định nghĩa các loại hình phạt. Chương II. Phạm vi, quy định áp dụng hình phạt. Chương III. Các loại hình phạt.
- TỨ ĐẠI ĐIỀU QUI
Năm 1924, MINH LÝ ĐẠO - TAM TÔNG MIẾU được các Đấng Thiêng Liêng khai lập tại Sài Gòn. Năm 1925, các Ngài ban cho môn sanh Minh Lý bài kinh TỨ ĐẠI ĐIỀU QUY, là bốn điều quy định lớn về tư cách đạo đức, cách đối nhân xử thế trong cuộc sống, trong tu hành. Các Ngài truyền dạy rằng bài kinh TỨ ĐẠI ĐIỀU QUY được ban bằng văn vần tiếng Việt để Minh Lý môn sanh dễ hiểu, dễ nhớ và thực hành đúng. Minh Lý môn sanh phải lập thệ tuân hành, ngày ngày tụng niệm, khắc khắc kỉnh vưng, dẹp lui lục tặc, trừ dứt thất tình, lập công bồi đức, tiêu hết nghiệt oan, thì mới khỏi phạm luật Trời rất nghiêm. Minh Lý môn sanh phải thuộc nằm lòng, luôn nhắc nhở tâm mình lấy đó làm khuôn phép để trau dồi tâm chí phẩm hạnh, diệt lần các tội xấu, tự rèn luyện mình trong cuộc sống, làm việc và cư xử cho đúng đạo lý, xứng đáng là học trò Tiên. Từ đó, Minh Lý môn sanh luôn tụng niệm bài kinh này vào thời cúng buổi sáng và thực hành lời răn dạy của các Đấng Thiêng Liêng, ráng tập sửa mình cho ngày càng hoàn thiện hơn. TỨ ĐẠI ĐIỀU QUY Họ… … tên … … thành tâm lập thệ, Đệ nhứt điều tuân lệ Phật Tiên. Kỉnh người trên, vưng thửa dạy truyền, Mến kẻ dưới, lòng nguyền điều hộ. Việc cư xử, noi theo pháp độ, Lòng từ hòa, ái mộ người đời. Sửa mình ngay, giảng giáo đạo Trời, E phàm tục, còn nơi sai thố. Nghe người biết, chỉ phân dạy dỗ, Mau ăn năn, tỉnh ngộ tiền phi. Đối đãi đời, thấy quấy bỏ đi, Tuân huấn giáo, tội thì tiêu rỗi. Chẳng nệ nhọc, khuyên người tránh lỗi, Trên Phật Trời giảm tội ghi công. Hai là tuân Tam Giáo Điều Qui, Năng kiệm dụng, chẳng khi lãng phí. Biết tiện tặn là bòn phước quí, Bày việc chi xét kỹ thị phi. Phòng ngày sau tai biến không kỳ, Tánh kiêu ngạo khinh khi chừa cải. Liều công khó giúp tròn nhân ngãi, Noi Thánh Hiền lời dạy đâu sai. Không kể công, khoe giỏi, rằng tài, Đừng thù chạ, ẩn mai người phải. Điều thứ ba, tiền tài xem xét, Sổ sách đều biên chép rõ ràng. Chẳng chút lòng khi dối ẩn man, Đừng tiêu ít, ghi gian thêm thiếu. Lòng chẳng khá thâu đa nạp thiểu, Một mảy lông chớ chịu tiếng tà. Đối đãi nhau, lớn nhỏ thuận hòa, Trên dạy dưới, lễ ra nghiêm chánh. Nhỏ can trên, chớ buông tâm tánh, Gìn cho tròn Đạo Thánh đừng hư. Ngày xét xem lỗi dữ cải trừ. Noi Hiền Thánh khư khư giữ vẹn, Đặng sửa giồi tâm đức thuần quen. Bốn, tránh đừng diện thị bối phi, Trước mặt người giả bộ kỉnh vì. Sau lưng lại khinh khi chẳng nể, Chớ nham hiểm, thấy người tồi tệ. Ngồi nhắm xem, không kể sửa ngăn, Gìn tấm lòng, giữ mực thăng bằng. Chẳng thiên vị, mới rằng công chánh, Đừng bày của tư riêng lường gạnh. Sanh lòng tà ngoan ngạnh người trên. Kẻ dưới quyền, hiếp chế sao nên. Lời ngay thẳng, nói lên rằng vạy. Miệng chuốt ngót, giục người làm quấy, Tánh sân si lừng lẫy dọc ngang. Trái qui điều, sét đánh hồn tan. Đọa mạt kiếp, khôn toan chuyển thế. Ngài Định Pháp Tổng Lý Minh Thiện đã giảng nghĩa TỨ ĐẠI ĐIỀU QUY của Minh Lý Đạo như sau: “Điều quy là gì? Ấy là đường thẳng lên cõi Thiên đường, là phép hay vượt miền Địa ngục. Học Thánh, học Hiền không điều quy chẳng vững; độ mình, độ thế, không điều quy khó thành. Đó là một cái bè để vớt chúng sanh khỏi chốn trầm luân bể khổ. Bởi nhiều kẻ còn mê muội, không thông Đạo lý, vọng tác vọng vi, cho nên Tiên Phật đinh ninh chỉ bảo phải tuân điều quy của Tam giáo là vậy. Tam giáo là ba mối đạo Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Ba vị Giáo chủ là: Văn Tuyên Khổng Thánh, Tây Phương Phật Tổ, Thái Thượng Lão Quân. Ước mong người tu đồng tâm cộng đức, hiểu rõ huyền cơ, suốt thông chí nghĩa, triệt để tuân theo điều quy mà tu hành, thì sẽ chắc chắn thành kỷ thành nhơn, thành chung thành thỉ, có ngày thành công đắc quả, chứng bực Phật Tiên”. Bài kinh được dạy bằng tiếng Việt, rất dễ hiểu. Sau đây, xin tóm lược phần giảng nghĩa của một số từ: Điều thứ nhứt: Thành tâm lập thệ nghĩa là hết lòng thành thiệt hứa nguyện với Trời Phật sẽ làm y theo như lời dạy. Thử xem các vị Tiên Phật thuở trước có ai không nhờ thệ nguyện mà đặng thành chăng? Cho nên người tu trước phải thệ nguyện làm tin, rồi sau mới vững lòng mà hành Đạo. Nhưng trước khi thệ nguyện, ta cần phải xét nét cẩn thận, chẳng nên làm liều, e có chỗ hối hận về sau. Tuân lệ Phật Tiên, nghĩa là: Y theo điều lệ của Phật Tiên lập ra, cùng là lời Tiên Phật dạy bảo, hoặc có ghi trong kinh sách xưa nay, hoặc mới giáng bút sau nầy. Người trên là ai? Ấy là người có phẩm vị cao theo phần đạo đức, là người chấp chưởng quyền hành của Tam Giáo Tổ Sư, nối truyền tâm pháp, thế Trời khai đạo, phổ cứu quần sanh, hành công tế thế, tu đức xuất thế, làm gương cho hậu học, thức tỉnh người mê, là người mà trên trời dưới đất ai ai cũng đều kỉnh trọng. Dạy truyền là chỉ dẫn người nam nữ ở thế gian, bỏ tà về chánh, trừ quấy học phải, xiển minh chánh giáo, nói rõ nhân duyên sanh tử quả báo, cùng là cách giữ quy giới thế nào cho tinh nghiêm, tu hành sao cho đúng đắn. Kẻ dưới là người có phẩm vị thấp hơn hoặc người mới vào đạo, nên hư chưa rõ. Người trên phải thương mến kẻ dưới, trông nom nhắc nhở dìu dắt kẻ dưới, hết lòng chỉ bảo mọi điều cho người dưới biết tội lỗi mà tránh xa. Lòng từ hòa nghĩa là: Người trên phải có dạ nhân từ, xót thương kẻ dưới, còn kẻ dưới phải kỉnh vì người trên, chẳng nên sanh lòng tật đố, tranh giành. Ái mộ người đời, nghĩa là: Phải coi thiên hạ như một nhà, cả nước như một người, yêu mến như bà con, như thân thể mình vậy. Tình thân ái rất quan trọng, bỏ nó ra ngoài, thì các đức tánh khác không đủ sức mà làm việc chi nữa được. Sửa mình ngay là làm thế nào? Là noi theo điều quy mà sửa mình: vạy đổi ra ngay, tà hóa thành chánh, thân tâm trong sạch, cử chỉ mực thước. Người nào sửa mình ngay rồi, thì ai lại không cảm phục? Có cảm phục thì người ta mới vưng theo lời dạy. Vì xưa nay chưa từng có ai mình chẳng chánh, mà sửa người được chánh. Sách Đại Học nói: “Muốn tề gia trị quốc, thì trước phải chánh tâm tu thân”, là cũng vì lẽ đó. Tiền phi là lỗi mình phạm trước kia. Hễ biết lỗi thì phải chừa. Chừa chẳng phải nội trong lúc đó mà thôi. Phải y theo lời dạy bảo đó luôn luôn, thì tội lỗi kia tự nhiên tiêu rỗi. Nếu đã biết điều lỗi đó rồi, mà thấy người khác phạm, thì phải chịu nhọc mà khuyên lơn. Chớ thấy khó mà ngã lòng. Đã khỏi tội lại đặng ban ơn, vừa độ mình lại vừa độ thế, người làm nên cả hai việc đó, thì có chi vui bằng. Kệ rằng Hòa dưới, vưng trên, lễ chẳng ngoa, Giữ gìn qui củ, Đạo truyền ra. Sửa mình dạy chúng, lòng không hổ, Hạnh đủ, công đầy, gặp Thích Ca. Điều thứ nhì: Bòn phước quí là sao? Phải hiểu rằng một sợi tơ, một hột thóc, cũng là ân đức của Trời ban, công sức của người, vật để làm ra rất nhiều. Vì vậy, cần phải cần kiệm trong mỗi việc tiêu xài, việc nào cũng liệu vừa đủ dùng thì thôi, chớ không nên hoang phí. Nhất là người có trách nhiệm sử dụng tiền của chùa, của chung, dầu cho một đồng, một ly nếu không có ích cho Đạo, thì chớ nên xài. Xài phí như thế là tự gây tội lỗi cho mình chẳng phải nhỏ. Bớt đi một phần lãng phí, thì sẽ có điều kiện làm thêm được một phần phước thiện. Đừng thù chạ, nghĩa là: đừng sanh lòng ganh ghét. Ẩn mai nghĩa là che lấp, vùi chôn. Ẩn mai người phải là cậy thế thần vùi dập những người đạo đức, những người tài giỏi, làm cho người ta không thể tiến thủ, luống mất một đời, chung cuộc không thành việc chi cả. Ẩn mai hiền lương là một đại tội ác, cho nên Trời rất ghét. Kệ rằng Bòn phước kiệm dùng, lợi chúng sanh, Sửa mình hòa nhã, chẳng khoe danh. Cử người hiền đức, công vô lượng, Đại Thánh, đại Hiền dễ đặng thành. Điều thứ ba: Khi dối là khi trá, dối giả. Ẩn man là dấu đút, khỏa lấp. Nếu lạm dụng của công, dầu một phân hào, cũng là trái điều quy, cũng là phạm Thiên luật. Can là khuyên ngăn cho người quấy hồi đầu. Như người trên có lầm sai, thì kẻ dưới được noi theo đạo luật, điều qui mà can gián. Chớ không được buông lung tâm tánh, dùng lời khiếm nhã, chẳng đặng lớn tiếng lớn lời trước mặt thiên hạ. Sửa dồi tâm đức thuần quen, là khuyên mọi người, ngày ngày phải xét mình, ráng chừa bỏ lỗi cũ, hằng thể lòng Trời Đất háo sanh, học chí Thánh Hiền cứu kiếp. Giữ y như vậy cho lâu ngày, thì tâm đức đặng thuần quen, tự nhiên theo lẽ chánh. Kệ rằng Không riêng, cứ thẳng, hiệp lòng Trời, Tế độ xưa nay để tiếng đời. Trái phép, hư danh, Trời Phật ghét, Sa vào Địa ngục khổ vơi vơi. Điều thứ tư: Diện thị bối phi: diện là trước mặt; bối là sau lưng, thị là phải, phi là trái, quấy. Nghĩa là khuyên mọi người tránh việc ở trước mặt người nói là phải, mà sau lưng họ lại cho là quấy; đừng trước mặt người chịu vưng lời, mà sau lưng họ lại làm trái. Cũng đừng trước mặt người làm bộ kính nể, mà sau lưng họ lại chế diễu, khinh khi. Người tồi tệ là người làm việc không đoan chánh, làm cho nhơ danh Đại Đạo. Nếu ta thấy có kẻ tồi tệ, chớ nên để vậy mà xem, đem lòng sâu độc cười thầm, mà không tìm phương cứu chữa. Đây nhắc lại: Hễ người trên tồi tệ, thì kẻ dưới phải lấy điều qui mà nhắc nhở, nhỏ nhẹ khuyên can. Còn kẻ dưới tồi tệ, thì người trên phải lấy lễ nghĩa, là gồm dụng cang nhu để sửa trị. Trên dưới đồng một đức, thì có làm việc chi mà không thành? Nếu ta không lo cứu chữa, dễ sanh hậu hoạn, phải liên lụy cả đoàn, thì tội kia chẳng phải nhỏ. Thăng bằng là chỉ cái cân hai đĩa, một bên để món vật phải cân, một bên sắp trái cân. Khi cân, giữ hai bên ngang bằng với nhau thì gọi là thăng bằng. Người tu hành phải giữ lòng mình y như cái cân thăng bằng đó, nghĩa là phải giữ mực công bình, chánh trực, chẳng nên tư vị bên nào. Sanh lòng tà là cứ theo ý tứ riêng của mình, chẳng tuân điều quy là lẽ chánh. Đối với người trên thì ngoan ngạnh, nghĩa là ngỗ ngang, tự cao tự đại, chẳng gìn lòng trung kỉnh. Kệ rằng Bốn điều giải nghĩa đã phân minh, Thành kỷ, thành nhơn, phép rất tinh. Vạn pháp diễn thành văn Việt ngữ, Phụng hành thường bữa, quỉ thần kinh.
- NHỊ THẬP TỨ ĐIỀU
TỔ CHỨC HỘI THÁNH MINH LÝ ĐẠO - CÁC CƠ QUAN TRỰC THUỘC
HỘI ĐỒNG HỘI THÁNH
Hội Đồng Hội Thánh ban sơ được lịnh TAM GIÁO ban truyền cho Minh Lý thành lập bộ máy hành pháp. Mục đích để Hội Thánh Minh Lý sớm được thành hình cơ cấu điều hợp với Thiên nhơn. Quyền pháp phải minh định cho các ban, các ngành, các nhơn viên phụ tá và điều hành để có một sự thống nhứt. Hội Đồng Hội Thánh quyết định đường lối, lập trường và giải quyết mọi vấn đề quan trọng. Hội Đồng Hội Thánh ban đầu gồm có các thành phần: Pháp Chủ, Tổng Lý, Chủ tịch Nữ giới, Chủ Trì và Chủ tịch Tư Dưỡng sở. Chủ tịch Hội Đồng là Tổng Lý. Thơ ký là Chủ Trì và các Hội viên nghị sự. Dần về sau, Ơn Trên điều chỉnh cơ cấu Hội Đồng Hội Thánh như hiện nay. Cơ cấu tổ chức của Hội Đồng Hội Thánh - Hội Đồng Hội Thánh là tổ chức đại diện cho Minh Lý Đạo - Tam Tông Miếu trong việc liên giao với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức tôn giáo và tổ chức xã hội khác. Hội Đồng Hội Thánh ủy quyền cho Ban Quản trị là tổ chức thường trực của Viện Hành đạo thực hiện nhiệm vụ hành chánh của Hội Thánh. Cơ sở đạo là tổ chức thuộc Hội Thánh Minh Lý đạo Tam Tông Miếu do Hội Đồng Hội Thánh và Viện Hành đạo hướng dẫn hoạt động. Các vị thành viên của Hội Đồng Hội Thánh là các vị chức sắc cấp cao, được duyệt chọn, giới thiệu với toàn thể môn sanh và thiết Đàn tại Chánh điện, thượng sớ tấu trình lên Ơn Trên. Các vị trong Hội Đồng Hội Thánh tại vị suốt đời. Số lượng thành viên Hội Đồng Hội Thánh không quá 15 người. Thành viên của Hội đồng Hội thánh là các vị chức sắc:
Định pháp
Tổng lý
Hiệp lý
Chưởng lý/ Chủ tịch nữ giới
Tịnh chủ Bác Nhã Tịnh đường
Một số Vụ trưởng, Vụ phó, Quản lý Chi đạo.
Ngoài ra, Hội Đồng Hội Thánh có các vị cố vấn giúp Hội Đồng Hội Thánh trong các việc hành chánh, tu tịnh theo đạo pháp, được Viện Bảo đạo chấp thuận bậc tu thất chính thức, có cấp đạo từ Thanh Tịnh sư/cô trở lên, có tuổi đời từ 60 tuổi và tuổi đạo từ 20 năm trở lên. Nhiệm vụ và quyền hạn: Hội Đồng Hội Thánh là tổ chức tối cao của nền đạo, có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: 1. Chủ trì các sinh hoạt tín ngưỡng và giữ chơn truyền Đạo pháp. 2. Phê chuẩn những chủ trương, đề nghị hành Đạo trọng yếu của Hội Thánh theo Hiến chương. 3. Quyết định việc thành thành lập cơ sở đào tạo của Hội Thánh theo đề nghị của Viện Bảo đạo và Viện Hành đạo theo quy định của pháp luật. Cơ sở đào tạo của Hội Thánh có tên là Long Hoa Học viện. 4. Xét duyệt và giải quyết các vấn đề, chương trình nghị sự từ Viện Bảo đạo hoặc Viện Hành đạo trình lên, kể cả việc khen thưởng (nêu gương) và kỷ luật trong Đạo. 5. Hướng dẫn toàn thể môn sanh trong việc hành đạo theo chương trình do Đại hội Môn sanh thông qua. 6. Duyệt xét, phê chuẩn những vị chức sắc trong Viện Bảo đạo, Viện Hành đạo và công cử chức sắc, môn sanh. 7. Khen thưởng, ngợi khen và trừng phạt các môn sanh có công hay vi phạm các văn bản luật lệ của Đạo. Hoạt động cụ thể: Hội Đồng Hội Thánh thay mặt Hội thánh điều hành việc Đạo trên nguyên tắc dân chủ, các thành viên thực hiện theo chức năng nhiệm vụ, chịu trách nhiệm trước pháp lý Nhà nước với các hoạt động cụ thể như sau: 1. Thực hành chức năng nhiệm vụ theo quy định, điều hành các công việc của Viện Bảo Đạo, Viện Hành đạo. 2. Chỉ đạo Ban Quản trị thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch của Hội Thánh và liên lạc các cơ quan Nhà nước, chính quyền các cấp và các tổ chức xã hội. 3. Quan hệ với các tổ chức tôn giáo khác. 4. Hướng dẫn các Chi đạo, Cơ sở đạo thi hành chương trình hoạt động của Hội Thánh và tổ chức giải quyết những tâm tư nguyện vọng của chức sắc, môn sanh, tín đồ đề đạt. 5. Hướng dẫn chức sắc, môn sanh, tín đồ hoạt động theo quy định của Hội Thánh, luật pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. 6. Tổ chức xây dựng các chi đạo, các tổ chức trực thuộc Hội Thánh và bổ nhiệm chức sắc quản lý điều hành việc đạo theo giới luật.
VIỆN BẢO ĐẠO
Viện Bảo Đạo (Bảo Pháp) theo Minh Lý Chơn Giải thuộc ngành dọc của Hội Thánh, là ngành nắm trọn quyền pháp tùy mỗi cấp mà phân công. Chưởng quản tối cao là vị Định Pháp Tổng Lý. Ngành nầy căn cứ trên sự bình đẳng, nên các chức sắc đều gọi là Tịnh sư (lấy tịnh mà lập cực). Nhưng trước chữ Tịnh sư lại còn đặt một chữ khác nhau để chỉ về công phu tu tâm dưỡng tánh, tùy trình độ mà định thứ lớp (từ Hướng Tịnh Sư/Cô đến Giác Tịnh Sư). Ngành dọc là ngành trực nhập vào cơ mầu nhiệm. Đó là phần đi sâu vào trong Đạo Pháp. Đây là ngành Đạo thống, nghĩa là: Thuộc về thống hệ của Chánh đạo, ròng là Thiên đạo. Cơ cấu tổ chức của Viện Bảo Đạo (theo Hiến Chương) Viện Bảo Đạo được Hội Đồng Hội Thánh lập ra, gồm các vị chức sắc: Định pháp, Tổng lý, Hiệp lý, Chưởng lý/Chủ tịch nữ giới, Tịnh chủ, Vụ trưởng Giáo lý; đứng đầu Viện Bảo Đạo là vị Định pháp/Tổng lý. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Bảo Đạo Viện Bảo Đạo có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: 1. Sưu tập giáo lý, kết tinh thành một chương học thuyết đạo Minh Lý và hoàn thành bộ sử. 2. Hướng dẫn và giám sát các hoạt động của Đạo về mặt đạo pháp. 3. Quản lý việc tiến tu của môn sanh, hướng dẫn môn sanh lập công tu học, hành theo Bát Chánh Đạo, duyệt xét Nội qui tu tịnh huyền công tại Bác Nhã Tịnh đường để giác ngộ và giải thoát. 4. Tổ chức lớp đào tạo, bồi dưỡng về tu tịnh Huyền công. Mở các khóa tu để các chức sắc tu tập tồn dưỡng đạo tâm. 5. Phê chuẩn nhân sự Ban Giám đạo của Bác Nhã Tịnh đường. 6. Đề nghị lên Hội Đồng Hội Thánh thăng thưởng và kỷ luật môn sanh các cấp.
VIỆN HÀNH ĐẠO
Viện Hành Đạo theo Minh Lý Chơn Giải thuộc ngành ngang của Hội Thánh. Ngành ngang là các cơ cấu làm bộ máy sanh hoạt cho Đạo. Chưởng quản tối cao cũng là vị Định Pháp Tổng Lý. Thay quyền Tổng Lý mà quản trị nội bộ là Hiệp Lý. Dưới quyền Hiệp Lý thì còn có Tham Lý, Quản Lý, … Viện Hành Đạo là cơ quan quản lý Cửu vụ, Ban Quản trị và các Chi đạo, Cơ sở đạo. Trên mỗi bộ phận, có một chức sắc làm đầu. Dưới quyền vị nầy, thì tùy tài năng đức hạnh mà đưa vào giúp việc. Đây là ngành chánh thống, nghĩa là ngành thuộc về chánh trị, để quản suất trong Đạo, ròng là Nhơn đạo. Cơ cấu tổ chức của Viện Hành Đạo (theo Hiến Chương) Viện Hành Đạo được Hội Đồng Hội Thánh lập ra, gồm các vị chức sắc: Tổng lý, Hiệp lý, Chưởng lý/Chủ tịch nữ giới, Trưởng Ban Quản trị, một số Vụ trưởng, Vụ phó các Vụ, Quản lý Chi đạo. Số lượng không quá 15 người; đứng đầu Viện Hành đạo là vị Tổng lý/Hiệp lý.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Hành Đạo Viện Hành Đạo thực hiện điều hành các công việc hành chánh của Hội Thánh, thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ, chịu trách nhiệm trước Hội Đồng Hội Thánh và có nhiệm vụ, quyền hạn: 1. Quản lý Ban Quản trị, Cửu vụ, các Chi đạo và Cơ sở đạo. 2. Hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chức trực thuộc Viện Hành đạo thực hiện các nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch của Hội Thánh. 3. Phối hợp với các tổ chức thuộc Hội Thánh để hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn được giao. 4. Tổ chức thực hiện việc chăm lo phương diện hành chánh của Hội Thánh và đề nghị bổ nhiệm chức sắc, chức việc quản lý các tổ chức do Viện Hành Đạo quản lý. 5. Nghiên cứu, đề xuất với Hội Đồng Hội Thánh những chương trình, kế hoạch mới về việc nâng cao hiệu quả thực hiện việc hành chánh của Hội Thánh và đời sống vật chất của chức sắc, môn sanh, tín đồ.
BAN QUẢN TRỊ
Ban Quản trị là tổ chức thường trực của Viện Hành Đạo về hành chánh giữa các kỳ hội nghị thường niên. Cơ cấu tổ chức của Ban Quản trị Viện Hành Đạo triệu tập Đại hội Môn sanh để bầu ra Ban Quản trị. Nhiệm kỳ của Ban Quản trị là 5 năm. Ban Quản trị gồm 5 thành viên chính thức và 2 thành viên dự khuyết. Tất cả thành viên đều từ cấp Tâm tịnh sư/cô trở lên. Ban Quản trị mới sẽ bầu ra Trưởng ban là vị chức sắc từ cấp Thanh Tịnh sư trở lên. Vị Trưởng ban sẽ phân công 01 Phó Trưởng ban (nam), 01 Phó Trưởng ban (nữ) và 2 ủy viên. Hai thành viên dự khuyết được quyền tham dự các buổi họp của Ban Quản trị Hội Thánh nhưng không được quyền biểu quyết. Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Quản trị Ban Quản trị có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: 1. Tiếp xúc với các cấp chánh quyền trong nước để theo dõi và cập nhật các quyết định, chỉ thị có liên quan đến tôn giáo nhằm đưa hoạt động Hội Thánh theo đúng quy định của pháp luật. 2. Soạn thảo và trình Hội Đồng Hội Thánh phê duyệt những vấn đề liên quan đến hoạt động và quyền lợi của Hội Thánh. 3. Tham gia điều đình với các đối tác ngoài xã hội nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền lợi chung của Hội Thánh khi được ủy nhiệm. 4. Trưởng Ban Quản trị chịu trách nhiệm phối họp với Cửu vụ điều hành các hoạt động về hành chánh của Hội Thánh, ký các văn bản liên hệ công việc của Hội Thánh với cơ quan Nhà nước các cấp (khi được Hội Thánh ủy quyền), thực hiện các Quyết nghị, chỉ đạo của Hội Đồng Hội Thánh nh và Viện Hành Đạo. 5. Hướng dẫn chức sắc, môn sanh, tín đồ tu hành đúng quy định của Hội Thánh và pháp luật Nhà nước. Trong điều hành cần bàn bạc, thảo luận với các thành viên trong Viện Hành Đạo để thống nhất ý kiến mới ban hành thực hiện. Những việc trọng yếu của Hội Thánh cần thống nhất để trình Hội Đồng Hội Thánh quyết định. 6. Trưởng Ban Quản trị giải quyết việc đạo có tình, có lý, kịp thời động viên tinh thần các thành viên Ban Quản trị và chức sắc, môn sanh, tín đồ tin tưởng vào Hội Thánh. 7. Ban Quản trị cùng Hội Thánh giữ gìn tình hòa ái và sự tương thông trong mọi sinh hoạt đạo sự.
LONG HẢI NGOẠI
Cơ cấu tổ chức của Long Hải ngoại Do nhu cầu trong việc giữ đạo và hành đạo của các đạo hữu Minh Lý ở nước ngoài, Hội Thánh Minh Lý Đạo có đề nghị thành lập tổ chức Minh Lý Đạo – Tam Tông Miếu tại Hoa Kỳ và được Ban Tôn Giáo chấp thuận vào ngày 22/6/2016. Lãnh đạo Long Hải Ngoại là các vị chức sắc từ cấp Thanh Tịnh sư/cô trở lên, gồm: Quản lý, Phụ tá và thành viên. Số lượng từ 5 người đến 9 người. Quyền hạn và nhiệm vụ Long Hải ngoại là tổ chức thuộc Hội Thánh có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: 1. Quản lý về mặt đạo pháp các Chi đạo ở hải ngoại. 2. Tiếp xúc với chính quyền sở tại về những việc liên quan đến hoạt động tôn giáo của các Chi đạo tại hải ngoại. 3. Chịu trách nhiệm trước Hội Đồng Hội Thánh về việc hướng dẫn chức sắc, môn sanh, tín đồ Minh Lý Đạo tu hành tại hải ngoại theo quy định của Hội Thánh và pháp luật tại nước sở tại. Quản lý Long Hải ngoại có nhiệm vụ, quyền hạn: 1. Chịu trách nhiệm quản lý, điều hành hoạt động của Long Hải ngoại theo quy định của Hội Thánh. 2. Xây dựng chương trình, kế hoạch để thực hiện việc tu tịnh, giữ gìn đạo pháp của chức sắc, môn sanh, tín đồ Minh Lý Đạo tại nước ngoài. 3. Hướng dẫn chức sắc, môn sanh, tín đồ thực hiện việc tu tịnh và thực hiện tốt trách nhiệm báo cáo Viện Bảo Đạo, Hội Đồng Hội Thánh kết quả hằng năm của Long Hải ngoại. 4. Giúp Hội Đồng Hội Thánh quan hệ với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến yếu tố nước ngoài khi được giao.
CỬU VỤ
“Chín Trù ở Chương Hồng Phạm (trong Kinh Thư) cho ta thấy một triết lý nhơn sanh bao hàm thực tại và siêu nhiên”. Thánh ngôn ngày 23-2-1971 Hồng Phạm Cửu Trù rút một phần trong đồ Lạc Thơ để áp dụng vào việc xử thế làm người, Cửu trù bao gồm:
Ngũ hành
Ngũ sự
Bát chính
Ngũ kỷ
Hoàng cực
Tam đức
Kê nghi
Thứ trưng
Ngũ phước, Lục cực.
(Thánh ngôn ngày 26-2-1971). Áp dụng các việc phải làm có ghi trong Cửu Trù, Đạo Minh Lý lập thành Cửu vụ, chính là Cơ quan Hành pháp, hay là Chức sắc ngành ngang. Chín vụ đó là:
Lễ nhạc vụ
Thánh hóa vụ
Hòa giải vụ
Tư dưỡng vụ
Nội chính vụ
Giáo lý vụ
Phước thiện vụ
Ngoại giao vụ
Tài chánh vụ.
Mỗi vụ đảm nhiệm các nhiệm vụ cụ thể sau: 1) Lễ nhạc vụ: a. Dạy lễ nghi, nhỏ là: thị, thính, ngôn, động thuộc về cá nhơn; lớn là: quan, hôn, tang, tế thuộc về tập thể. b. Coi về sớ điệp, lễ nhạc, khi cúng tế tại Chùa hay tại nhà tư. c. Định ngày giờ và sắp đặt các chương trình hành lễ. d. Hiệp với Giáo lý vụ mà kiểm duyệt kinh sách của người trong Đạo viết ra và cho phép xuất bản, riêng kinh sách thuộc về giáo lý của Đạo thì sau khi kiểm duyệt, phải đệ lên cho Định Pháp xét lại và cho phép ấn loát. e. Quan sát phong tục cổ kim, quán thông tình trạng biến di mà đặt kế hoạch, chương trình để ứng thông theo cơ lưu hành của thời thế.
2) Thánh hóa vụ: a. Lo phần hành giáo, định ngày giờ và sắp đặt các chương trình về việc học hành. b. Lo về việc mở trí, dạy Ngũ minh là:
Nội minh,
Nhân minh, cũng gọi là luận lý học (logique),
Thinh minh,
Công xảo minh,
Y phương minh (minh y thuật).
c. Đào luyện nhơn tài, cấp học bổng cho hạng người đủ sức đi học ngoại quốc. 3) Hòa giải vụ: a. Hòa giải mọi sự thắc mắc, bất bình giữa người và người, việc đời và việc đạo. b. Coi về tư pháp để bảo đảm tự do quyền lợi cho mọi người: Xử đoán và định các phần phạt như sau nầy:
Quở trách.
Quì hương.
Nhìn kiếng trong phòng kín.
Nhìn kiếng giữa đông người.
Cấm tham dự các lễ của Chùa trong sáu tháng.
Trục xuất [Tổng Lý hội ý với Nội Chính vụ ra quyết định, sau khi có điều tra vô tư và minh bạch của Hiệp Lý kết luận vi phạm].
c. Đặt sự tương quan, điều hòa các bộ máy, chỉnh tu các cơ cấu của Đạo, để cho thiện dân sống yên ổn theo lẽ Đạo. 4) Tư dưỡng vụ: a. Sắm ăn mặc ngày thường. b. Sắm các món dưng cúng, tiệc tùng ngày lễ. c. Cụ bị các món đồ dùng, như chén dĩa, bàn ghế, mền mùng, văn kiện, … (các động sản). 5) Nội chính vụ: a. Vụ trưởng Vụ Nội chính là Vị Chủ trì/Hiệp Lý quản lý ngành ngang [chính thống] điều phối hoạt động các vụ. b. Ban hành các qui chế , điều lệ và giám sát việc thi hành, duy trì nề nếp trong các hoạt động đạo sự. c. Chăm lo việc chỉnh sửa các hoạt động của Hội Thánh cho hợp lẻ Đạo. d. Hiệp cùng Viện Bảo Đạo ban thưởng cho Minh Lý Môn Sanh tinh tấn trong công quả,công trình,công phu. đ. Giữ các sổ bộ của Đạo [ hộ tịch, nhân viên, bổ nhiệm, thuyên chuyển]. e. Phê chuẩn sổ cách dự toán mỗi năm. 6) Giáo lý vụ: a. Sưu tầm giáo lý (kết tập Thánh giáo, sáng tác giáo khoa). b. Phân phát Thánh giáo và sách kinh của Đạo. c. Xây dựng tài liệu và dạy về lý âm dương, ngũ hành sanh khắc (Kinh Dịch). d. Nghiên cứu kinh sách Tam giáo và tình trạng xã hội, mà đề nghị lên Hội Thánh phê chuẩn những sự canh cải, hoặc bổ cứu giáo lý cho hạp thời. đ. Kiểm duyệt kinh sách của Đạo và của người trong Đạo trước tác cho đúng theo Giáo lý. e. Đào tạo giáo sĩ, giáo chức và phổ thông Đạo lý khắp trong nước nhà. g. Lo phần tiếp khách và trả lời những tìm hiểu và nghi vấn của người ngoài muốn cầu Đạo. 7) Phước thiện vụ: (để lập xã hội đại đồng, tình thương bình đẳng). a. Tương tế, tương trợ (chia sớt mọi khổ với đồng bào) về cứu cấp tai biến, bịnh tật, chết chóc, ...…). b. Coi về ban chẩn khi có nạn đói rét. c. Lập các cơ quan từ thiện xã hội để giúp kẻ quan quả, cô độc, bần hàn, cho có chỗ yên thân, vui sống trong Đạo Pháp. d. Trông nom và giúp đỡ các gia đình của người nhập tự, hiến thân cho Đạo. đ. Nuôi làm con của Đạo những trẻ mồ côi và cho ăn học, để ngày sau làm rường cột cho Đạo. 8) Ngoại giao vụ: a. Đại diện Hiệp Lý lúc vắng mặt hay được uỷ quyền. b. Hiệp với Giáo lý vụ mà xuất du ngoại quốc để truyền bá mối Đạo và điều khiển các nơi đã đặt các chi ngành của Đạo. c. Thay mặt các Vụ, phối hợp với Long Hải Ngoại chăm lo tinh thần các môn sanh ở ngoại quốc, nhứt là các sinh viên do Chùa gởi đi học ở ngoại quốc, … d. Giao thiệp với các chi phái Đạo ở trong, hoặc ở ngoài nước. đ. Tiếp khách lạ đến viếng cửa Đạo và phối hợp với Tư Dưỡng Vụ lo cho người tạm trú ngụ tại Chùa có đủ tiện nghi tối thiểu. 9) Tài chánh vụ: a. Kinh tế (sanh tài), như trồng tỉa, canh tác, làm lịch và bán lịch … b. Công tác: quan sát và phối hợp các Vụ, Ngành đề nghị các việc xây dựng, sửa chữa, trang hoàn trong ngoài cho khan trang, tươm tất của một cảnh Chùa. c. Khai thác vật lý thiên nhiên (tài thành phụ tướng), tạo mọi phương tiện để cho ai nấy cũng có một nghề san sống (đặng yên tâm mà làm tròn bổn phận trong gia đình hoặc ngoài xã hội). d. Coi giữ tài chánh (tiền bạc), ruộng đất, phố nhà (các bất động sản). đ. Mỗi năm, lập sổ Dự toán, kết toán sổ sách chi thu ( rồi đệ lên Nội chính vụ để xin phê chuẩn).
CHI ĐẠO
1. Cơ cấu tổ chức của Chi đạo Chi đạo do Hội Đồng Hội Thánh quyết định thành lập. Lãnh đạo Chi đạo là vị chức sắc từ cấp Thanh Tịnh sư/cô trở lên và do Viện Hành Đạo đề nghị lên Hội Đồng Hội Thánh quyết định. Lãnh đạo Chi đạo gồm: Quản lý Chi đạo, Phụ tá và các ủy viên. Số lượng từ 5 người đến 9 người. 2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chi đạo Chi đạo là tổ chức trực thuộc Viện Hành Đạo có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: 1. Quản lý nhân sự hành đạo tại địa phương. 2. Hướng dẫn và theo dõi các cuộc sinh hoạt, lễ bái tại cơ sở Chi đạo. 3. Chủ trì các sinh hoạt tín ngưỡng tại Thánh miếu địa phương và giữ chơn truyền Đạo pháp. 4. Phổ biến các chương trình hành đạo của Hội Đồng Hội Thánh và Viện Hành Đạo đến chức sắc, môn sanh, tín đồ thuộc Chi đạo. 5. Giúp Viện Hành Đạo nắm vững tình hình đạo sự và nguyện vọng của môn sanh tại địa phương; tạo điều kiện cho các môn sanh tương trợ lẫn nhau.
64. CƠ SỞ ĐẠO
1. Cơ cấu tổ chức của Cơ sở đạo Cơ sở đạo do Hội Đồng Hội Thánh quyết định thành lập. Lãnh đạo Cơ sở đạo là chức sắc từ cấp Tâm tịnh sư/cô trở lên và do Viện Hành Đạo đề nghị lên Hội Đồng Hội Thánh quyết định. Lãnh đạo Cơ sở đạo gồm có Trưởng Cơ sở đạo, Phụ tá. Số lượng từ 3 người đến 5 người. 2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ sở đạo Cơ sở đạo có nhiệm vụ, quyền hạn: 1. Tổ chức thực hiện chương trình hoạt động của Cơ sở theo Hiến chương và giới luật của Hội Thánh. 2. Quản lý chức sắc, môn sanh, tín đồ sinh hoạt tại Cơ sở. 3. Chăm lo hoạt động tu học của chức sắc, tu sĩ tại Cơ sở theo quy định của Minh Lý Đạo và pháp luật Nhà nước
CÁC THÀNH PHẦN GIÁO PHẨM
THỦ TỤC NHẬP MÔNMINH LÝ ĐẠO
Người xin nhập môn Minh Lý Đạo sẽ phải thực hiện các thủ tục sau:
Viết đơn xin nhập môn Minh Lý Đạo, có ghi tên và pháp danh của hai tín đồ giới thiệu.
Lập nguyện đọc một tạng Kinh Cứu Khổ.
Lập nguyện ăn chay ít nhất 6 ngày.
Được hướng dẫn tìm hiểu về Đạo Minh Lý - Giới luật - Thể lệ nhập môn.
Được hướng dẫn tìm hiểu về mục đích, tôn chỉ và lập trường của Đạo Minh Lý.
Hoàn nguyện về việc đọc Kinh Cứu Khổ trước ngày nhập môn.
* Các Tân môn sanh sẽ tề tựu vào ngày Nhập môn đã được ấn định để: - Lễ Cầu siêu cho Ông Bà Cha mẹ quá vãng, sau là dâng sớ thâu nhận vào Đạo, thượng Pháp danh cho các người nhập môn và dự Lễ nhập môn trên Chánh điện. - Lập thệ nguyện, theo mẫu nhứt định và thọ Tam qui Ngũ giới.
* Sau Lễ nhập môn, vị Chủ trì cho mời các Tân môn sanh ở lại hậu đường để nhận:
Kinh sách cơ bản của Đạo Minh Lý
Lá phái cư sĩ.
Dây niệt.
và nghe giải nghĩa rõ Pháp danh của mỗi Tân môn sanh ghi trong Lá phái.
CÁC CẤP TU CỦA MINH LÝ ĐẠO
Trích Minh Lý Chơn Giải: “Cơ quan Bảo pháp hay là Chức sắc Ngành dọc”. a) Thứ tự tu vi. Ngành dọc có tám cấp tu, căn cứ trên bát Chánh đạo của nhà Phật mà thành lập. Theo thời gian liên tiếp luân lưu, thì chư chức sắc đạo Minh Lý sắp theo thứ tự sau nầy: 1. Hướng tịnh sư ------------- Tín đồ 2. Chí tịnh sư + 3. Tâm tịnh sư + Môn sanh 4. Thanh tịnh sư + 5. Khiết tịnh sư + 6. Vĩnh tịnh sư + Giáo sư 7. Siêu tịnh sư + 8. Giác tịnh sư -------------- Giáo tổ Đây xin giải nghĩa tám bực chức sắc nói trên: 1. Hướng Tịnh sư (Hữu tâm hướng đạo) – Người ở đời loanh quanh trong biển khổ, mà đã được dừng chơn, trở lại đường về quê xưa vị cũ của mình, là người đã biết xu hướng về con đường lành, tức là Hướng Tịnh sư, thuộc về Chánh kiến. 2. Chí Tịnh sư (Thành tâm học đạo) – Nhưng hữu tâm hướng đạo chưa đủ, phải lập chí cho vữngvàng, là hết lòng suy xét, lo lường, để chọn con đường thẳng mà đi. Cũng như trong lúc trời mưa mây mù, gió phủ, phải có la bàn để nhắm về bến giác, tức là Chí Tịnh sư, thuộc về Chánh tư duy. 3. Tâm Tịnh sư (Ngôn chánh thuận đạo) – Chí đã lập, lòng lại thành, thì tâm không còn mơ màng vọng tưởng, tự nhiên phát lộ ra ngoài bằng lời nói ngay thẳng, đúng theo lẽ Đạo. Lúc nào tâm khẩu cũng như có một, nghĩa là: Lòng tưởng sao thì nói y ra như vậy, không đổi thay tráo trở, mà luôn luôn chất phác, thiệt thà, có thể cảm hóa lòng người, tức là Tâm Tịnh sư, thuộc về Chánh ngữ. 4. Thanh Tịnh sư (Ngôn hạnh hiệp đạo) – Tâm ý đã thành thiệt, lời nói lại chất phác, thì tự nhiên việc làm đặng chơn chánh. Tới đây ba nghiệp là: Ý, khẩu, thân đều đặng thanh tịnh, thì con người hết gây ra ác nghiệp, thành được mười thiện nghiệp tức là Thanh tịnh sư thuộc về Chánh nghiệp. 5. Khiết Tịnh sư (Khắc kỷ tu thân) – Giữ sự sống cao khiết, không còn là đà trong đám bảy tình, sáu dục khiến sai. Khác nào con chim phượng hoàng bay bổng trên mây xanh, mặc cho đám diều hâu tranh xác chuột chù nơi tha ma uế địa. Chánh mạng sống, vì nghĩa vụ, thì thiên chức được hiển bày, trong lòng lúc nào cũng tư tư lo đường lợi ích chung cho nhơn quần, xã hội, tức là Khiết Tịnh sư, thuộc về Chánh mạng. 6. Vĩnh Tịnh sư (Tâm tịnh ngộ đạo) – Dõng mãnh, bền bỉ, mà gắng lên tu thiền định, nhiệm mầu, dẫu gặp con đường gay go, trở ngại cho mấy có thể hại đến tánh mạng mình đi nữa, thì cũng nhứt tâm nhứt đức, không thối nhượng một bước nào, nên gọi là Vĩnh Tịnh sư, thuộc về Chánh tinh tiến. 7. Siêu Tịnh sư (Tham thấu thiền đạo) – Chẳng những không dấy niệm dữ, mà cũng chẳng còn có niệm lành. Đã quá Tứ niệm xứ đến chỗ vô niệm, mà vô niệm là Chánh niệm, mở rộng con đường Chánh pháp, để cứu độ quần linh. 8. Giác Tịnh sư (Viên chứng liễu đạo) – Đã suốt tận lẽ Trời, đạt cơ mầu nhiệm của Tạo Hóa (tự giác), mà hoằng truyền Chơn lý, giáo hóa chúng sanh (giác tha). Đó là tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn nên gọi là Giác Tịnh sư, đã chứng quả Phật, thuộc về Chánh định (Giáo Tổ). Tám bực chức sắc nầy nhắm vào Bát Chánh đạo mà tu học, lập công. Bát Chánh đạo là tám con đường chơn chánh hành đạo. Con đường nầy của nhà Phật, do Phật Thích Ca dày công tu học mới tìm ra được. Đây là cái thang linh bắc tận cõi Trời, để cho muôn ngàn người nhờ đó mà đặng tiến về cõi trọn lành của Đạo. Mỗi một nấc thang là một chìa khoá mở các cửa bí mật trong thân con người, mà cũng mở thông lối Trời để kẻ sau này tiến lên.
b) Tuyển chọn và quyền hạn Bực dưới hơn hết là người mới nhập môn vào đạo, tức là Hướng Tịnh sư. Hướng Tịnh sư ở dưới quyền hướng dẫn của Chí Tịnh sư. Chí Tịnh sư cũng ở dưới quyền hướng dẫn của Tâm Tịnh sư. Ba cấp nầy đã bắt đầu tu học đạo, nhưng vì còn dính líu với phần đời của Đạo, nên lấy chữ giai(sơ giai, thứ giai, chánh giai) làm thềm bực, tùy giới đức, công quả mà đặng nhắc lên. Nếu trong ba bực nầy có người trỗi đức, xứng công thì bổn đạo nhóm nhau cử lên cấp trên. Người đắc cử được lên Thanh Tịnh sư là bực chuẩn ân, được dự vào hành chánh của Đạo. Từ Chuẩn ân trở lên, tùy theo mỗi bực, mà hành quyền giữ giới. Nhưng Chuẩn ân muốn lên Thiên ân phải do khoa mục mà tuyển chọn. Khoa mục nhắm vào các nguyên tắc chính của đạo Minh Lý (Học Thuyết Minh Lý), nghĩa là phải thông thạo giáo lý, đạo pháp và luật lệ, tùy theo chương trình giáo khoa, cộng chung với điểm hạnh nết và công đức. Chư Thiên ân thuộc ba cấp giáo sư có quyền chấp sự trong Hội Thánh, được dự các hội nghị của Đạo chế giảm luật lệ, nhưng cũng theo khoa cử mà tấn thăng các cấp bên dưới. Các chư Thiên ân này còn có quyền tranh cử vị Giáo Tổ, tức là Phật ân. Mà muốn lên ngôi Giáo Tổ, phải được ba cấp Giáo sư công cử, thắng phiếu thì được, khỏi cần khoa mục. Nhưng ngoài luật khoa cử, khoa mục, các cấp Chuẩn Ân, Thiên Ân hay Giáo Tổ, Tòa Tam giáo Thiêng Liêng có quyền tối cao quyết định ân phong mà không cần theo luật lệ nào.. Cơ quan Bảo pháp nhóm dưới quyền Chủ tọa của Định Pháp Tổng Lý, có quyền bàn các việc thuộc về phần Thiên đạo, nên cũng gọi là Đạo thống.
TÍN ĐỒ MINH LÝ ĐẠO
Môn sanh Minh Lý Đạo có hai hàng: - Thiện Tín là người mộ đạo, có góp phần công đức và có chí hướng tu hành. - Tín đồ là người đã thực hiện các thủ tục nhập môn theo quy định của Hội Thánh. Tín đồ của Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu là những người nam, nữ đã xuất gia hay còn tại gia, tuân thủ pháp luật và thực hiện theo Hiến chương của Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu. Tín đồ mới nhập môn được ân phong Hướng Tịnh sư (hữu tâm hướng đạo), thực hiện ăn chay sáu ngày. Tín đồ vì lý do nào đó xin ra khỏi Đạo, khi muốn trở lại vẫn được tái nhập môn theo quy định như là một tín đồ mới.
CHỨC SẮC, CHỨC VIỆC MINH LÝ ĐẠO
Chức sắc Trong đạo Minh Lý, từ chức sắc là để chỉ tất cả thành viên của đạo, theo lời dạy của Đức Thái Thượng Đạo Tổ như sau: “Ta đặt các chức trong đạo, đều phải lấy theo bình đẳng mà đặt… Theo đạo thì bình đẳng. Ở thế gian này, ai lo lắng tu hành, khi qui vị trở về cõi thọ, cũng đều đặng rước hết, cũng đều đặng thành Tiên, hoặc thành Phật, song tùy theo công phu mà đặng phong chức. Chức phong cũng do luật công và đức mà đặt ra rồi phong. Nên vậy trong đạo cũng phải bỏ hết các chức sắc theo lối xưa của các đạo. Phải đặt lại mới, từ bực dưới chí trên đều là một chức, song khác nhau nơi thiệt hành mà thôi”. (Thánh Ngôn ngày 20-8-1928). Một chức đó là Sư (nam) hoặc Cô (nữ). Theo thời gian, đức hạnh và công phu tu hành, chư chức sắc Đạo Minh Lý được sắp thứ tự theo các cấp tu. Bực dưới hơn hết là người mới nhập môn vào đạo, tức là Hướng Tịnh sư. Hướng Tịnh sư ở dưới quyền hướng dẫn của Chí Tịnh sư. Chí Tịnh sư cũng ở dưới quyền hướng dẫn của Tâm Tịnh sư. Ba cấp nầy đã bắt đầu tu học đạo, nhưng vì còn dính líu với phần đời của Đạo, nên lấy chữ giai(sơ giai, thứ giai, chánh giai) làm thềm bực, tùy giới đức, công quả mà đặng nhắc lên. Nếu trong ba bực nầy có người trỗi đức, xứng công thì bổn đạo đồng nhóm nhau cử lên cấp trên. Người đặng cử lên Thanh Tịnh sư là bực chuẩn ân, dự vào hành chánh của Đạo. Từ Chuẩn ân trở lên, tùy theo mỗi bực, mà hành quyền giữ giới. Nhưng Chuẩn ân muốn lên Thiên ân phải do khoa mục mà tuyển chọn. Khoa mục nhắm vào các nguyên tắc chính của đạo Minh Lý (Học Thuyết Minh Lý), nghĩa là phải thông thạo giáo lý, đạo pháp và luật lệ, tùy theo chương trình giáo khoa, cộng chung với điểm hạnh nết và công đức. Chư Thiên Ân Chức sắc bao gồm các chức sắc có cấp tu từ Thanh Tịnh Sư/cô tùy theo sự suy cử và sư phê duyệt của Hội Đồng Hội Thánh mà dự vào hành chánh của Đạo. Trong đó ba cấp Giáo sư là người có quyền chấp sự trong Hội Thánh, được dự các hội và đề nghị chế giảm luật lệ, nhưng cũng theo khoa cử mà tấn thăng. Chức việc - Bậc tín đồ và môn sanh là những chức việc của Minh Lý đạo, là người thực hiện các công việc do Hội Đồng Hội Thánh đề ra, hoặc công việc do các Thiên ân lãnh đạo giao phó. &nbs