THI BÀI
Từ Giáp Tý sang qua Quý Sửu, Năm mươi năm hiện hữu trên đời. Minh, Khai đương nhiệm mạng Trời, Chủ hành quyền pháp độ người trần gian. Dắt nhơn sanh lên đàng thánh đức, Đưa nước nhà đến bực văn minh. Rải gieo mầm sống thanh bình, Khai môn Bác-Nhã, tập thành Huyền công. Xem thêm
Dung hòa thuyết Tây, Đông, kim, cổ, Giải thoát phương đốn ngộ đạo mầu. Giáo truyền cả rộng và sâu, Qui nguyên hiệp nhứt, mục đầu pháp môn. Cơ mầu nhiệm Càn Khôn khép mở, Phép tu hành gốc ở nơi tâm, Đạo Trời vi diệu thậm thâm, Thịnh, suy, trị, loạn do mầm con tim. Người hướng đạo tôn nghiêm kính cẩn, Bậc thiên ân lân mẫn tổng trì. Môn sanh trai giới, qui y, Nữ, nam, đồng đức thực thi thừa hành. Đạo MINH-LÝ hình thành Trung Nhứt, Hội Tam-Tông Hoàng Cực chủ ông, Bủa ra thế giới đại đồng, Thâu về chứng nhập Chơn Không Niết Bàn. Sứ mạng ấy huy hoàng to tác, Chờ đủ người gánh vác mưu toan. Chứng tu liễu đắc hoàn toàn, Đủ, nhơn, trí, dũng đảm đang cơ đồ. Sự nghiệp cũng qui mô lớn rộng, Nào phải đâu danh rỗng lời suông. Cây có cội, nước có nguồn, Đường Tiên, nẻo Phật luông tuồng đâu nên. Người tu học xây nền đức, hạnh, Noi con đường nội Thánh, ngoại Vương. Bao hàm Lẽ Thật, Tình Thương, Đem thân lo Đạo, liệu phương giúp đời. Gắng trau sửa nên người Bồ-Tát, Khỏi phụ lòng ủy thác, dạy khuyên, Thiên-ân rường cột mối giềng, Hư, nên, trách nhiệm thiêng liêng ở mình. Mắt còn thấy bất bình oan khúc, Tai còn nghe bất mục đệ huynh. Đời còn thù ghét chiến chinh, Tông-đồ sự vụ của mình chưa xong. Ai là kẻ đứng trong MINH-LÝ, Phải tùy thời xử vị chấp trung. Mất còn bổn phận lo chung, Khen chê, danh dự phải cùng tương quan. Ngoài Giáo-Hội còn đang dang dở, Trong nội tình muôn mớ ngổn ngang. Cậy ai chỉ lối đưa đàng, Nhờ ai sắp đặt vổ an trong ngoài ? Dưới thiếu kẻ trông coi dạy dỗ, Trên thiếu người quan cố mở mang. Thiếu vai điều khiển cơ quan, Thiếu lòng Bồ-Tát bao hoang hóa hoằng. Dựng nước còn khó khăn lắm nổi, Lập Đạo tăng gấp bội lần gay. Hò làm thịnh đức đời hay, Hay làm nên Thánh nhờ tay pháp quyền. Xúm nhau lại quảng truyền mối Đạo, Lấy từ bi cải tạo nhơn-gian. Chuyển địa ngục hóa thiên đàng, Cho hay phiền não Niết-Bàn một tâm. Trước Minh-Thiện, Minh-Đàm, Minh-Chính, Đã dày công xóc gánh ban đầu. Được ơn mặc khải nhiệm mầu, Vạch đường chỉ lối người sau noi tầm. Khai-Minh, Diệu, Sắc, Tâm, Trừng, Tịch, Khai-Ngộ, Chơn, Không, Tánh, Tịnh, Tinh. Mau lên bén gót tiền trình, Ngoại giao, nội vụ phận mình phải kham. Đạo làm Thánh xen phàm hết Thánh, Đời rèn người lấy hạnh hòa người. Việc trong Giáo-Hội mười mươi, (Khéo) Ăn no, co ấm, tùy thời chiết trung. Đức từ huệ bao dung, tha thứ, Lượng hải hà quân tử chở che. Nhứt tề không đảng, không phe, Một nhà kẻ nói, người nghe đẹp tình. Hữu ư trung mới hình ư ngoại, Chớ làm điều bại hoại danh ô. Đức Khôn Thập nhị nữ đồ, Thuận thừa Thiên mạng điểm tô đạo Kiền. Góp hàng ngũ cần chuyên tu học, Giữa chị, em nặng nhọc có nhau. Xinh xinh tâm chỉ một màu, Đua công, ganh đức, cho giàu tình thương. Nẫm bát tú tịch Tường xuất hiện, Hội thiên nhơn trạch tuyển chuẩn phong. Thọ ân, chiều, sớm dọn lòng, Quyền trao pháp gắn chờ mong lo tròn. Khuyên lập chí sắc son hành đạo, Hầu chấn hưng tôn giáo đại hành. Hiệp cùng MINH-LÝ môn sanh, Chung lo sứ mạng hoàn thành vẻ vang. Phải nhớ mình vai mang trọng trách, Khả dĩ cho thanh bạch mọi điều. Đẹp lòng đạo mến đời yêu, Nêu gương trong sáng cho nhiều người soi. Được đoàn chiên tuân còi kiêng gậy, Được xa gần trông cậy tưởng tin. Muốn tha sớm, tối cầu xin, Muốn thành Bồ-Tát, muôn nghìn công phu. Sớm giải thoát trần tù bể ái, Thì tâm, thân tự tại khinh an. Chúng sanh trong giấc mộng tràng, Tìm phương giác ngộ chỉ đàng chính chơn. Lòng có chính thì ơn chảy khắp, Chí thiệt tu liền gặp Minh sư. Có vào tận chỗ nhứt như, Mới hay Trời Đất gốc từ đây ra. Đạo vô vi ai mà thấy được, Chỉ trông người mực thước tu hành. Vì đời, không lợi, không danh Vô tư, vô dục, vô tranh, vô cầu. Được như thế ai đâu chẳng quí, Càng làm cho MINH-LÝ thơm danh. Khoan, nghiêm, cử chỉ hiền lành, Nói, cười, đi, đứng, tạo thành oai nghi. Nay gặp hội vào thi công quả, Sẳn cơ duyên, nợ trả ơn đền. Đạo thành mình cũng tuổi tên, Cửu huyền thất tổ siêu lên thiên đường. Khi đắc vị cầm cương nẻ mực, Phải cân đo chuyên Nhứt tâm thân. Công phu hàm dưỡng tinh thần, Hạo nhiên chính khí bội phận quang minh.[1] [1] Đức Đạo Tổ giáng cơ cho ngày Rằm tháng 9 Quí Sửu Rút gọn
NGÀI ÂU MINH CHÁNH
NGÀI ÂU MINH CHÁNH Thiên phong: MINH CHÁNH HỘ PHÁP Lời Thánh truyền rằng: vào thời Hạ ngươn mạt kiếp, lòng người đen bạc, đạo đức suy đồi, nhơn tâm không tiếp nhận được nguồn sống, nên đạo đời cách nhau. Đức Chí Tôn không nỡ để yên mà nhìn sự tàn phá, chết chóc ghê gớm này, nên mở Hội Thiên Triều lần thứ ba, cho Phật, Tiên, Thánh, Thần xuống thế và chính Thượng Đế, Người cũng lâm trần thị hiện Quyền pháp, mở Đạo cứu đời, lập lại đời Thượng Ngươn Thánh Đức. Trong số các Thần Tiên giáng thế lần này, có chư vị khai sáng Minh Lý Đạo. Ngài Minh Chánh Âu Kiệt Lâm là một trong chư vị nói trên. Khi lãnh trách nhiệm hạ phàm, Phật Tổ Tây Phương đã ban cho Ngài được dùng cách thần thông linh dược, mà độ thế, cứu vớt nguyên nhơn[1]. Tiểu sử Ngài Minh Chánh, thế danh là Âu Kiệt Lâm, tự là Âu Kích; sinh năm 1896 tại làng Thành Phố, hạt Gò Công (nay là huyện Gò Công tỉnh Tiền Giang)[2]. Cha Ngài là ông Âu Tường, người Hoa và mẹ là bà Trương Thị Vị. Trong gia đình, Ngài là người con thứ tư, nên thường được người trong đạo gọi là ông Tư lớn để phân biệt với ông Minh Đàm là ông Tư nhỏ, Ngài có một hay hai người chị mà chúng ta không rõ tên. Nhơn đạo Theo lời kể, vì nhà nghèo nên ông Âu Kiệt Lâm phải vào đời rất sớm. Ông lập gia đình với bà Đinh Thị Thuận. Bà Đinh Thị Thuận, pháp danh Diệu Giác, sinh năm 1895. Vào năm 1925, bà là một trong năm người nữ đầu tiên nhập môn Minh Lý Đạo, bà quy vị vào ngày 5-6-1957 với cấp đạo Tâm Tịnh cô và đã giáng cơ về đàn dưới danh hiệu Diệu Liên Thánh Nương vào ngày 26-12-1965. Ông bà có tất cả tám người con theo thứ tự:
Thiên Hướng & Cơ duyên Ngài là người thông minh, ham học hỏi. Trong khi đi thâu tiền ở các công tư sở và các nhà tư nhân, Ngài có dịp tiếp xúc với nhiều người nên có dịp đàm luận, học nhiều lãnh vực. Do thiên linh thúc đẩy, những đàm luận, học hỏi nghiêng nhiều về tâm linh, tôn giáo. Ngài thường mua các tạp chí của Pháp để đọc và học được ảo thuật và huyền thuật. Ngài có thể đọc thơ trong túi áo khán giả. Ngài cũng có thể vẽ một vòng tròn bỏ con chó vào giữa mà nó không thể ra khỏi được, hoặc Ngài bỏ một que diêm xuống đất, nhưng không người nào có thể cầm que diêm đó lên được. Ngài còn nghe được âm thanh của thế giới vô hình, hay dù bị bịt mắt mà Ngài vẫn đi theo lằn phấn vẽ ngoằn ngoèo trên mặt đất khá chính xác. Ngài cũng có thể làm sáng bóng đèn nhỏ khoảng vài watts khi cầm đến. Nhân báo bên Pháp có đăng tin ông Henri Durville trị bịnh bằng nhơn điện, Ngài biên thơ xin thọ giáo và mua toàn bộ sách của ông Durville. Sau một thời gian khổ luyện, Ngài đạt được kết quả khả quan. Ngài có thể chữa được các bịnh thông thường như đau đầu, nóng sốt…. cho đến các bịnh mà các lương y thời đó bó tay như sưng đầu voi, bại liệt, nói không được… Ngài đã chữa bịnh không vụ lợi, không phân biệt giàu nghèo. Tài liệu để lại cho thấy vào 13/6/1916, Ngài đã liên lạc được với giáo sư thông linh học ở Nancy Pháp[3], để học về huyền cơ. Năm ấy, Ngài 20 tuổi và có người con trai đầu lòng. Ngài thích nghiên cứu nhiều kinh sách của nhiều tôn giáo, các phương pháp tu hành, thường đi đến các chùa nghe cao tăng thuyết giảng. Vì có thiên hướng về thần linh nên nơi nào có xây bàn, cầu cơ là Ngài đến xin tham dự. Không có chỗ ở cố định, Ngài phải thuê nhà nhiều nơi khác nhau. Một trong khu vực mà Ngài đã thuê là đường Douamont (Cô Giang), khu Cầu Muối. Vào thời gian đó, Quí Ngài Nguyễn Văn Xứng, Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Ngọc và Ngài Nguyễn Hữu Hay, người bạn thân thiết của Ngài Minh Thiện, cũng đã từng ở trên con đường Douamont (Cô Giang), gần chùa Linh Sơn (149 Douamont), Ngài Võ văn Thạnh ở hẻm Louvain (Đề Thám) gần đó. Quí Ngài Nguyễn Văn Xứng, Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Ngọc… cùng nhau hội họp học đạo, tập thủ cơ… Đây là những hội viên đầu tiên của Hội tu thân Minh Lý theo lời dạy của Đức Đạo Tổ năm 1924[4] và là những bực tiền khai của Minh Lý Đạo ngày nay... Lúc đầu quí Ngài theo lối cầu cơ bên Pháp. Sau một thời gian tập, quí Ngài nhận thấy lối cầu cơ này mất nhiều thời gian không thuận tiện. Nên nghe tin ở chùa Minh Hương, trong Chợ Lớn có một vị cao tăng từ Trung Hoa qua, Ngài tìm đến nghe thuyết giảng và xin theo học thủ cơ. Ngài tự luyện tập Huyền Cơ và thành công vào khoảng năm 1922 . Việc thành tựu Huyền Cơ làm quí Ngài tăng thêm niềm tin ở Đấng Thượng Đế vô hình. Nhưng Huyền Cơ rất nguy hiểm cho người sử dụng, nên theo lời khuyên của Ơn Trên, Ngài chuyển qua chấp Bút và sử dụng Ngọc Cơ. Tài liệu để lại tại Tam Tông Miếu không cho thấy cách chấp bút mà Ngài đã thực hiện như thế nào, nhưng chúng ta có thể tham khảo trên internet bài viết của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc trả lời báo Vérité tại Nam Vang[5] Sau đó, giữa năm 1925 nhờ sự quen biết với Sư Thiện Chiếu[6], giáo thọ, và ông Trần Nguyên Chấn, hội trưởng chùa Linh Sơn, quý Ngài mượn được chùa để cúng sóc vọng[7] cho đến khi về chùa mới đầu năm 1927. Vào 1925, nhà tư sản hảo tâm Trần Kim Ký đã hoan hỷ hiến tặng quý Ngài một sở đất để tạo tự tại đường Chasseloup Laubat nay là đường Cao Thắng. Khi có tài sản, quí Ngài đã nghĩ đến việc lập hội để tương thân tương trợ. Ngày 18-9-1926, Quí Ngài nộp đơn xin thành lập Hội Tam Tông Miếu gồm 6 vị: Ngài Minh Chánh Âu Kiệt Lâm làm Chánh Hội Trưởng, Ngài Minh Thiện Nguyễn Văn Miết là Phó Hội Trưởng, Chánh Từ Hàn là Ngài Minh Trực Võ Văn Thạnh, Phó Từ Hàn là Ngài Minh Đàm Nguyễn Hữu Hay, Chánh Thủ Bổn là Ngài Minh Giáo Nguyễn Văn Xưng và Phó Thủ Bổn là Ngài Minh Truyền Lê Văn Ngọc. Điều lệ của Hội được nhà đương cuộc thời đó là Thống đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse chuẩn y vào 8-2-1927[8]. Theo điều lệ của Hội, tài sản của Hội được lập ra hay được tặng do quý Ngài quản lý, truyền từ đời này qua đời sau không được bán, nếu hội do nguyên nhân gì phải giải thể thì tài sản này thuộc về chùa Tam Tông Miếu. Do đó, năm 1932 tất cả quý Ngài đều làm di chúc về tài sản đứng tên chung này. Di chúc này được chứng thực bởi chính quyền thời đó, chứng tỏ tất cả quý Ngài rất thanh liêm minh bạch như điều quy thứ 3 của kinh Tứ Đại Điều Quy được tụng đọc hàng ngày. Ngài được các bạn đạo bầu làm chủ trì Tam Tông Miếu (1926-1938). Năm 1927 Tam Tông Miếu được xây cất xong, tất cả việc cúng sóc, vọng, thiết đàn đều được thực hiện tại đây, không còn luân phiên tại tư gia các bậc tiền khai như trước. Vào thời gian này Ngài có được một căn nhà ở đường Barbier nay là Thạch thị Thanh, Phường Đa Kao, Quận 1, do Ngài cải tử hoàn sinh cho vợ một ông chủ trại cưa, để đền ơn ông bán rẻ cho Ngài miếng đất Ngài cất thành 2 gian, một gian để ở và một dành cho thờ phượng. Đến đây sự khảo đảo trong đạo bắt đầu. Những khổ đau, khảo đảo là những trái đắng cần thiết mà người tu hành phải nếm trải, phải vượt qua, để đắc quả Thánh; điều này Ơn Trên cũng đã nhắc nhở nhiều lần. Mặc dầu đã bầu Ngài làm chủ trì, nhưng vẫn có người không phục, còn Ngài Minh Chánh, quá khiêm nhượng, lại ít quyết đoán trong công việc, vì có lẽ Ngài quá chú tâm vào Huyền Cơ mà quên đi phần nhân sự. Năm 1928, Ngài dời thất trị bịnh về chùa. Vào ngày 4-4-1930 Ngài và quý ngài Minh Giáo, Minh Thiện, Minh Trực, Minh Đàm và Minh Truyền được Ơn Trên phong Thanh Tịnh Sư. 1934 Ngài là Tổng Lý của Thánh Hội Minh Lý[9] Thể chất bẩm sinh không khỏe mạnh, nhà nghèo, đông con, việc mưu sinh, việc chữa bịnh, … làm cơ thể Ngài ngày một suy kiệt. Năm 1938 Ơn Trên thuận cho Ngài từ chức Chủ trì. Tuy nhiên Ngài vẫn phải giữ nhiệm vụ đồng tử và trông coi Tặng Dược Thất. Trong cuộc đời, Ngài cứu chữa cho rất nhiều bịnh nhân, những người tưởng như chết đi, có thể sống lại. Nhưng đã là người thì không thể nào thoát ra khỏi vòng nhân quả, nghiệp duyên, Ngài đã không cứu được người con gái yêu dấu của mình, bà Âu Thoại Ngọc, bị hậu sản sau khi sanh người con thứ hai. Hai ngày sau cái chết của bà, Ngài nhẹ nhàng lặng lẽ quy vị tại phòng riêng của mình ở Tam Tông Miếu. Đó là ngày 15-3-1941 (18-2 Tân Tỵ) Sau khi quy vị, Ngài vẫn tiếp tục hướng dẫn Minh Lý môn sanh một cách vô vi qua công việc thông công dưới danh hiệu Âu Minh Chánh, Chưởng Pháp Thiên Quân, Chưởng Pháp Khai Đạo Thiên Quân, Giám Đàn Chơn Quân và nay là Minh Chánh Hộ Pháp. Đạo Nghiệp Bốn mươi lăm năm tại thế, mười bảy năm kể từ ngày khai đạo Minh Lý, những gì Ngài đã đóng góp cho Minh Lý về mặt hữu hình gần như chỉ còn là những vết mờ không rõ nét; vì lẽ sự đóng góp lớn nhất của Ngài là việc thực hiện Huyền Cơ và Thần Cơ, phần cốt lõi của Đạo thời Tam kỳ tận độ, nhưng lại là phần ẩn, không hiển lộ. Việc kiên tâm bền chí thông linh của Ngài đã được Ơn Trên xác nhận. Nhưng để có thể là một đồng tử được tin cậy nhất, Ngài phải thực hiện với tâm không: không vì mình, không vì danh, không vì lợi, không kể công; vì Ngài hiểu rằng đồng tử chỉ là khí cụ của Thiêng Liêng lúc đó. Về giáo pháp, thời của các tiền bối họ Minh là những bậc khai cơ lập đạo. Là Chủ Trì, một khai sáng viên, Ngài Minh Chánh chỉ để lại một bài về cách thực hiện Huyền Cơ và một bài “Lược thuật về việc tiếp kinh”, nhưng hầu hết các bài kinh tụng, cách hành lễ, cách thờ phượng đều ẩn hiện sự đóng góp công sức của Ngài. Nhờ tài y thuật, Ngài đã quy tụ các bạn đồng tâm (Minh Giáo, Minh Đạo, Minh Truyền, Minh Trực, Minh Thiện…) để xây dựng nền đạo mới; Ngài cùng các vị tiền khai họ Minh đã để lại cho môn sanh ngày nay, một ngôi chùa tuy không cao sang nhưng cũng là nơi tụ họp và phát triển mối đạo, một nghĩa trang dành cho môn sanh khi quá vãng; đóng góp vào nền kinh tế của chùa qua việc lập hiệu buôn, nhà in, xây phố cho thuê, làm lịch âm dương. Trên con đường thiên lý mênh mông vô định, Ngài Minh Chánh như là nguời cầm đuốc mở đường và Ngài Minh Thiện là người phát triển hoàn thiện con đường mới thành hình này cho rộng lớn tươi đẹp. Do đó Đức Thánh Trần đã tán dương: “…Công đầu Minh Chánh có Tam Tông, Minh Thiện ấp nuôi cá hóa rồng…..”[10] Đức Thánh Khổng nhìn nhận: “…Về xây dựng nền Đạo, các vị tiền bối đã hết mình: từ hai tay trắng mà nay có đủ mọi phương tiện về địa vị, về quyền lợi, về giáo lý, về phương môn tu học và mục đích hành đạo… Bần Đạo khen công hạnh đó và đáng mừng thấy sự nhẫn nại bảo trì, vượt mọi khó khăn, thắng mọi trở lực và thành công. Từ năm bảy hột sạn, đôi ba mầm non mà nay đã trở thành rừng, thành núi, nhứt là công đầu của Minh Chánh, Minh Thiện, người lo về thông công, người lo về phương pháp mà nay được thành hình, thắng đạt khó khăn ….”[11] Khi dạy về quẻ Tùy, Đức Quan Thánh Đế Quân đã đặt Ngài Minh Chánh vào hào sơ cửu và cửu tứ: “…Hào sơ cửu: là dạy cho ta đứng trước đám đời đen tối, kẻ biết thì ít, người không biết thì nhiều. Ta là người tiên giác phải đánh thức kẻ hậu giác…Hào nầy ví như Huệ Năng ở với đám thợ săn mà giữ nguyên bổn sắc. Cũng có thể đặt địa vị nầy cho Minh Chánh đạo nhơn…… …Hào cửu tứ: Một vị đủ quyền, đủ pháp, đóng công góp tuệ, xây dựng cả vật chất lẫn tinh thần, thì ở đây chư đạo tâm phải nhận sự nghiệp Minh Lý có nên, là ở Minh Chánh và Minh Thiện.”[12] Khi giải thích về Bát địa hồng danh, Tam thừa cửu phẩm, Đức Hà Tiên Cô đã cho biết ở bậc Bồ Tát Địa Kim Tiên, hiện nay Minh Lý chỉ có hai người đắc quả cao nhất là Bác Nhã Thiền Sư (Minh Thiện) ở vị Trung Phẩm và Giám Đàm Chơn Quân (Minh Chánh) ở vị Hạ Phẩm. Điều này một lần nữa xác nhận lại những đóng góp tưởng như là mờ nhạt đó của Ngài Minh Chánh trong lịch sử Minh Lý Đạo: “Nên trong bảng “Tam-Thừa Cửu Phẩm” sắp theo Tứ Thánh, phần nhiều trong hàng môn sanh lúc sống còn đủ mê chấp phiền trược, không sao xứng ở địa vị giải thoát của hàng Tứ Thánh, duy chỉ một số thiên ân và đạo đồ giữ thanh tịnh giới, nên người sứ mạng mà có đức lớn, đạo cao, công đầy, quả đủ là Minh Thiện, tài thành cho Chánh-pháp;Minh Chánh, thông công khai Đạo, là người xứng đáng” [13] [1] TN19280317 và TN19300324 [2] Nghị Định ngày 20-12-1899 của Toàn Quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện (arrondissements) thành tỉnh thì từ ngày 01-01-1900 hạt tham biện Gò Công trở thành tỉnh Gò Công, với số tổng và số làng không đổi. Tỉnh lỵ Gò Công đặt tại làng Thành Phố, vốn là hai làng Thuận Tắc và Thuận Ngãi nhập lại. Tháng 02-1976, tỉnh Gò Công hợp nhất với tỉnh Mỹ Tho và thành phố Mỹ Tho thành tỉnh Tiền Giang. Tỉnh Gò Công chuyển thành huyện Gò Công, thuộc tỉnh Tiền Giang. [3] Thư viết tay ký tên khong rõ với chữ đầu là Jeremy [4] TN19241222 [5] http://caodaireligion02.blogspot.com/2019/05/minh-xac-giao-ly-phan-5-6-tiep-dan-ao.html [6] Sư Thích Thiện Chiếu thế danh là Nguyễn Văn Giảng (hay Nguyễn Văn Tài), sinh năm 1898 tại làng Vĩnh Hựu (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang); thuở nhỏ, xuất gia tại chùa Linh Tuyền (ông nội của sư là Hòa Thượng Huệ Tịnh trụ trì chùa này). Năm 1923, lên Sài Gòn làm trụ trì chùa Linh Sơn. Vì hoạt động chống Pháp, bị chánh quyền trục xuất khỏi chùa. Năm 1927, ra Hà Nội. Khoảng giữa thời gian 1932-1936, hoàn tục. Năm 1936, về Rạch Giá. Năm 1943, bị Pháp đày ra Côn Đảo. Sau tháng 8-1945 về Gò Công hoạt động. Năm 1954, tập kết ra Bắc. Năm 1956, sang Trung Quốc. Năm 1961, trở về nước. Năm 1974, qua đời tại Hà Nội. [7] Vì khởi đầu quí Ngài mượn Linh Sơn Tự để cúng sóc vọng nên phải cúng trước một ngày là 14 và 30 (hay 29 âm lịch) sau đó trở thành lệ. [8] Điều lệ hội Tam Tông Miếu [9] Điều lệ Tư Dưỡng Sở do ông Pháp Ấn đánh máy quay ronéo [10]TN19861004Bính Dần thangs 9 ngày 1 [11] TN 19831128 Quý Hợi tháng 10 ngày 24 [12] TN 19650821, Đức Quan Thánh Đế Quân giải các hào của quẻ Trạch Lôi Tùy [13] TN19851228 Ất sửu tháng 1(T) ngày 7 NGÀI MINH GIÁO
NGÀI MINH GIÁO THIÊN PHONG: MINH CHIẾU CHƠN QUÂN 1. Thân Thế Ông Nguyễn văn Xưng, thánh danh Minh Giáo, sinh ngày 8-6-1891 tại làng Thủ Lễ, tổng Dương Hòa Hạ hạt Gia Định. Thân phụ là Nguyễn văn Trọng, Thân mẫu là Võ thị Tròn. Theo hồ sơ lưu tại chùa, Ông là nhân viên thương mại công ty Denis Frères, vào thập niên 20 của thế kỷ trước. Ông lập gia đình với bà Nguyễn thị Lập, sinh năm 1896 pháp danh Diệu Quan và có 5 người con. Bà qui vị vào năm 14-12-1955 với cấp đạo Tâm Tịnh Cô. Bà được sắc phong Tịnh Giới Diệu Cô vào năm 1984 Vào thập niên 20 -30 của thể kỷ trước Ông ở đường Douamont gần chùa Linh Sơn, nay là đường Cô Giang quận 1. Có lẽ vì thế mà quí ông đã quen biết với ông giáo thọ chùa Linh Sơn nên mượn chùa để cúng sóc vọng trong thời gian Tam Tông Miếu chưa cất, và cùng quý tiền khai cùng nhau tập cầu cơ chấp bút. 2. Đạo nghiệp Ông là một trong những Khai Sáng Viên của Minh Lý Đạo, và là một trong ba người có mặt tại đàn khai đạo 22-12-1924 và được Ơn Trên giao nhiệm vụ lập Hội tu thân là tiền thân của Hội Tam Tam Tông Miếu nay là Minh Lý Đạo.
Ông qui vị vào 6/11/1957 tại nhà riêng. Ông được sắc phong Minh Chiếu Chơn Quân vào 26-12-1965. NGÀI MINH ĐẠO
NGÀI MINH ĐẠO THIỀN PHONG: KHAI THIỀN CHƠN NHƠN 1. Thân thế Ông Nguyễn văn Đề ( mất năm 1925) , Thánh danh là Minh Đạo. Thân phụ là Nguyễn văn Trọng, Thân mẫu là Võ thị Tròn. Ông là em thứ tám của ông Minh Giáo Nguyễn văn Xưng. Ông là một trong những người môn sanh đầu tiên của Minh Lý được ban Thánh danh. Ông qui vị vào ngày 28-8-1925 ( 7 thấng 7 năm Ất Sửu) lúc 11g30 tức là 25-8-1925, an táng vào 8g30 ngày mùng 10 tháng 7 năm Ất Sửu, ông được Mã Diện dẫn về cơ lúc 18g cùng ngày. 2. Đạo nghiệp Theo Thánh ngôn,Ông vì lãnh chữ Đạo nên phải làm việc vô vi. 1930 Ông là chủ trì vô vi của Minh Lý. Ông được phong Thanh Tịnh Sư vào 4-4-1930. Ông được sắc phong Chưởng Đạo Thiên Quân 1966, Khai Thiền Chơn Nhơn 1981 NGÀI MINH TRUYỀN
NGÀI MINH TRUYỀN THIÊN PHONG: BẢO ĐỨC CHƠN NHƠN Thế danh: Lê Văn Ngọc sinh năm 1889 tại làng Điều Hòa tổng Thuận Trị hạt Mỹ Tho. Thân phụ là ông Lê văn Ngươn (đã mất), Thân mẫu là bà Nguyễn thị Cẩn nhập môn với pháp danh Diệu Cảnh. Hiền thê là bà Phan thị Sửu, bổn đạo Minh Lý pháp danh Diệu Ý. Thân mẫu và hiền thê của ông là hai người nữ đầu tiên nhập môn Minh Lý Đạo (14-9-1925). Bà Diệu Cảnh đắc quả vị Trinh Dung Thần Nữ, bà Diệu Ý đắc quả vị Hồng Liên Ngọc Nữ (1984) Ông làm thông phán tại Hải Quan. Vào thập niên 20 -30 của thể kỷ trước Ông ở tại đường Douamont gần chùa Linh Sơn, nay là đường Cô Giang quận 1 gần nhà ông Minh Giáo, Minh Chánh, Minh Đàm, Minh Trực. Có lẽ vì thế mà quí ông đã cùng nhau cầu cơ quen biết với ông giáo thọ chùa Linh Sơn nên mượn chùa để cúng sóc vọng trong thời gian Tam Tông Miếu chưa cất.
Dựa theo cuốn “Điều lệ - Tam Tông Miếu Hội” ở phần “Ban Trị sự tạm thời” gồm 6 vị đồng ký tên và chịu trách nhiệm soạn thảo quyển “Điều lệ”, xong ngày 18.9.1926, trước khi trình lên quan Thống đốc Nam Kỳ phê duyệt. Ông làm Phó thủ bổn coi về chi thu trong chùa. Theo điều lệ của Hội, tài sản của Hội được lập ra hay được tặng do quý Ngài quản lý, truyền từ đời này qua đời sau không được bán, nếu hội do nguyên nhân gì phải giải thể thì tài sản này thuộc về chùa Tam Tông Miếu. Do đó, năm 1932 tất cả quý Ngài đều làm di chúc về tài sản đứng tên chung này. Di chúc này được chứng thực bởi chính quyền thời đó, chứng tỏ tất cả quý Ngài rất thanh liêm minh bạch như điều quy thứ 3 của kinh Tứ Đại Điều Quy được tụng đọc hàng ngày
NGÀI MINH THIỆN
NGÀI MINH THIỆN BÁC NHÃ THIỀN SƯ TAM TÔNG PHÁP CHỦ NGUYÊN QUÂN BỒ TÁT MA HA TÁT Ngài Minh Thiện sinh ngày 23-7 Đinh Dậu (20-8-1897) trong một gia đình đạo đức Nho Giáo tại làng Lợi Bình Nhơn, tổng Hưng Long (nay thuộc thị xã Tân An), tỉnh Tân An. Họ tên thật của Ngài là Tôn Văn Khuê. Thời kỳ nầy, phong trào Tây học rầm rộ nổi lên, muốn cho Ngài có thể tiến thân, ông thân Ngài mới dẫn con đến trường xin nhập học, nhưng trường đòi phải nộp khai sanh nên Ông thân Ngài dẫn con đến ông chánh lục bộ để xin làm khai sanh, lấy họ tên mới là Nguyễn Văn Miết. Gia thế Thân phụ Ngài là Tôn Văn Thi, một nhà Nho tu theo phái Minh Sư, siêng làm các việc phước thiện. Trong nhà có dành nơi để thờ phượng và cúng lễ theo phái Minh Sư. Thân phụ Ngài cũng là môn sanh Minh Lý, nhập môn ngày 02-9-1926, pháp danh Hiệp Nhứt, quy vị ngày 03-9-1947, được ân phong quả vị Thiên Long Chơn Nhơn. Thân mẫu Ngài là bà Lâm Thị Chợ, quê nội xưa kia ở trấn Củ Chi, huyện Hóc Môn, sau đến đời ông thân Ngài Minh Thiện mới dời về Long An. Sau khi bà Lâm Thị Chợ qua đời, Đức Thái Ất Thiên Tôn đã cho phép hồn thân mẫu Ngài Minh Thiện về đàn báo tin: Hình khổ U Minh rất thảm thay, Siêu thăng về tỏ một lời nầy, Kinh Tiên linh hiển rèn lòng tụng, Thất Tổ Cửu Huyền đặng xá ngay.([1]) Và thần Lục Đinh vưng lịnh Đức Đạo Tổ lâm đàn báo cho Ngài Minh Thiện biết như sau: “THIỆN, ta mừng giùm cho ngươi. Nay mẹ ngươi đặng phong Thánh đi phổ độ nhơn gian, là nhờ công ngươi siêng lo tu, giữ Đạo một lòng và có công tìm kiếm dịch kinh sách đặng phụ giúp mà khuyên người ta mau tỉnh ngộ… Mẹ ngươi sẽ đi khắp thế giái coi ai có lòng mộ đạo thì Người độ, ngày sau ngươi sẽ có tin mừng.” Lời dạy của Đức Đạo Tổ chẳng những xác minh chân lý tu là cứu cửu huyền thất tổ, mà còn cho thấy công đức vô lượng của việc Ngài Minh Thiện xả thân làm pháp thí. ([2]) Ngài Minh Thiện có một chị và ba người em là: Tôn Thị Kỷ (chị cả), Tôn Thị Thân (em gái, môn sanh Minh Lý, pháp danh Toàn Lạc, sau khi quy tiên được ân phong quả vị là Diệu Đức Nương Nương), Tôn Thị Sáu (em gái, môn sanh Minh Lý, pháp danh Toàn Kiết), và Tôn Văn Lâm (em trai, môn sanh Minh Lý, pháp danh Chí Giác). Nhơn đạo Ngài lập gia đình ngày 09-7-1917. Bạn đời của Ngài là Lâm Thị Hộ, sanh năm 1895 tại làng Nhân Nhượng, tỉnh Long An. Bà nhập môn Minh Lý năm 1925, pháp danh Diệu Nguơn. Bà mãn phần ngày 18-3-1953 với cấp tu là Thanh Tịnh Cô và được ân phong quả vị là Diệu Duyên Nương Nương. Khi song thân Ngài Minh Thiện qua đời, các con cháu trong gia đình đều lên thành phố sanh sống, tạo sự nghiệp, nên ngôi nhà bỏ không,([3]) nhờ các đạo hữu Minh Sư chăm nom săn sóc, và về sau hiến luôn cho đạo Minh Sư làm thánh sở. Đến nay tại thánh sở ấy, tức Quan Âm Phật Đường, chỉ còn có hai vị sư cô, nên đã xin gia nhập vào chùa Thiên Khánh thuộc Tỉnh Hội Phật Giáo Long An để tiện bề tu học. Hoạn lộ Năm 1916 Ngài đậu bằng Thành Chung (Diplôme de Fin d’Études Complémentaires Franco-indigènes). Năm nầy, chính quyền có mở cuộc tuyển công chức, Ngài nạp đơn xin việc làm tại Sở Công Chánh (Service des Travaux Publics).... Nhờ đức tính rất tốt và làm việc cần mẫn, nên Giám Đốc nhà giam ký tên vào bản sơ yếu lý lịch cá nhân của Ngài ngày 23-10-1917 và khen ngợi không tiếc lời rằng Ngài xứng đáng có một tương lai xán lạn trong nghề nghiệp, và đề nghị thăng thưởng cho Ngài lên ngạch trật cao hơn. Theo nghị định ngày 09-7-1918, Trưởng Phòng Nhân Viên Văn Phòng Thống Đốc Nam Kỳ ký văn thư đề ngày 10-7-1918, thông báo cho Ngài là đã được chính thức thăng lên ngạch phó thơ ký hạng ba (secrétaire auxiliaire de 3e classe) kể từ ngày 14-7-1918. Sau ba năm làm việc ở Côn Đảo, theo nghị định của Thống Đốc Nam Kỳ ngày 31-3-1920, Ngài được thuyên chuyển từ văn phòng nhà giam Côn Đảo về Sài Gòn làm việc tại Phòng Nhì (2è Bureau) dưới quyền Giám Đốc Văn Phòng Thống Đốc (Directeur des Bureaux du Gouvernement.([4]) Với đức tính cần mẩn và tinh thần trách nhiệm cao, nơi nào Ngài cũng được cấp tren thương mến và hết lòng nâng đở nên con đường hoan lộ của Ngài thăng tiến qua các cấp như ngạch thư ký năm 1922,huyện Hàm 1938. Đó là chưa kể Ngài được trao tăng 2 huy chương cai quy của Hoàng Gia Cam Bốt năm 1935 và Huy Chương Kim Tiền hạng ba (Medaille Kim Tiền de 3e classe) vào ngày 10-4-1941. Chưa hết với đức tính cần cù chăm siêng của mình ,măc dù dã về hưu năm 1941 nhưng ngày 14-02-1950, đại biểu Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam (Gouverneur du Sud-Vietnam) chính thức ân thưởng Ngài phẩm Phủ hàm (honoraire). Ngày 29-8-1950, Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam ban hành quyết định đề cử Ngài làm Ủy Viên Miền Nam Việt Nam và Ngài chính thức làm Ủy Viên Miền Nam Việt Nam ngày 06-9-1950. Bước đạo Như vậy là Ngài đã làm việc cho nhà nước bấy giờ từ năm 1916 đến nắm1941. Trong suốt quá trình làm việc, có thời gian Ngài làm tại văn phòng nhà giam Côn Đảo (1917 – 1920)là lúc Ngài đã mục kích lắm chuyện đau thương ở nơi gọi là “địa ngục trần gian”, nên vô cùng xót xa cho những mảnh đời bất hạnh, những thân phận sống dở chết dở, những hoàn cảnh bi thương, những cuộc đời tăm tối trong chốn lao tù và cảm nhận được cuộc đời là bể khổ, sầu đau, từ đó Ngài đã hướng tâm chí mình về đường đạo đức, nên đã xin về hưu trước tuổi (1942). Sau khi Minh Lý Đạo khai năm 1924, vào năm 1926 các vị chức sắc nhận thấy cần phải lập một Hội Tam Tông Miếu (Tam Tông Miếu Association) để hợp thức hóa mọi hoạt động của Đạo theo đúng luật pháp của Chánh Quyền Nam Kỳ thuộc Pháp (như tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau và có thể thu nhận các loại tặng dữ đóng góp cho chùa). Sau khi chính thức về hưu, Ngài cùng các vị tiền khai khuếch trương Hội Tam Tông Miếu, được thành lập từ năm 1927 và được xác nhận tư cách pháp nhân năm 1939. Theo lịnh Ơn Trên, Ngài cùng các vị tiền khai khuếch trương Hội Tam Tông Miếu, về các mặt gầy dựng tài chánh, như mở tiệm cơm chay Hiệp Ích, lập nhà sách Đức Môn Thư Xã, đặc biệt là phát hành Lịch Tam Tông Miếu nổi tiếng khắp Nam Việt trước năm 1975, góp phần đắc lực trong việc gia tăng tài chánh cho Đạo, xây dựng Chùa, phổ biến kinh sách . . . Cơ duyên Là một đại nguyên căn xuống thế để khai Đạo theo tân pháp, Ngài Minh Thiện đã trực tiếp chứng kiến tận mắt cảnh khổ của những tù nhân trong cảnh lao tù chịu bao nhiêu tủi nhục trước tình trạng nước mất nhà tan dưới sự thống trị của chính quyền thực dân Pháp tàn ác. Được đánh động tâm linh, Ngài đã tự đặt bao nhiêu câu hỏi làm sao giải quyết thực trạng, và sau đó được tham dự những đàn thỉnh Tiên dùng huyền cơ linh thiêng và huyền diệu, Ngài cùng các vị đạo tâm tiền khai khác đã được Ơn Trên phù trợ hướng dẫn khai mở Minh Lý Đạo trong vận hội Phổ Độ Kỳ Ba. Thọ pháp Đức Phù Hựu Đế Quân gọi Ngài nhập môn ngày 01-05- 1925 (09-04 Ất Sửu). Thánh danh của Ngài là Minh Thiện. Tịch đạo chữ Minh gồm những vị khai sáng Minh Lý Đạo, Đức Thái Thượng Lão Quân ban cho: MINH chánh giáo, Đạo truyền thiện hạnh, LÝ trực đàm, đức hóa cường ngôn... Ơn Trên dành riêng để ban cho thánh danh của mười hai vị khai sáng với chữ MINH, gồm quý ông: Minh Chánh, Minh Giáo, Minh Đạo, Minh Truyền, Minh Thiện, Minh Hạnh, Minh Trực, Minh Đàm, Minh Đức, Minh Hóa, Minh Cường, Minh Ngôn. Lần lượt Ngài Minh Thiện được Ơn Trên ân ban cho các cấp tu như sau: - Thọ Thiên phong phẩm Thanh Tịnh Sư ngày 04-4-1930. Theo lệnh Ơn Trên, Ngài xin nghỉ hưu, về lãnh nhiệm vụ Chủ Trì từ ngày 01-9-1938 cho đến ngày 21-5-1952 thì mãn nhiệm kỳ mười hai năm; tái đắc cử Chủ Trì đến năm 1965. - Ngài Minh Thiện nhập tự năm 1955. - Ngài được Đức Thượng Đế ban phong phẩm Khiết Tịnh Sư ngày 21-8-1965. - Ngài được Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ban phong phẩm Vĩnh Tịnh Sư ngày 02-10-1965. - Ngài được Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ban phong phẩm Siêu Tịnh Sư ngày 06-8-1967. - Ngài được Ơn Trên ban chức vụ Định Pháp Tổng Lý năm 1966. - Sau khi quy tiên Ngài Minh Thiện được ân phong quả vị Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ ngày 10-01-1973. Trong đàn cơ ngày 10-7 Ất Hợi, Ngài cho biết quả vị là Bác Nhã Thiền Sư Nguyên Quân Bồ Tát. Đạo nghiệp Đạo nghiệp của Ngài Minh Thiện to tát thế nào thì chúng ta có thể lượng biết nhờ thánh giáo của Đức Thần Oai Viễn Trấn Quan Thánh Đế Quân dạy ngày 02-11 Tân Mùi (10-12-1931): “Phàm người tu hành mà đặt đặng một bộ kinh sám khuyên chúng làm lành thì người ấy đặng thành Tiên. Còn người văn chương quân tử mà làm đặng một pho sách dạy chúng luân thường đạo lý thì người đặng thành Thánh.” Sơ khảo sự nghiệp trứ tác, biên dịch: “Khi sanh tiền Bần Tăng quý nhứt là kho tàng kinh điển của chùa. Các Thiên ân cố gắng giữ lại cho người sau và cho mình khi thì giờ rảnh rỗi. Tất cả rồi đây sẽ có một cuộc cải cách sâu rộng. Nhưng Thượng Đế cũng đương xúc tiến một cuộc cải cách lớn lao cho nhơn loại. Đời muốn cải cách xây dựng một xã hội đặc biệt thì Trời cũng nhân đó mà làm một cuộc toàn diện lớn lao hơn để cho loài người trọn hưởng hồng ân của Trời trong kỳ hạ nguơn tái tạo này. Nói thế để các Thiên ân suy gẫm mà yên lòng.” Đức Bác Nhã Thiền Sư Minh Lý Thánh Hội, 05-6-1974 Nhờ thông suốt Hán văn nên Ngài đã đọc qua hầu hết kinh sách Phật Giáo bằng Hán văn. Ngài thường họp với các đại đức, thượng tọa, hòa thượng để nghiên cứu học hỏi rành mạch giáo lý này. Đăng đẵng hai mươi lăm năm ròng rã một dạ kiên trì với tâm từ bi độ dẫn chúng sanh, với ý chí mãnh liệt trung hưng chánh pháp. Ngài đã: - Kết tập lời dạy của Thiêng Liêng để hình thành nên các bộ sách: Minh Lý Chơn Giải, Đạo Học Chỉ Nam, Dịch Kinh Huyền Nghĩa. - Trước tác các loại sách để cho Minh Lý môn sanh tu học, bao gồm Tam giáo, như: Phật Giáo Yếu Lý, Phật Giáo Tâm Lý Học, Tam Qui Ngũ Giới; Nhị Thập Tứ Điều, Hiếu Kinh và Phụ Mẫu Thập Ân; Cảm Ứng Luận, Tài Liệu về Huyền Công cho các lớp dự bị, sơ cơ, trúc cơ cũng như các sách riêng về đạo, như: Minh Lý Học Thuyết, Minh Lý Yếu Giải, Tiêu Ngữ của Minh Lý Đạo, . . . - Biên dịch phong phú các thể loại về tu tập tâm truyền, như: Dưỡng Chơn Tập, Tỉnh Thế Ngộ Chơn, Thiền Pháp Yếu Giải, Chỉ Quán Tọa Thiền, Huỳnh Đình Kinh, Thanh Tịnh Kinh, Đạo Đức Kinh, Báo Ân Chân Kinh, . . . - và những bài giảng như Luận về việc ăn chay, Luật Nhân quả, Luật Tiến hóa, Nghiệp, giảng nghĩa các bài kinh . . . Đặc biệt là sự tài hoa trong việc tinh gọn bài “Tín Tâm Minh” của Tam Tồ Tăng Xán từ 73 câu, mỗi câu 8 chữ (584 chữ) còn 10 câu (80 chữ) và Việt dịch thành 20 câu, mỗi câu 7 chữ (140 chữ) dễ học, dễ nhớ và thường đọc trong buổi đầu nhập tịnh của Minh Lý Đạo. - Hoàn chỉnh ngôi chủa Tam Tông Miếu tại quận 3 (năm 1957) để có chỗ toàn tâm thực hành chí đạo và môn sanh Minh Lý có nơi thờ tự. - Xây dựng dãy nhà phố gần chùa cho đạo hữu thuê ngụ, hầu tạo điều kiện thuận tiện cho việc công quả, cúng lễ. - Lập nghĩa trang Tam Tông Miếu tại quận 11 để môn sanh và thân nhân quá vãng có chỗ yên nghỉ và mua thêm đất xây trường tiểu học Xuân Phong để giúp đỡ cho con em nhà nghèo nơi đó có điều kiện học tập. Đến năm 2005, nghĩa trang Tam Tông Miếu trở thành Báo Ân Từ, là nơi lưu di cốt sau khi cải táng các mộ. - Xây dựng Bác Nhã Tịnh Đường tại Long Hải, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (năm 1972) làm nơi tu tập thiền tịnh cho môn sanh trong đạo và các tín đồ của các tôn giáo bạn. Đức Bác Nhã nói : « Mục đích xây dựng Bác Nhã Tịnh Đường, cốt để giữa nhau trong Minh Lý ai nấy cũng được tu được luyện, trở nên bậc chơn tu giải thoát, mới đủ đảm nhiệm quyền pháp, gánh lấy sự nghiệp nhơn sanh, thì nơi đó chư Thiên ân nên lưu tâm và đặt mình chăm siêng tu học (TN 10-3-1973). Công đức Với những công trình đồ sộ về Pháp, Tài, Lữ, Địa khi còn sanh tiền như trên nên khi quy tiên ngày 21/12/1972 (16/11 Nhâm Tý), Ngài đã được Tam giáo phong tặng quả vị: Bác Nhã Thiền Sư – Tam Tông Pháp Chủ (Thánh ngôn 02/01/1973). Điều đó có nghĩa là Ngài Minh Thiện lúc này là Bác Nhã Thiên Sư vẫn là Định Pháp Tổng Lý của Minh Lý Đạo, (về mặt vô vi) vẫn có trách nhiệm hướng dẫn, dìu dắt, chỉ bảo môn sanh tu theo chánh pháp và với lòng từ bi lân mẫn, Ngài đã dùng công đức tu hành rất nhiều kiếp để hồi hướng cho tất cả môn sanh cùng thân nhân quá vãng bằng việc xin Thượng Đế và Tam Giáo Tổ Sư thành lập Bát Địa Hồng Danh để độ các chơn linh về đó tiếp tục tu luyện cho sạch chướng duyên, vẹn toàn thánh thiện. Vào mùa xuân Quý Dậu, Đức Bác Nhã Thiền sư tâm sự với môn sanh: “Ôi! Một kiếp làm người tự đổi hình cầm thú, mà Bần Tăng xin Thượng Đế, Tam Giáo, quần Tiên đem công đức mấy mươi kiếp tu trì nguyện hồi hướng trọn cả cho môn sanh Minh Lý, dầu sống chưa tròn đạo đức, chết cũng được tiếp độ, không để linh hồn theo nghiệp mà dẫn vào đường lục đạo. Nên khi nào được thấy đạo hữu lâm chung trút linh hồn, đến dẫn về Bát Địa Hồng Danh nung luyện cho sạch chướng (duyên) để sớm vẹn toàn thánh thiện. Đức Tiên Cô dạy: “Nhờ sanh tiền có tu, nên Bác Nhã Thiền Sư mới nhờ sức thần thông của Tam Giáo mà lập Bát Địa Hồng Danh để tiếp độ các chơn linh về đó an cư, tiếp tục tu luyện cho đến khi nào tâm địa viên thành y như các danh địa ấy như: 1. An Lạc Địa: Để trị cái tâm phiền nhiễu. 2. Thanh Lương Địa: Để trị cái tâm sân hận. 3. Ly Cấu Địa: Để trị cái tâm ô nhiễm. 4. Hoan Hỷ Địa: Để trị cái tâm chấp nhứt. 5. Viên Thông Địa: Để trị cái tâm nê trệ. 6. Vô Ngại Địa: Để trị cái tâm chướng, ngăn ngại. 7. Vô Đối Địa: Để trị cái tâm phan duyên, đối đãi. 8. Bồ Đề Tự Tại Địa: để trị cái tâm bất định, câu nệ. Quy vị Ngài Minh Thiện quy tiên vào giờ Tý ngày 16-11 Nhâm Tý (Thứ Năm 21-12-1972), trùng ngày Vía Đức Phật A Di Đà. Vừa thoát xác thì Ngài được Tam Giáo Tổ Sư phong cho thánh vị là Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ và vào năm 1995 trong một đàn cơ dạy đạo, Ngài báo cho toàn Đạo biết rằng đã được Ơn Trên ân phong là Nguyên Quân Bồ Tát. Môn sanh Minh Lý trước khi sinh hoạt, hội họp, tu học đều niệm danh: “Nam Mô Bác Nhã Thiền Sư – Tam Tông Pháp Chủ – Nguyên Quân Bồ Tát Ma Ha Tát” để tưởng nhớ ơn nghĩa sâu dầy của Ngài từ lúc hữu hình đến lúc vô hình. Trong khóa tịnh Đông Chí tại Bác Nhã Tịnh Đường (Long Hải) 1974, ba Đấng Thiêng Liêng là Đức Trần Hưng Đạo, Đức Lê Đại Tiên, và Đức Vạn Hạnh Thiền Sư liên tiếp giáng đàn, ban cho bốn mươi câu kinh xưng tụng công đức Ngài. Đó là bài Xưng Tụng Công Đức Đức Bác Nhã Thiền Sư hiện nay Minh Lý Thánh Hội đọc trong buổi lễ tưởng niệm. 1/ Đầu cúi lạy Tam Tông Pháp Chủ, Nhớ ơn xưa sư phụ dựng gầy, Cơ đồ sự nghiệp còn đây, Nhờ Thầy mới có nơi này ngày nay. Tam giáo sở: Pháp, Tài, Lữ, Địa, Chọn lập trường chính nghĩa chơn tu, Công trình, công quả, công phu, Thường hành đạo sự, cần cù, chăm siêng. Thông Tam giáo, đơn thiền nhứt quán, Suốt lục kinh, tánh mạng tinh tuyền, Phụng thừa Tam giáo quy nguyên, Dung hòa tổng hợp chơn truyền về sau. 13/ Tâm bình đẳng coi nhau đồng thể, Hạnh nhứt như từ huệ độ đời, Đoan trang mẫu mực làm người, Nằm, ngồi, đi, đứng không rời oai nghi. Lịnh Tam Giáo chủ trì Minh Lý, Từ quan về khắc kỷ tu công, Gặp hồi bước đạo gai chông, Bên ngoài áp lực, bên trong bất hòa. Thuyền tế độ phong ba xô xát, Vững lái lèo, cạy bát một tay, Gian nan chí cả đâu nài, Kiến cơ nhi tác, sắt mài thành kim. 25/ Thân hướng đạo ba chìm bảy nổi, Chí quyết gầy cơ hội trung hưng, Tiền phong chiến đấu không ngừng, Thành công đem lại vui mừng vinh quang . Nay đệ tử trước đàn hiến lễ, Chạnh thương Thầy giọt lệ trào tuôn, Nhớ câu cây cội nước nguồn, Cô đơn chan chứa nỗi buồn làm sao! Vui mừng Thầy chứng cao vị quả , Tối thượng thừa Bác Nhã Thiền Sư, Độ đời đến chỗ nhứt như, Giúp con lái chiếc thuyền từ Tam Tông. Đệ tử nguyện một lòng tu học, Để đền ơn bảo bọc dắt dìu, Nối dòng sử đạo cao siêu, 40/ Đồng tâm nhứt trí là điều Thầy mong. [1]() Thánh ngôn, 29-5-1925 [2]() Thánh ngôn, 6-8-1926 [3]() Nay ở số 55/4 đường Huỳnh Thị Mai, phường 2, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Trước mặt nhà là con sông Bảo Định. [4]() Phủ Thống Đốc Nam Kỳ có Phòng Nhì phụ trách việc thương mại, với nhiệm vụ: “Chuyên về công việc cầu đường, nhà cửa, cùng các sở coi việc. Chịu giấy làm giá cả. Giấy hiệp đồng, lãnh biện vật hạng cùng công việc làm. Suy tính, làm giấy lãnh tiền về đồ dùng cùng công việc làm. Các kho dự trữ, cấp phát vật hạng. Đồ dùng xưa cùng đồ công nhu cho các phòng. Việc đường sá. Phân đường lộ, lấy mực cất nhà, mực đường. Xét dọn bộ sổ vật hạng, cùng bộ sổ công việc làm.” (Paulus Của, Sách Quan Chế, Sài Gòn 1888, tr. 13.) Như vậy, Ngài Minh Thiện là công chức hành chánh (dân sự). NGÀI MINH TRỰC
ÔNG VÕ VĂN THẠNH (MINH TRỰC) (1895-1976) 1. Thân Thế Ngài Minh Trực (1895-1976), thế danh là Võ Văn Thạnh, tự Trương Văn Học, sinh năm Ất Mùi (1895), tại xã Phước Vân, Tổng Lộc Thành Thượng, tỉnh Chợ Lớn (cũ), nay là xã Phước Vân, huyện Cần Đước, tỉnh Long An[1]. Thân phụ ngài là cụ ông Trương Văn Bền, thân mẫu là cụ bà Võ Thị May, pháp danh Bất Phàm. Ngài làm thâu ngân viên tại Hiệp hội thương mại Phi Châu - Đông Dương (Union Commerciale Indochinoise et Africaine). Ngài lập gia đình với bà Phan thị Sen, pháp danh Diệu Cơ[2]. 2. Đạo Nghiệp 1925 Ngài được Đức Thái Thượng Đạo Tổ cho nhập môn vào Minh Lý, ban Thánh danh Minh Trực. Ngày 18-9-1926, Quí Ngài nộp đơn xin thành lập Hội Tam Tông Miếu gồm 6 vị: Ngài Minh Chánh Âu Kiệt Lâm làm Chánh Hội Trưởng, Ngài Minh Thiện Nguyễn Văn Miết là Phó Hội Trưởng, Chánh Từ Hàn là Ngài Minh Trực Võ Văn Thạnh, Phó Từ Hàn là Ngài Minh Đàm Nguyễn Hữu Hay, Chánh Thủ Bổn là Ngài Minh Giáo Nguyễn Văn Xưng và Phó Thủ Bổn là Ngài Minh Truyền Lê Văn Ngọc. Điều lệ của Hội được nhà đương cuộc thời đó là Thống đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse chuẩn y vào 8-2-1927[3]. Theo điều lệ của Hội, tài sản của Hội được lập ra hay được tặng do quý Ngài quản lý, truyền từ đời này qua đời sau không được bán, nếu hội do nguyên nhân gì phải giải thể thì tài sản này thuộc về chùa Tam Tông Miếu. Do đó, năm 1932 tất cả quý Ngài đều làm di chúc về tài sản đứng tên chung này. Di chúc này được chứng thực bởi chính quyền thời đó, chứng tỏ tất cả quý Ngài rất thanh liêm minh bạch như điều quy thứ 3 của kinh Tứ Đại Điều Quy được tụng đọc hàng ngày. Chức Từ Hàn thuộc “Thơ ký thất”, thuộc thất thứ 6 của Bình Nghị thất, chức vụ chấp chưởng về văn hàn, giữ sổ bộ, Kinh sách, Thánh ngôn của Đạo v.v. Do đó,Ngài giữ chức thơ ký viên từ 1926-1932.
Sau 1948, Ngài tách ra khỏi Minh Lý Đạo lập giáo hội Thiền Tịnh Đạo Tràng, chủ trương Thiền Tịnh song tu. Ngài quy vị năm 1976. [1] Theo tiểu sử do Phật Bửu tự công bố [2] Hồ sơ cá nhân tại Tam Tông Miếu [3] Điều lệ hội Tam Tông Miếu NGÀI MINH ĐÀM
NGÀI MINH ĐÀM THIÊN PHONG QUẢNG TẾ CHƠN NHƠN.
Thân phụ tên Nguyễn Hữu Học, Thân mẫu tên Lê Thị Dến. Quê quán tại Thủ Dầu (Một (Bình Dương). Ngài là người con duy nhất của gia đình.
18-11-1925 Ngài được Đức Đông Phương Sóc xin Đức Quan Âm Bồ Tát ban Thánh danh Minh Đàm
Năm 1934-1941 ông đổi về Châu Đốc làm việc. Sau khi ông Minh Chánh quy vị, có những thế lực muốn chiếm đoạt chùa, theo lời yêu cầu của ông Minh Thiện, ông Minh Đàm xin về Sagon để cùng ông Minh Thiện chăm lo việc đạo cho đến khi quy vị. 1942 -1961: ông giữ chức Tài Chánh Viên trông coi Tài Chánh Thất. Năm 1960 Ông thay mặt Tam Tông Miếu, lập trường tiểu học Xuân Phong tại Quận 11 để dạy trẻ em nghèo. Sau 1975 trường này được giao lại cho chính quyền nay là trường dạy nghề của quận 11. 1957, thay mặt ông Minh Thiện ông đứng ra làm chủ lễ xây cất lại chùa Tam Tông Miếu 1961, một tháng sau lễ lạc thành Tam Tông Miếu, ông nhẹ nhàng từ giả vợ con rồi trở về Thiên quốc. Do sự đóng góp của ông vào sự nghiệp xây dựng Tam Tông Miếu, lễ tang đã được tổ chức long trọng tại Tam Tông Miếu như những vị đã xuất gia. Sau khi quy vị ông được thiên phong Quảng Tế Chơn Nhơn.
Đức Thánh Hưng Đạo Vương qua Thánh ngôn 11.3.1973 đã ban: “Đạo pháp nên hư, quan hệ ở người Thiên ân …. Minh Chánh thì có những tay tá trợ vững mạnh như Minh Thiện, Minh Trực, Minh Truyền, Minh Đàm, v.v…” Đức Thánh Hưng Đạo Vương cũng phân giải rõ ràng qua Thánh ngôn 29.7.1972: “Phương chi chư muội là người của Đức Từ Tôn chọn vào Thập Nhị Nữ Đồ đầu tiên trong Đạo Minh Lý. Trong sự chọn này Thiêng Liêng cũng nhắm vào tiền căn có sổ ở Thiên đình, mà cũng nhắm vào khả năng tu học, nhắm vào công đức của tiền bối có công khai sáng như Minh Đàm, Minh Giáo, Minh Ngôn…” [1] Điều lệ hội Tam Tông Miếu [2] Tam Tông Miếu ngày xưa được cai quản bởi Bình Nghị thất: gồm sáu thất (Tam Thánh Thần Đàn,Tổng cán sự thất, Củ Nghi thất, Thư Ký thất, Thứ Vụ thất, Tài Chánh thất). “Thứ Vụ viên” là người cai quản “Thứ Vụ thất” với nhiệm vụ: lo việc tạo tác và phần tu bổ trong ngoài v.v… NGÀI MINH HẠNH
NGÀI MINH HẠNH Thiên phong: ĐĂNG MINH CHƠN NHƠN -----oOo----- I/ TIỂU SỬ Ngài Minh Hạnh thế danh: TRƯƠNG VĂN KÝ. Sanh ngày: 15-1-1907 tại Hiệp Ninh -Tây Ninh. Nghề nghiệp: Giáo viên tiểu học, Trưởng ban quản trị trường Xuân Phong và Bình Dân Học Vụ. Ngày nhập môn 1- 3 - 1927 Pháp danh: CHƠN HI Thánh danh: MINH HẠNH Hiền nội : bà Lê thị Dinh, pháp danh Toàn Xương. II/ QUÁ TRÌNH TIẾN ĐẠO - 1927 HƯỚNG TỊNH SƯ - 1930 CHÍ TỊNH SƯ - 1931 TÂM TỊNH SƯ - 1960 THANH TỊNH SƯ ( Hội nghị viện phong) - 1965 KHIẾT TỊNH SƯ - 1973 VĨNH TỊNH SƯ III/ CÔNG NGHIỆP - 1935 nhân viên TƯ DƯỠNG SƠ - CHỦ TỊCH BAN THỦY - TỔNG CÁN VIÊN 1950?-1969 - 1969-1981 CHỦ TRÌ Tam Tông iếu - 1981 PHÁP CHỦ. - LÀ CHỦ TRÌ - PHÁP CHỦ nhưng không xuất gia. - Sau khi qui vị thiên phong: ĐĂNG MINH CHƠN NHƠN NGÀI MINH ĐỨC
NGÀI MINH ĐỨC (1904-1945) Thế danh Nguyễn Văn Hoài, sinh ngày 10-07- 1904. Nhập môn 20/04/1926, pháp danh Chơn Đơn, Thánh danh Minh Đức. Tiền kiếp là học trò của Liên Hoa Tán Tiên. Cấp đạo khi quy vị :Thanh Tịnh sư 1935-1938: Thứ vụ viên &Tư dưỡng viên Quy vị ngày 03/09/1945 Thiên phong LY CẤU CHƠN NHƠN 1981 NGÀI MINH HÓA
NGÀI MINH HÓA (1884-1964) Thế danh Nguyễn Minh Đức sinh năm 1884. Ngày 20/04/1926, Đại Thánh xin cho nhập môn với pháp danh Chơn Hương, năm 1961 Hội Nghị Viện phong Thánh danh Minh Hóa. Tiền kiếp là dòng dõi Hồ Hán Thương. Cấp đạo khi quy vị Thanh Tịnh sư. 1938 -1964 Củ Nghi viên Ngài qui vị 13/03/1964, Thiên phong MINH QUANG CHƠN THÁNH 1965 NGÀI MINH CƯỜNG
NGÀI MINH CƯỜNG (1907-1994) Thế danh Lâm Thiên Hứa, sinh ngày 05/03/1907 tại Thuận Hòa-Sóc Trăng. Nhập môn ngày 15/01/1930, pháp danh Chí Huệ, Hội Nghị Viên phongThánh danh Minh Cường 1961. Cấp đạo khi quy vị Vĩnh Tịnh sư 1938 Tài chánh viên 1961 Củ Nghị viên 1962-1969 Chủ trì 1969-1994 Cố vấn Bình Nghị Thất Qui vị năm 1994 Thiên phong HẠNH NGUYÊN CHƠN THIỀN NGÀI MINH NGÔN
NGÀI MINH NGÔN (1885-1967) Thế danh Lê Kim Bằng, sinh năm 1885. Nhập môn ngày 25/03/1926, pháp danh Chơn Tánh, Thánh danh Minh Ngôn. Cấp đạo khi quy vị Thanh Tịnh sư 1938 Thứ Vụ viên 1950 Thư ký viên Ngài qui vị 14/11/67 Thiên phong PHỔ THIỆN CHƠN NHƠN ngài khai minh
Ông Khai Minh , tục danh Lê Văn Lợi, tự Lê Văn Danh, sanh năm 1905 (Ất Tỵ) tại làng Phú Cường tỉnh Thủ Dầu Một (bây giờ là Bình Dương), con ông Lê Văn Cầu và bà Nguyễn Thị Đa. Cha mất sớm lúc còn nhỏ tuổi, ông được bà Cô (ở Thị xả Phú Cường, tỉnh Thủ Dầu Một) nuôi và sau đó ông Chú Lê Kim Bằng (Ngài Minh Ngôn) đem về nuôi cho ăn học, làm lại Khai sanh ghi ngày sanh là 29-3-1908 để đi học. Năm 1924-1925, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Năng, năm 1926 sanh được một con gái tên Lê Thị Hảo. Sau khi sanh chị Lê thị Hảo thì bà mất. Năm 1927, ông làm Thơ ký Thương Mại, sau đó vào làm Phụ Kế toán cho Hảng UCIA Sài Gòn đường Chasseloup Laubat (Chợ Đủi), cư ngụ tại số 156 đường Marchel Richard. Năm 1936, ông kết hôn với bà Lê Thị Nhơn (sanh năm 1912) và dời về ở số 5 đường Nguyễn Trải, xả Phú Cường, tỉnh Thủ Dầu Một ở trong dãy phố 10 căn của Võ Văn Vân. Sau đó ông dọn về nhà mới ở số 5 đường Nguyễn Trải. Nói chung, ông bà có tất cả 10 người con chung gồm 5 trai và 5 gái. Suốt từ năm 1944 đến 1946, ông cùng gia đình đã trãi qua nhiều công việc để lo cho cuộc sống. Đồng thời đây cũng là thời gian đất nước ở giữa hai thời kỳ Pháp-Nhật và thời kỳ kháng chiến chống Pháp, kháng Nhật của đoạn Phong Trào Thanh Niên Tiền Phong, người con lớn của ông là Lê Hoàng Phái đã nghe theo tiếng gọi cứu nước, tham gia kháng chiến chông thực dân Pháp. Đến năm 1947, hoàn cảnh đã đưa ông về ở chùa Tam Tông Miếu xin vào làm Thơ ký kế toán Hãng Air France. Gia đình phải trãi qua hoàn cảnh chật vật khó khăn mới có thể lo cho các con ăn học. Năm 1949, người con thứ tư của ông là Lê Thành Hưng, mới 16 tuổi, đang học lớp Supérieur (lớp Nhứt) trường Nam Tiểu học Thủ Dầu Một, xin phép Ba Má tôi vào khu theo anh Hai Phái. Ba Má tôi ngậm ngùi cho phép nhưng tôi biết cả hai buồn lắm. Năm 1952, thì nghe tin anh Hưng hy sinh ở Bến Cát. Sau này, khi Hàng Không Việt Nam ra đời, thay thế Air France, cuộc sống có khá hơn, nên ông điều kiện tốt hơn để lo cho gia đình. Năm 1955, ông được HKVN cho mua căn nhà dành cho nhân viên số 380/19 trong chung cư ở đường Công Lý Sài Gòn (bây giờ là Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Nhờ vậy mà gia đình lại được sum họp cùng nhau. Về phương diện giáo dục con cái, ông rất nghiêm, dạy từ chút, dặn điều gì về việc học hay tư cách của chúng tôi, ông thường viết lên tấm bảng đen treo ở vách tường, như không muốn con trai học đàn, đánh cờ tướng, phải lo chăm học v.v… Mỗi sáng ông kêu con cháu đang ở chung với mình lúc đó là Lê Thiện Tùng (Đại Khai), Lê Thiện Phương, và Phạm Như Huệ (pháp danh Thanh Tâm, con ông Khai Trừng Phạm Văn Kiều, anh của Đại Cơ Vô, Đại Cơ Nhã) thức dậy đọc Kinh lúc 6 giờ sang trước khi đi học, và buổi tối sau khi ăn cơm xong. Từ năm 1959, các con ông là Lê Thiện Tùng, Lê Thiện Phương lần lượt tốt nghiệp trường Cao Đẳng Công Chánh, có việc làm, có thêm thu nhập. Điều nầy đã giúp gia đình ông nhẹ bớt gánh nặng. Tánh ông ít nói, lại bình dân, bình đẳng, đối với người làm thương như bà con cật ruột và rất thương người nghèo, thường hay giúp đở bà con còn khốn khó. Nổi buồn mất mát và hạnh người tu Năm 1953 người con gái thứ 9, chị Lê Thị Thanh Tân mất vì bịnh ban đen, kế tiếp mẹ ông cũng mất. Năm 1963 người con là Lê Thiện Phương mất tại nhà đường Công Lý nhằm ngay sáng mùng một Tết. Năm 1968 người con thứ hai là Lê Hoàng Phái mất tại Gò Vấp trong dịp Tết Mậu Thân. Ông rất đau khổ trước tin nầy nhưng ông vốn ít nói nên chỉ âm thầm chịu đựng, vì gia đình ông là một gia đình ở hai bên bờ chiến tuyến, bên nào thua thiệt thì cũng đau đớn như nhau. Có lần ông nói với người con là Lê Thiện Tùng: “người tu thì phải chịu nhiều khảo đảo, thử thách mà vượt qua được thì mới tiến bộ”. Những biến cố xảy ra trong gia đình như phải chứng kiến con cái vĩnh biệt ra đi làm cho ông chán ngán cuộc đời trần ai khổ não trong vòng sanh lão bịnh tử, nên ông quyết tâm đi vào con đường xuất gia, tuân theo lời dạy của Ơn Trên qua bài thơ : Năm 1970 hiền thê của ông mất vì bịnh. Năm 1979 gia đình ông lại mất hết 5 người ngoài biển khơi: vợ chồng em thứ tám Lê Thiện Duyên (pháp danh Chánh Trung Quán) cùng con trai (Lê Minh Triết 5 tuổi), em Út, Lê Thị Thanh Lưu, và cháu Lê Thiện Kế (6 tuổi). Điều này khiến ông rất đau lòng, ảnh hưởng đến tinh thần và tiến trình tu luyện, nên Ơn Trên có dạy ông nên dẹp bớt đau thương mà lo tu tập. Ngày 21-2-1995 lúc 22 giờ 35 phút (nhằm ngày 23 tháng Giêng năm Ất Hợi) ông Khai Minh qui vị tại Chùa Tam Tông Miếu, hưởng thọ 91 tuổi.
Con đường tiến Đạo Ông Lê Văn Lợi nhập môn MLĐ ngày 6 tháng 7 năm 1927 do sự hướng dẩn của Ông Chú tôi là Ông Lê Kim Bằng (Minh Ngôn) 3 năm sau Minh Lý Đạo Khai năm Giáp Tý, với pháp danh là Chí Quảng,
Con đường hành đạo Trong Hội Thánh Minh Lý, ông Khai Minh đã giữ nhiều chức vụ :
Trích tài liệu, Thánh ngôn
Điều thứ ba : …ông Chí Quảng (Lê Văn Lợi) được cử giữ chức vụ Củ Nghi Viên và Tài Chánh viên. Điều thứ tư : Ông Chí Quảng (Lê Văn Lợi) , Thanh Tịnh sư, lấy pháp danh mới là Khai Minh Đạo Tổ điểm danh (TN 27-11-1965) : “Khai Minh, đàn tới Bần Đạo xin Chí Tôn ban luôn quyền pháp, nhân dịp thọ ân lần nầy, cho đủ tay hành sự.
Cảnh thế đồ luống chịu lầm than. Vì đời sớm bước lên đàng, Hồi minh khử ám, ân ban chờ ngày. Khai Minh, dự bị nhiệm vụ Khiết tịnh, nhưng còn chờ sự giải thoát của đệ tử nên tạm giữ Thanh tịnh trong thời gian 6 tháng, chờ đệ tử chuẩn bị.
Sau khi Ngài Định Pháp Tổng Lý Minh Thiện qui tiên, ông Khai Minh được bổn đạo bầu làm Tổng Lý Hành Pháp năm 1973 theo lời dạy của Ơn Trên (Chiếu Biên Bản phiên họp Chức sắc Ba Ban : Bình Nghị Viên, Tư Dưỡng Sở và Nữ Giới ngày 11-2-1973 nhằm ngày mùng Chín tháng Giêng năm Quí Sửu).(4) Hưng Đạo Đại Vương (TN 03-05-1973) trấn an và khuyến khích ông Khai Minh ở chức vụ Tổng Lý được Ơn Trên ban phong :
Thiện tài đức tột trên trời cao, còn đệ tử thì ở dưới đất cát, thì làm sao cán đáng nỗi cái vai trò của ông Định Pháp cho nỗi, xin Ngài xem xét cho đệ tử nhờ.
tử sáng tỏ mà giúp Đạo.
Đông Phương Lão Tổ ( TN 29-12-1973 ) điểm danh Tổng Lý Khai Minh : Khai Minh ! Bần Đạo tặng hiền đệ đôi vần thơ lúc chung niên : THI Tổng Lý kế thừa đạo lý khai, Đức tu chớ ngại chỗ sơ tài; Tình thương mới vững cầm quyền pháp, Nên được dành cho buổi hậu lai.
Năm 1974 Ông Khai Minh xuất gia nhập tự. BNTS ( TN 13-01-1974) điểm danh : Đạo mạch KHAI thông tự bấy lâu, Ngọn đèn MINH LÝ tỏ làu làu. Cơ Quan TỔNG yếu gìn then chốt, Đạt được LÝ rồi Đạo mới sâu. VHTS (TN 20-12-1974) điểm danh : Khai Minh! Bác Nhã Thiền Sư rất hài lòng trước sự kỉnh thành, hành đúng thiên ý của chư môn sanh Minh Lý Thánh Hội. Khai Minh là Tổng Lý được nối tiếp đạo nghiệp, cần tu nhiều công đức vô lượng để trọn lãnh trách nhiệm đương vi lái thuyền Tam Tông trên dòng biển khỗ. Đạo Tổ (TN 14-2-1975) điểm danh : Xuân Ất Mão ban ơn đệ tử, Cảnh trần gian trọn giữ tánh lành. Cho nên sứ mạng nhơn sanh, Thiên ân Trời đã sẳn dành ban trao. Khai Minh được đứng vào thánh sắc, Chí tâm đạo nghiệp lập thành, Lấy pháp quyền dìu dắt môn sanh. Trọn tu tánh mạng tử sanh thoát vòng. Đặc biệt Đức Linh Bữu Thiên Tôn (TN 21-2-1984) ban cho Tổng Lý Khai Minh nguyên một bài đàn nhắn nhủ và dạy việc Đạo : Ban ân Khai Minh LINH BỬU THIÊN TÔN Thánh hộ trì, Truyền thần khai thị Đạo vô vi; Hoàn nguyên tự tánh, tâm không tịch, Xe pháp thường luân xuất Thánh-nhi. ………. Bác Nhã Thiền Sư (TN 11-7-1985) điểm danh : Gởi Khai Minh Khai thông thế bí đạo nhà thông, Minh mẫn tâm cơ nhẹ khỏa lòng. Quyền pháp trong ngoài yên ổn định, Công thành chiếu triệu hội Tiên bồng. Hưng Đạo Đại Thánh (TN 7-7-1986) điểm danh : ….. 11. Về Khai Minh, người anh cao quí, Có chi đâu chư vị bồn chồn; Mọi điều đừng nóng, đừng nôn, Tâm thành sẽ được CHÍ TÔN ban lành. 12 - Thừa Thánh lịnh cao xanh TAM GIÁO, Chỉ dụ cho toàn đạo, Khai Minh; Xa xa trên bước tiền trình, Bao nhiêu ngoại cuộc nội tình tương quan. 13 - Muốn thấy ngày huy hoàng tươi sáng, Phải cậy vào cơ bản nội tâm; Dầu cho kiếp nạn tương châm, “Tỳ lô” ẩn dạng, ai tầm cho ra. 14- Biết thì biết đó nhà muôn thuở, Lại coi như chỗ chợ ra vào; “Chuyên tâm nhứt xứ” thử nào, Sống vui chết khỏe, biết bao nhiệm mầu. 15- Trừng thanh khử trược mới vừa xong, Tổng Lý Khai Minh cứ vững lòng; TAM GIÁO thùy ân theo sở nguyện, Trời người vui đẹp mọi cầu mong. 16- Sống chết ngoài thân chớ nghĩ bàn, Mới là khác hẳn kẻ trần gian; Mong ngày đắc đạo về Tiên cảnh, Đợi lúc công thành nhập Thánh ban.
(3) Phổ Đà Bố Tát (TN 5-1-1994) thừa lịnh Tam Giáo ban Sắc Dụ ân phong Khai Minh lãnh chức vụ : “Tổng Lý Định Pháp (Khai Minh) bái mạng do hành pháp Khai Tịch; kế Hiệp Lý (Khai Ngộ) phụ tá Định Pháp đăng quang bái mạng;… Và nhân dịp nầy, Đức Chí Tôn giáng đàn điểm danh : Khai Minh gặp Đạo khéo tu hành, Lớn nhỏ trong ngoài thảy mến danh; Tuổi tác trải qua nhiều khó nhọc, Vì Thầy, vì Đạo gội muôn lành. Khai Minh, Thầy sở dĩ hôm nay mới xuống lịnh ban cho sứ mạng “Định Pháp” là vì thấy sức khỏe không đủ đương. Song dầu có yếu, khó gánh nổi về pháp tu, luật lệ và qui phạm của cơ chuyển mình đương lên của Minh Lý, để con thấy ơn Thầy đến mà mừng, đâu biết nhờ đó mà trẻ lại. Ngài Khai Minh qui vị tại Chùa Tam Tông Miếu, hưởng thọ 91 tuổi. Sau đây là Điếu văn của Ông Tổng Lý Tường Định đã đọc trước linh sàng cố ĐPTL Khai Minh. Sau khi nhắc lại cuộc đời và đạo nghiệp của Ngài Khai Minh, Ông Tổng Lý Tường Định đã đọc Sắc tứ Ơn trên ban phong cho Ngài Khai Minh như sau: Sắc Tứ : Chiếu Căn, Hạnh, Công đức, Nguyện lực, KHAI MINH Lê Văn Lợi, Thiên ân Tổng Lý Xét : Quá khứ thân, tích lũy phước duyên, kiếp kiếp có tu. Bố thí cúng dường Tam Bảo, chúng sanh. Thường hành Lục độ, giữ hạnh Lục hòa. Thanh tâm hỏa dục trong Pháp Đại Thừa. Hiện thân tại thế, gặp MINH LÝ Đạo khai, vào tu tịnh giái, Phụng Phật, kính Tăng, trì hành qui luật. Phát tâm giải thoát, nhập tự lập công. Đắc cử Chủ Trì, hiệp đồng cùng chức sắc và môn sanh chung lo sứ mệnh Sau kế tấn tôn Tổng Lý quyền pháp, quản chủ trong ngoài, đạo đời tương đắc. Đức tài khiêm tốn, lấy hạnh bình đẳng hòa sống với anh em. Mực thước kỷ cương, lấy thân giáo hóa, đáng bực chơn tu. Bồ Đề đạo hạnh làm gương cho môn Bác Nhã Đại Thừa của nền MINH LÝ
Chí Tôn chuẩn duyệt Và tiếp tục có đoạn văn như sau: Thưa chư đạo hữu Minh Lý môn sanh, Cố ĐPTL Khai Minh tuy không thuộc những vị tiền bối khai sơn phá thạch, nhưng cũng người trực tiếp thừa kế thực thi sứ mạng. Nay phận sự viên thành, ra về theo định luật : sinh, lão bịnh tử. Trong chốc lát, lễ di quan phát động, chung ta sẽ vĩnh biệt cái nhục thân của cố ĐPTL Khai Minh, nhưng chúng tôi tin chắc vong linh của Người, sau một thời gian tịnh luyện, ở cõi Thiên, sẽ cùng với bao nhiêu Thiên đồ Tiền bối, âm phò mặc hộ chúng ta trên đường sứ mạng phụng thiên sự dân. Còn lại chúng ta, chức sắc tịch Tường, Huyền Như sẽ nắm giữ những gì mà âm thầm tiến bước trên đường đạo ? Hãy noi gương cố ĐPTL Khai Minh trì hành vé chót của bài “Xưng tụng công đức” của Bác Nhã Thiền Sư : Đệ tử nguyện một lòng tu học, Để đền ơn bảo bọc dắt dìu. Nối dòng sử đạo cao siêu, Đồng tâm nhứt trí là điều Thầy mong. Xin cám ơn tất cả chư Quí vị. RẤT LÒNG THÀNH TÍN Tường Định Vào ngày 20/5/1995, Đức Bác Nhã Thiền Sư báo cho toàn đạo hay : Khai Minh trực chỉ thượng vân tiêu, Khấu bái hồng ân được độ siêu. Nay đã trở về Linh Bát địa, Chờ trao Chỉ dụ mới Thiên triều. Còn về Khai Minh chưa vội thỉnh đàn, chờ Sắc chỉ định cho người thế nào sẽ biết. Và Đức Bình Đẳng Diệu Quan Chơn Nhơn đã nhiều lần giáng đàn dạy Đạo. Tiêu biểu là đàn cơ ngày 19-7-1995 : KHAI cơ tận độ cứu linh căn, MINH Lý tánh không, Bác Nhã hằng. BÌNH định thức duyên quy bản thể, ĐẲNG đồng giác ngộ trọn tri năng. Tiểu Thánh chào chư thiên ân đệ muội. Chư đệ muội an tọa tịnh tâm lảnh hội những giáo lý chỉ thẳng nội tâm tu tịnh. Nguyên lý vũ trụ vạn vật ở cả nơi lòng ta, quay về nội tâm mà khám phá và khai thác phát triển, áp dụng vào đại thừa vô lượng nghĩa (tâm). “Vô Lượng Nghĩa” là vô lượng thần thông giáo vụ, mỗi mỗi đều có nghĩa lý. Cái tâm linh nầy rất huyền diệu, vạn năng.Tâm sanh muôn pháp, nhứt thiết đều nằm gọn nơi tâm. Chúng sanh sở dỉ mê mờ, ngu độn là vì vật dục, vọng nghiệp quấy động che lấp bản tâm, tự tánh, nên giác thành bất giác, bồ đề trở thành phiền não, lầm lẩn vì nhận lầm huyển hóa, ảo vọng mà quanh quẩn mãi trên đường lục đạo, xuống lên thọ quả báo mà không giải thoát được cái vô minh. Khi hồi tỉnh mà hồi đầu, đập phá vô minh, dục vọng, vất bỏ mọi thứ ái dục che lấp ngăn ngại, chôn sâu tự tánh. Chỉ có cái che lấp, cũng như mây mù che lấp mặt trăng, như ngọn đèn để trong chậu úp. Che lấp là vọng niệm. Vọng niệm, vọng chấp là nguyên nhân sa đọa. Tu là hồi quang phản chiếu. Quan là ngủ quan, lục căn, các căn nó giúp ta thấy, nghe, nếm, ngửi, xúc chạm, mà biết các vật bên ngoài, làm cho tâm hồn ý thức ta chạy theo sự thấy, nghe, nếm, ngửi, xúc chạm với sáu trần mà chấp mê sự vật, mới tạo nghiệp. Biết tu là quay ngược sáu căn : thấy, nghe, nếm, ngửi, xúc tiếp mà đem nó về nơi xuất phát, để sáu căn an định, rửa sạch trần duyên. Khi tâm đã giác ngộ mới có lòng lo Đạo, lo đời. Chừng đó ta tìm cách đem Đạo vào đời để cứu độ cái mê của chúng sanh, thoát vòng ảo hóa và ta khiến cho ai nấy cũng phát bồ đề tâm, khai tri kiến, nhập “Tam Ma Địa” vào tận Niết Bàn. Đó là đem đời về Đạo. THI : Minh Lý minh tượng hình tâm địa, Đại thừa vô lượng nghĩa là Tâm. Diệu pháp nầy vô lượng thậm thâm, Không duyên phước khó cầm giử được. Nó thông suốt tánh tình thanh trược, Tổng trì môn xuôi ngược đôi chiều. Cái động cơ phàm thánh đọa siêu, Làm Tiên, Phật, Ma, Yêu cũng đó. Lý là thể của Tâm sáng tỏ, Nhựt nguyệt còn trong đó chưa phân. Nên viên thông tự tại chánh chân, Cơ động tịnh có thần chủ tể. Thần vận dụng Khãm Ly hiệp thể, Lý là thần chủ tể Càn Khôn. Lý ở Trời, Thượng Đế Chí Tôn. Mà pháp giới thiên môn thái nhứt. Lý ở đời, Trung hòa, Chánh trực, Động tịnh theo thước mực, kỷ cương. Người người dụng sự sống tình thương, Tâm minh liểu nhờ nương ở Lý. Lý tánh hiện, đạt nhơn, đạt kỷ, Được huyền đồng nhứt vị thái không. Và ngày 28-8-1996, thừa lịnh Tam Giáo Tòa, Ngài giáng đàn bàn giao quyền Tổng Lý lại cho ông Khai Ngộ vì mãn nhiệm kỳ Tổng Lý : TỔNG LÝ KHAI MINH mãn nhiệm kỳ, Giờ đây KHAI NGỘ chấp quyền uy; Giao thoa thiên địa mười phương đạo, Thánh Sở, Thánh Đường sứ mạng y. ngài khai diệu
TỊNH CHỦ ĐẦU TIÊN CỦA BÁC NHÃ TỊNH ĐƯỜNG KHAI DIỆU NGUYỄN NGỌC DIỆP
[1] 19290525 [2] 19650924 [3] BB HNV11-11-1962 ngài khai tịch
NGÀI KHAI TỊCH – LIÊN HOA THIÊN PHONG: HỘ PHÁP -----oOo------ I/ Gia thế Ngài KHAI TICH – LIÊN HOA, thế danh: ĐàmThi, sinh năm 1913, tại làng Minh Hương, Hội An, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là Đàm Kim Xán, tiểu thương, người Minh Hương, tin thờ đức Quan Thánh, qui tiên năm 1924 và thân mẫu là bà Lê Thị Nghiêm, qui tiên khoảng 1947(?). Ông bà có 9 người con, 4 trai, 5 gái. Đạo trưởng là người con thứ tám trong gia đình, thuở nhỏ học chữ Nho với phụ thân, học quốc ngữ bậc tiểu học tại trường làng. II/ Đạo nghiệp Quá trình tu học, hoạt động và cống hiến bền bỉ, không ngừng nghỉ cho Đại Đạo của Ngài là một tấm gương sáng cho các lớp hậu bối học tập và kính trọng - Năm 1926: 13 tuổi nguyện trường trai, tu theo đạo Minh Sư - Năm 1928: 15 tuổi theo anh ruột là Đàm Thơ vào Saigon tìm hiểu và học đạo Cao Đài tại Thánh thất Cầu Kho, hằng ngày được gần gủi ông đốc Bãn, phán Tường, phủ Kỳ. Thỉnh thoảng đức Ngô viếng thăm Thánh Thất Cầu Kho có khuyên ông đốc Bản cho đạo truởng tập đồng. - Ngài có đến Thánh Tịnh Bồng Lai tu học đựoc điểm danh và đưa vào ban thông công làm độc giả. - Ngài tập đồng với tiền bối Lương Văn Bồi, dưới sự hướng dẫn tiền bối Vương Quan Kỳ và Đoàn văn Bản, được ban Thánh danh Liên Hoa và sung vào bộ phận phò loan của cơ quan hành đạo giữa các Thánh Thất quanh Saigon. Khoảng thời gian từ 1935-1940 ,Ngài Thủ cơ nhiều kinh đặc biệt như:
II/ Đạo nghiệp tại Minh Lý Đạo - Vào khoảng 1960, Ngài Liên Hoa được Đức Đạo Tổ xin Đức Vô Lượng Thọ Quang Như Lai chuyển vào Minh Lý Thánh Hội. Sứ mạng chuyển nhập Minh Lý là để hoàn thành giai đoạn quyền pháp của tịch Khai Khai khiếu huyền quang đến cửu trùng, Tịch đường yểm yểm thấu không trung,
- Năm 1967: Đông Phưong Lão Tổ ban Thánh Danh Khai Tịch, cấp bậc Thanh Tịnh Sư, nhân viên Bình Nghị Thất - Năm 1965-1967: tả kinh Minh Lý Chơn Giải - Năm 1968-1971: tả kinh Đạo Học Chỉ Nam - Năm 1972-1998: Bác Nhã Huyền Môn, Bác Nhã Khai Môn - Năm 1976-1982: Các khẩu quyết tu tịnh, mật thất - Thi bài chữ Tâm, Pháp môn thờ phượng - Năm 1980 -1982 : Khẩu quyết tu mật thất, ban Thần hộ mạng, Sắc Tứ cho quí Thiên Ân nhập thất - Năm 1984: Thập Mục Ngưu Đồ, - Bác Nhã Không Môn Ngoài ra ông còn là: - Bình Nghị viên (1966) - Quản Lý Giáo Lý vụ (1967). - Trưởng phòng khám đông y châm cứu từ thiện tại Tam Tông Miếu (1976- 1994). Ngài đã đào tạo ra nhiều y sinh không phân biệt tôn giáo để phục vụ trên toàn quốc - Giảng sư tại Thánh tịnh Tân Minh Quang và các Thánh Thất. - Năm 1998, Ngài qui thiên với sắc tứ ân phong Tiếp Cơ Vệ Pháp Chơn Quân, Trung Hòa Trung Phẩm, thọ ký Vô Ngại Hạnh. - Năm 2010 Thiên phong: Liên Hoa Hộ Pháp µµµµµ Tài liệu Tham Khảo: 2014 Nguyên Hanh -Lược sử ĐT Liên Hoa 2014 Phạm v Liêm ” Mấy Nhánh rồi sau cũng một nhà” Thánh ngôn MLTH [1] .19670913b[1] ngài khai sắc
NGÀI KHAI SẮC THIÊN PHONG: DIỆU QUAN CHƠN NHƠN Thầy tôi sanh ngày 02 tháng 02 năm 1916 tại Hàm Tân (Lagi) Phan Thiết, khi đó ông Nội tôi đang làm thông phán bưu điện tại Phan Thiết. Khi mới sinh ra theo bà Nội tôi kể lại là thầy tôi khóc hoài, không dứt dù có dổ dành cách mấy, và trong miệng lại có 1 cái răng. Thời đó ở La Gi có đền thờ Thầy Thiếm, nên bà mới đem thầy tôi đến đó để gọi là ký bán (vô vi) cho Thầy Thiếm, nhờ nuôi dùm. Quả thật sau việc làm nầy thầy tôi hết khóc. Sớm mồ côi cha vào năm lên 9, thầy tôi sống cùng bà Nội tôi và người anh là bác hai tại Biên Hòa. Thuở nhỏ học trường tiểu học Nguyễn Du Biên Hòa và được sự dạy dỗ kèm cặp của người cậu Tư là ông Đốc Vĩnh (bà Nội thứ năm, ông cậu thứ tư) nên Thầy là học sinh rất giỏi của tỉnh Biên Hòa, mà Pháp văn là môn giỏi nhứt. Lớn lên học trung học tạị trường Pétrus Ký, có bằng tú tài phần I ban B (năm 1935), sau đó nghỉ học ở nhà do phải chăm sóc bà Nội bịnh, nếu không thì Thầy tôi cũng xong tú tài phần II. Năm 1936, ông thi vô làm công chức, ngạch thư ký hành chánh, về sống tại Saigon và lập gia đình 3 năm sau đó. Năm 1954 thầy tôi sang Pháp du học theo chương trình đào tạo của chánh phủ và tốt nghiệp trường Quốc Gia Thuế Vụ Ba Lê. Năm 1956 trở về Việt Nam, ông tiếp tục công tác trong ngành thuế vụ và tài chánh qua các chức vụ Thanh Tra Tài Chánh, Bộ Tài Chánh(1965),Tổng Thơ Ký Bộ Kinh Tế(1966), Phó Tổng Giám Đốc Thuế Vụ (1970-1972). Thầy tôi xin nghỉ hưu trước thời hạn ỡ tuổi 56(1972). Năm 1959, gia đình tôi dời nhà vô Xóm Củi, nơi thầy tôi làm việc trong cương vị Quận Trưởng (Chủ Tịch) Quận 8. Lúc ấy Quận 8 không đông đúc như bây giờ, cư dân phần đông là người Hoa sanh sống bằng nghề thủ công, như làm đèn cầy, phết giấy vàng bạc, quấn các khoanh giây kẽm … Quận 8 với các địa danh như Hưng Phú, Chánh Hưng, Xóm Củi v.v…được xem như địa phương rất xa với đô thành Saigon. Phần đông người ta chỉ biết muốn vô tới Xóm Củi thì phải qua cầu chữ Y, nhưng thực ra từ bưu điện Q.5 rồi qua cầu Chà Và là đã thấy chợ Xóm Củi. Dịp nầy thầy tôi đã kết bạn với một Sư từ Nam Vang về Quận 8 cất chùa. Vì từ nước ngoài về nên Sư chưa rành thủ tục, nhờ vậy mà thầy tôi đã tận tình giúp đở với mọi phương tiện để có được ngôi thờ Phật mang tên "Chùa An Phú" mà Sư Thích Từ Bạch là chủ trì đầu tiên. Chúng tôi gọi cha mẹ là thầy mẹ, tôi cũng không hiểu vì sao lại gọi cha mình là thầy, trong khi mọi đứa trẻ khác thì gọi là ba. Thầy Mẹ là cách gọi cha mẹ mà ta thường gặp ở một số người miền Bắc xưa, còn trong miền Nam rất hiếm gia đình có cách gọi như vậy. Thầy tôi là người trực tánh, nghiêm khắc nhưng bao dung rộng lượng, rất mực thương yêu vợ con. Ông là người quảng giao rộng rãi, đối đãi tốt với người ngoài cũng như với các bà con trong gia đình nội ngoại. Ông cũng là người trọng tình thầy trò và quý mến bằng hữu. Thầy tôi mất vào giờ mẹo ngày 3 tháng 4 năm Canh Thân nhằm ngày 16 tháng 5 năm 1980, hỏa táng tại đồi Bs Tín ở Thủ Đức. Có một điều lý thú là khi đi lấy tro cốt, chúng tôi bới trong đóng tro tàn thì lại bắt gặp nguyên 1 cái răng còn nguyên vẹn ! Chiếc răng nầy được trang trọng cất trong họp, để trên bàn thờ thầy tôi. Trên bước đường hành đạo, chiếu theo Quyết Nghị của Bình Nghị Thất do Ông Chủ Trì Nguyễn Văn Miết ký ngày 15 tháng 7 năm 1961 thì Ông Nhựt Tân (Phạm Thanh Thời) lấy pháp danh mới là Khai Sắc , giữ chức Thơ ký viên trong Bình Nghị Thất. Và theo qui định của Bình Nghị Thất thầy tôi chính thức là Bình nghị viên giữ chức Tổng Cán viên từ năm 1970 cho đến cuối đời. Tiếp theo đây tôi xin chuyển bài diển văn của Ông Tổng Lý Khai Minh đọc nhân dịp lễ Đại tường thầy tôi vào ngày mồng 3 tháng 4 năm Nhâm Tuất (1982). Thanh Thời, Khai Sắc, Diệu Quan Tiên, Chào các thiên ân, liệt quí hiền. Từ được chuyển y đăng Thánh vị, Thọ quyền lảnh lịnh độ trần duyên. Đây là một bài thi xưng danh của Ông Khai Sắc trong một đàn cơ ngày 02-04-1981, Ông Khai Sắc để lời chào mừng chư quí liệt vị. Kính thưa chư quí vị quan khách, quí vị thân bằng, quyến thuộc và chư quí đạo hữu. Ông Khai Sắc tức Ông Phạm Thanh Thời , từ trần ngày mồng 3 tháng 4 năm Canh Thân, nhằm ngày 16 tháng 5 năm 1980, nay đã đúng 3 năm tang. Chúng tôi thiết lễ Đại tường cúng Ông, mà thấy chư quí vị niệm tình dự lễ đông đủ, chúng tôi hết sức cãm động . Một lần nữa chúng tôi thành thật cãm tạ tấm thạnh tình nầy. Ông Khai Sắc là Minh Lý Môn Sanh, Tổng Cán Viên, một chức sắc cao cấp của Đạo Minh Lý. Đạo đức uyên thâm của ông, ông được chỉ định của Thiêng Liêng giảng giáo lý cho đạo hữu , đã bao lâu năm rồi giảng giải giáo lý mà không hề than mệt.Ông minh mẩn sáng suốt,vui vẻ với mọi người. Mỗi khi có nghị bàn điều gì, thì ông quyết đoán rất mau mắn lẹ làng. Ông thường làm việc gì cũng đến nơi đến chốn. Công trình kiến thiết ngôi chùa Thánh Sở và Bác Nhã Tịnh đường ở Long Hải của Ngài Cố Định Pháp Tổng Lý tốt đẹp làm sao, thì cái công trình kiến thiết ngôi mộ của Cố Định Pháp Minh Thiện nguy nga tốt đẹp hoàn hảo đó đều do công của Ông Khai Sắc lo lắng, tìm kiếm kiến trúc sư, thầu khoán thiện nghệ đều do ông hết. Đó kể sơ vài việc nhỏ mà thôi. Hồi còn sanh tiền trò chuyện, ông có ý muốn ly gia cắt ái, nhưng gẩm tình thế hoàn cảnh, khó có thể dung nạp ý kiến đó, nên tôi làm lơ, không dám đốc vô. Trong lúc bịnh tình, ông được Ơn Trên theo dõi, nâng đở và hộ trì, dưới thì chúng tôi cũng lo liệu chu toàn, nên gần giờ lâm chung mà tinh thần ông vẫn tỉnh táo dặn dò mọi việc với gia đình. Ông gởi gắm tôi nhờ can thiệp với gia đình cho xác ông phải hỏa táng mà thôi. Ông Khai sắc dủ áo ra đi , để lại sự đau đớn cho gia đình và cả chúng tôi thêm chịu một sự thiếu thốn thiệt thòi, khó hàn gắn lại được. Nhưng may thay ! ngày 22 tháng 11 năm Canh Thân , Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giá lâm ban quyền pháp cho Ông Khai Sắc là Diệu Quan Chơn Nhơn và thọ trì sứ mạng thay mặt cho Đức Bác Nhã Thiền Sư sớm hôm thường lui tới gần gủi để chỉ bày mọi việc cần thiết cho chúng tôi. NGỌC ẩn non kỳ chọn kẻ trao, HOÀNG thiên có phụ một ai nào. THƯỢNG căn được dự hàng Tiên Thánh, ĐẾ đạo pháp quyền mới được trao. Thầy mừng các con nam nữ. Thanh tịnh, được phép an tọa nghe Thầy dạy. Hôm nay, Thầy giá lâm ban quyền cho KHAI SẮC và ban ơn cho thiên-ân nam nữ các con. (….) Thầy phong cho : Phạm Thanh Thời, KHAI SẮC hành quyền sử vị hộ trì Chánh pháp Minh-Lý cả Thánh Đường và Tịnh Đường, thọ nhiệm nơi Thầy được ân phong : DIỆU QUAN CHƠN NHƠN. 29-12-1980 Thôi ! việc Ông Khai Sắc thì chư quí vị cũng đã biết ít nhiều , bây giờ để đền đáp sự tình nghĩa của chư quí vị có mặt hôm nay , tôi xin cống hiến chư quí vị lời tường thuật của chính ông Khai Sắc , sau khi lìa trần vả đã được đăng Thánh vị là Diệu Quan Chơn Nhơn , ông về cơ ngày 29-12-1980 như sau : Chào mừng chư thiên ân, đạo hữu : KHAI SẮC, PHẠM THANH THỜI, Nhờ Thầy cứu thảnh thơi. DIỆU QUAN, ân thánh hóa, Đi lại cõi người, Trời. Hôm nay tiểu đệ được hân hạnh thọ Thiên mạng ân phong, được từ đây gần gủi Thánh Sở, Thánh Đường cùng sống trong ơn quyền pháp, chia sớt nặng nhọc cùng toàn đạo, hộ phò chư thiên ân nam nữ làm tròn Thiên lịnh đã giao. Thì giờ cũng cạn, xin lược thuật một vài việc : Khi đệ lìa khỏi cõi trần với bao nhiêu sự ly kỳ, chính tôi và tất cả anh chị em hiện diện hôm nay khó thể ngờ. Xin mời thiên ân và đạo hữu an vị. Cách đây trên 5 thế kỷ, vào đời Lý Huệ Tôn, đã một lần mang danh kỳ đồng giáng thế, tên là Dương Thiên Tích, may mắn nhờ Ân Sư giác tỉnh mới được phục hồi nguyên vị. Lần này, cũng vì công cuộc tái tạo chuyển ngươn Thánh đức của Chí Tôn, được sinh hạ phàm giúp đời. Khi sanh tiền, sớm được cơ duyên gặp bạn gặp Thầy vào đạo tu hành. Nhờ Ân Sư điểm hóa mở nguồn giác thức, tâm tự rổng thông, tưởng mình như đã chứng chỗ “Không Môn Bác Nhã” của Thầy, mới bao phen cùng với anh chị em luận bàn đạo lý, lòng muốn nhập tự ly gia, nhưng chưa có cơ duyên, thì chẳng may mang lấy nghiệp bịnh, sớm từ giã đạo hữu và gia đình. Lúc ấy như không biết mình chết hay sống, bổng đâu chợt bị một trận phát hỏa dữ dằn, lan khắp cháy thiêu những bà con họ hàng, bằng hữu, huynh đệ, đồng đạo. Tất cả đều lăn lộn, oằn oại trong dòng lửa, khốn khổ vô cùng. Chính lúc đó tôi lòng như xé, như cắt từ đoạn, cứ nhào vô đống lửa mà cứu lấy con, lấy vợ, anh em thân thích nhưng vô hiệu. Tôi tưởng như một sự thật bi hồn, khủng khiếp, lòng như điên như dại, thì trên không có tiếng Ân Sư đọc bài “Bác Nhã Tâm Kinh” gọi tôi tỉnh ngộ. Những sự việc đó là vọng nghiệp trong A-lại-da thức của tôi. Bao nhiêu chủng tử mà bấy lâu tôi giâm cấy, chăm nom quen thuộc, cái tình đạo, tình đời chứa chan chồng chất ở lòng. Thương con, mến vợ, quý bạn, trọng Thầy, nào sống chết có nhau, trải qua cuộc đời ký nhập ở tâm thức, thì một gáo nước thiền dễ chi rửa sạch nghiệp oan. Dầu nói tu, nói luyện, nói tận trừ chủng lậu nhân duyên tưởng chừng như hết, nhưng thực thì chúng đã chìm sâu trong A-lại-da. Đến khi tôi được vào lò thiêu, thì cái kho chủng tử cũng theo sát tôi mà thiêu, chúng sống lăn lộn như thực, không sai một ly một tí nào. Ân Sư bảo nên định thần mà nhìn thẳng vào Chơn Tâm thử coi có gì. Tôi liền tỉnh ngộ, mới hay trong lúc sống chưa dẹp được thức tâm, mà mê cái diệu hóa của thức như mình chứng vào ngôi Bác-Nhã. Sau đó thì lửa tự tắt rụm, mọi sự đều thiêu rụi trong đống tro tàn. Tôi liền theo Thầy về nơi Tịnh-Đường ngơi nghỉ, liền có lịnh Đạo-Tổ cho Thầy trò tôi vào cung Đâu-Suất. Nhờ ơn cứu độ, tôi vào “Tam Muội Chơn Định” mới rửa được trần. Ôi là hạnh phúc ! Hôm nay cũng một dịp để tâm tình. Nếu hoàn cảnh dễ dàng thì cả đêm này câu chuyện mới thỏa mãn. Song việc muốn không thể y nguyện, chẳng biết nói gì hơn, chắc từ này về sau sẽ gần gũi nhiều, gặp gở mãi. Phiền anh chị em vì tôi cho phép cùng gia đình vài chuyện : Minh cô và các con ! Chúng ta may duyên xum họp trong một gia đình được sống trong nề nếp nho phong. Nhờ phước xưa mà cùng một mối tình thấm thía giữa nhau, cộng hưởng ơn Trời. Tuy chưa được cao sang, nhưng cũng tạm cho hạnh phúc về đời, mà cũng được duyên lành toàn gia ngộ đạo, sớm biết đường chơn quay về lẽ thật. Mà chúng ta gặp đây không phải trong một kiếp này, đã trải qua nhiều đời, dòng máu hệ tộc, dòng điển siêu linh kết hợp kéo níu với nhau như chuổi hạt không rời. Vui vui, khổ khổ, cười cười, khóc khóc, đói đói, no no, vinh vinh, nhục nhục, đã nhiều lần cách xa không hề mẻ sứt. Nhưng đó là giả nghiệp để cùng nhau trả trả, vay vay, cứ thế mà quanh quẩn trong sáu đường xuống xuống lên lên ba cõi. Nay vợ chồng, cha con được gặp đạo, thấy lẽ thực hư, cũng đừng nên nhận giặc làm con, bỏ tâm theo thức, biết ngày nào mới được giải thoát tự do. Bổn phận của Minh cô còn tại thế, hết mình bảo hộ đàn con, chỉ lối đưa đường trở về lẽ thật. Và còn nhiều nhiệm vụ với đời : Về xã hội, về dân tộc, lo tròn nhơn đạo, nhắc nhở đám con xử xong nhơn đạo. Và các con đã khôn lớn biết được lẽ đời, lẽ đạo, phàm Thánh cân đo, thị phi tỏ rỏ mà vun tưới cội lành, phăn về nguồn đức để được sống trong ơn thanh phước đời đời. Nếu không được, thì giữ đúng giá trị con người để hưởng nhờ hồng phước, tránh tai tránh vạ. Nhắn nhũ các con, gái với trai, Trai lành gái hạnh, đức hơn tài. Đức tài cân xứng, thân tròn đạo, Đạo hiện nơi Đời, chẳng phải hai. Diệu Minh Cô! bổn phận làm đầu trong nữ giới, lảnh đạo toàn diện. Nữ tịnh cô, 1 gánh nặng vô cùng , phải làm sao cho đẹp ý Phật Tiên, vừa lòng em chị. Muốn được vậy, phải quên mình, đem thân làm cầu, đường cho mọi người bước lên mà về cõi Thánh, cung Thần. Phải nhẩn nhục, ôn hòa, nhường nhịn, hi sinh tất cả để lợi cho Đạo. Mình thiệt thòi, mà Thánh Hội vẽ vang, chị em tiến ích thì cũng ráng mà uống cạn chén đau khổ của đời, cho người người an vui, là điều Tiểu Thánh mong mỏi. Kính thưa chư quí vị, Trước khi dứt lời, chúng tôi xin giải phá một vài thắc mắc như : “Thấy được lễ cúng nghiêm trang, lại vừa nghe xong câu chuyện, thì là mừng đương sự đã đăng Tiên Thánh vị, sao còn cúng quãy mến tiêc, nhớ thương !” Xin đáp : Xưa Đức Không Tử từ trần, đám học trò cất nhà giữ mộ Thầy đến cả sáu năm, mới chịu thôi. Đối với Thầy mà còn hoằng hoại, tiếc thương như vậy, huống chi đối với cha mẹ .Việc hiếu sự để tỏ lòng mến tiếc , đúng như câu kết của bài thi nhắn nhủ các con của Ông Khai Sắc: “Đạo hiện nơi Đời, chẳng phải hai” Tôi xin thay mặt Bình Nghị Thất cầu chúc chư quí vị và gia đình hưởng được phước lành của Thượng Đế. Rất Lòng Thành Tín Tổng Lý Khai Minh . Theo truyền thống gia đình, năm 1940 ngày 04 tháng 11, thầy tôi nhập môn Đạo Minh Lý có pháp danh Nhựt Tân với cấp tu Hướng Tịnh Sư, vì cha là Phạm Thanh Tòng, Minh Lý Môn Sanh có pháp danh Chơn Huệ đắc quả vị Thiện Hạnh Chơn Nhơn, và mẹ là Lê Thị Vi pháp danh Nguyệt Tâm đắc quả vị Liên Trì Ngọc Nữ theo Sắc lịnh ngày 12&13 tháng 5 năm 1984 của Đức THÁI BẠCH KIM TINH truyền đạt. Cấp tu: Hướng Tịnh Sư 04-11-1940 Chí Tịnh Sư 1950 (BBHNV 11-6-1950) QNBNT -15-71961: Tâm Tinh Sư- BNV thánh danh khai sắc 15-71961 pháp danh Khai Sắc (BBHNV 15-7-1961 do ĐPTL Minh Thiện ký) Tâm Tịnh Sư 25-07-1965 (Chiếu BB HNV) Lần lượt, Ông Khai Sắc được Ơn Trên ban phong cho các cấp tu như sau: Thanh Tịnh Sư 02-10-1965 (Đức NHTĐ ban phong) Khiết Tịnh Sư 26-08-1967 (Đức ĐPLT ban phong) Vĩnh Tịnh Sư 04-02-1973 (Đức NHTĐ ban phong) Thầy tôi vẫn luôn nhớ đến các đạo hữu và hộ phò chư thiên ân nam nữ như lời Người đã dạy, như bốn câu Quán Thủ Thánh Ngôn ngày 4-10-1987: DIỆU khiếu nơi thân mở được rồi, QUAN thông cửa ấy hết đầy vơi; CHƠN tâm tịch chiếu không hình sắc, NHƠN ngã toàn như hỏi mấy người? (…) Những ai học phép tu thiền, Tâm không chấp trước trần duyên ngại gì. Chào ông Tổng Lý Chủ Trì, Chào mừng đồng đạo tôi đi trở về. Nên một lần nữa vào ngày 24 tháng 10 năm 2010 , Đức Hưng Đạo Đại Vương thay mặt Tam Giáo Tòa ban an vị Khai Sắc tại bàn thờ Long Thần Hộ Pháp nơi Thánh Sở Tam Tông Miếu. ngài khai ngộ
NGÀI KHAI NGỘ Thiên phong: THÀNH SỞ CHƠN NHƠN I- Thân thế : - Ông Khai Ngộ, thế danh: NGUYỄN VĂN CHÂU. - Sinh ngày 26/5/1916, tại: Saigon, trong một gia đình lao động. - Vợ ông là bà TRẦN THỊ NHI, quê ở Mỹ Tho, Tiền Giang. Gia đình bên vợ ông vốn theo đạo Cao Đài, phái Chơn Lý ở Mỹ Tho, Tiền Giang. - Ông có 5 người con (4 trai,1 gái). Cả gia đình ông, từ cha mẹ đến vợ chồng, con cái (con ruột, dâu, rể) đều là Minh Lý môn sanh. II- Cuộc đời và Đạo nghiệp : 1/ Sự nghiệp :
a/ Quá trình tu học và hành Đạo :
Lão Tổ tháng 3/1981). Ông đã gác qua việc đời để chuyên tâm vào việc Đạo, không thối chí ngã lòng, dốc sức điều hành việc Đạo, việc Chùa vượt qua giai đoạn đầy sóng gió, hành xử sáng suốt, chí công vô tư , tác phong luôn nghiêm trang, mực thước để làm đầu tàu, xứng đáng là kẻ cầm đuốc đi đầu của toàn Đạo lúc bấy giờ.
Đệ tử tự thấy xấu hổ cho chức phận thừa kế của mình, phụ lòng tin cậy của Tam Giáo phó trao… Đệ tử nguyện xin sau khi mãn nhiệm kỳ chủ trì, có thời gian lo tu luyện, sắp xếp, kết tập, phân loại bao nhiêu Thánh Giáo… Đệ tử cố gắng không vì chức tước hay phẩm vị trong khi bóng xế chiều tà, làm tròn bổn phận vi nhơn của một môn sanh trong cửa Đạo. Cúi xin Ơn Trên chấp thuận lời thỉnh nguyện của đệ tử, từ nay không nhận phẩm hàm, chức tước theo câu “vô danh, vô kỷ, vô công”treo ở Bình nghị thất.” Những lời thỉnh cầu chân thành của ông đã thể hiện một tâm hồn sáng trong, thanh khiết, không mong cầu, vọng tưởng, khi thực thi tam công của người hành Đạo. IV – Lời kết : Qua quá trình từ lúc còn làm việc ngoài đời, đến khi nhập đạo tu học và đảm nhận vai trò hành Đạo của người Thiên ân, Ông Khai Ngộ đã hoàn thành tròn vẹn hai mặt: Nhơn đạo và Thiên đạo. * Về Nhơn đạo: - Đối với gia đình, Ông là người cha nghiêm nghị, mẫu mực và trách nhiệm đối với con cái. - Đối với công sở, Ông là người trung thực, mẫn cán và thanh liêm. * Về Thiên đạo: Ông là người toàn tâm, toàn ý trong việc bảo Đạo, nghiêm túc trong việc gìn giữ giới luật, điều qui. Là bậc Thiên ân luôn ý thức được trọng trách của mình đối với Đạo cũng như toàn thể môn sanh Minh Lý, hoàn thành công quả, công phu, công trình bằng nỗ lực tự thân trên tinh thần: vô danh, vô kỷ, vô công. Do đó, khi thoát xác, Ông đã được ban sắc tứ: . . . . . . . . Không môn giải thoát, Khai Ngộ thâm tu. Thường hành thường giác, Tài thành sứ mệnh. Hôm nay, nhân ngày giỗ hội của các bậc tiền khai Minh Lý Đạo. Chúng tôi là kẻ hậu bối, con cháu của Ngài Khai Ngộ, xin tưởng nhớ và nguyện hành theo công nghiệp của Ngài nói riêng và chư vị tiền khai nói chung, để gìn giữ và hoằng dương mối đạo với tâm niệm: Tiền hiền sáng nghiệp, Hậu hiền thủ thành. ngài khai chơn
NGÀI KHAI CHƠN THIÊN PHONG: HUỆ NHỰT CHƠN NHƠN -----oOo----- I/ GIA THẾ Ngài Khai Chơn, thế danh là Nguyễn Văn Tấn, sanh năm Ất Mùi 1895. Thân phụ là tiền bối Nguyễn văn Phụng, Pháp Danh Chơn Từ - Thiên phong Thanh Dương Đạo Nhơn (TN 12&13/5/1984) và thân mẫu là Bà Nguyễn thị Đâu, Pháp Danh Diệu Bi – Thiên phong Hạnh Nguyên Ni Tử (TN 12&13/5-1984). Song thân Ông đều xuất thân trong một gia đình lao động thanh bạch, hiền lương chất phác. Ông là anh cả trong gia đình gồm có tất cả hai anh em. Ông chào đời tại quê cha Làng Lợi Bình Nhơn, Tổng Hưng Long, Long An nay thuộc xã Lợi Bình Nhơn - Thành Phố Tân An, Tỉnh Long An. Lập gia đình với Bà Đặng thị Huấn Pháp Danh Diệu Hạnh. Ông có tất cả sáu người con, trong đó, một người con gái xuất gia theo đạo Phật, một người con lập gia đình theo chồng vào đạo Công giáo, một người con theo Đạo Cao Đài, còn lại ba người con theo Đạo Minh Lý. II/ ĐỨC ĐỘ - NHÂN CÁCH Thân sinh của Ông là người có đạo đức nên sự giáo dục con cái trong gia đình rất nghiêm túc.Thuở còn nhỏ Ông đã dạy các con trở thành người tốt, biết lễ phép, sống trên thuận dưới hòa và yêu kính mọi người. Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh, nhìn thấy những hoàn cảnh khốn khổ xung quanh đã làm cho Ông sớm ý thức lẽ vô thường của cuộc đời, khiến lòng thiện tâm, từ hòa, tính vị tha trong Ông lớn dần theo thời gian và un đúc Ông trở thành con người rất tận tình tận nghĩa với bà con lối xóm, luôn quan tâm giúp đỡ mọi người. Ông thường giúp vốn cho các gia đình nghèo khó, cô đơn, thiếu thốn để làm ăn; Ông cho bà con mượn gạo, mượn lúa, tới mùa thu hoạch đặng mùa thì trả thất mùa thì thôi; Ông đã hiến hai công ruộng và tổ chức đào một ao làng để bà con có nước uống trong mùa khô cũng như quan tâm, thương xót, giúp đỡ những người bệnh, người già neo đơn, trẻ mồ côi. . . . Nhờ đức cao và lòng nhiệt tâm của Ông đã chuyển hóa gia đình , đồng tâm phát nguyện tu hành. Nhân việc sáng lập Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội vừa là Phòng thuốc nam Phước thiện vừa thực hiện tiêu chí Tu Học-Hành Thiện- Ích nước –Lợi dân nơi quê nhà , ông đã bàn với gia đình và đem 5 công ruộng vườn cúng dường Tam Bảo để hoằng dương Phật sự Ông luôn là bậc Trưởng thượng mực thước cho người dân làng Lợi Bình Nhơn thời đó. Ông luôn sống bình dị, đối với tự thân thì khắc kỷ, đối với người thì rộng lượng bao dung. Bất luận sang hèn, giàu nghèo, mỗi khi có dịp tiếp xúc, Ông luôn khuyến hóa tinh thần lấy việc tu làm quan yếu. Ai đã gặp Ông một lần cũng đều sinh lòng kính ngưỡng. Ông còn có tên gọi rất thân quen là “Ông Tương” vì Ông đã sớm phát nguyện trường chay, niệm Phật. III/ NGUYÊN NHÂN VÀO ĐẠO MINH LÝ Theo lời kể của Ông Tường Tú (chi đạo Long An): Vào những năm trước 1927, thân sinh Ngài Minh Thiện là Cụ Tôn Văn Thi, ngụ tại Xã Bình Lập, Thị Xã Tân An, hiện nay thuộc Phường 2 thành phố Tân An có tham gia giữ chức vụ Chánh bái Hội Quí tế Đình Nhơn Nhượng thuộc Xã Lợi Bình Nhơn - Thị xã Tân An, hiện nay thuộc Phường 6, Thành phố Tân An đã kết nghĩa với Ông Nguyễn văn Phụng là Kế Hiền (chức vụ trong Đình) của Đình Nhơn Nhượng là thân sinh của Ông Nguyễn Văn Tấn (tức 1à Ông Khai Chơn sau nầy). Tình thân ái, bình dị trong sáng giữa hai ông đã vun bồi cho sự nghiệp tu hành vì đạo pháp, trước tiên là trong thân tộc, họ hàng. Được sự dẫn dắt của Cụ Tôn Văn Thi, Ngài Minh Thiện đã hướng dẫn một số bà con thân thuộc trong gia đình Ông Nguyễn Văn Phụng nhập môn vào Đạo Minh Lý. Ngày 01 tháng 01 năm 1927, lễ nhập môn được tổ chức tại nhà Ông Kế Hiền Nguyễn văn Phụng, theo nghi thức của Đạo Minh Lý, gồm năm vị:
IV/ CON ĐƯỜNG ĐẠO NGHIỆP Theo lời kể của gia đình, trong suốt thời gian từ khi nhập môn (năm 1927 đến năm 1966). Ông về Thánh Sở, ra Tịnh Đường thường xuyên và mỗi lần về thăm gia đình Ông thường hay tâm sự với gia đình về ý nguyện của Ông: …. “ Tu phải học là điều trước hết; Học phải hành là điều đầu tiên…” Có lẽ với tâm nguyện đó. Thánh ngôn ngày 03-09-1965, Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương đã về đàn, dạy qua một vài nguyên tắc Dịch học và dạy riêng với Ông: Chơn Tu cơ hội tương phùng, Võ môn tam cấp, lúc rồng lên mây Thánh ngôn ngày 2-10-1965 (8-9 Ất Tị) Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế cũng đã dạy: Chơn Tu phải cố kiên hơn nữa, Thanh tịnh sư bửa bửa trau giồi Công phu, công quả tô bồi, Làm sao công cuộc phục hồi chóng lên. Trong những năm 1967, Tịnh Đường đang trong thời gian xây dựng còn nhiều trở ngại khó khăn do hoàn cảnh chướng duyên, cần nhiều người chung tay góp sức. Thánh ngôn ngày 16/5/1967, ĐứcThái Thượng Lão Quân đã dạy: “…Các hiền đồ ráng tu thêm một bước nữa, thì nhà sát sanh kia sẽ dời đi, là thiền đường nằm trong Thánh địa..” “ Chơn Tu ! Bần Đạo muốn đệ tử bước lên một bước nữa mà hầu việccho Đạo, cho Thầy …” Ngoài ý nguyện là toàn tâm, toàn ý lo cho Đạo. Ông còn là một vị tu hành gìn giữ giới hạnh thật nghiêm túc, luôn thể hiện một phong thái từ hòa, khiêm tốn. Có thể nói, thời gian Ông công quả ở Tịnh Đường là cả thời gian dài ly gia cắt ái, Ông tận dụng hết cả thời gian của mình để chuyên tu tịnh. Thế rồi hạt giống xuất gia đã nẩy mầm, năm 75 tuổi, Ông bàn bạc với gia đình, các con đều hoan hỉ, người con gái thứ tám (Bà Huyền Như Chơn) nhận nhiệm vụ đảm đương gia đình, thay cha chăm sóc Mẹ. Đến ngày 27/9/1969, Ông làm đơn xin tình nguyện xuất gia nhập tự tại Bác Nhã Tịnh Đường và được Hội Đồng Hội Thánh chấp thuận theo đơn xin. Sở nguyện thành đạt nên những chuỗi ngày hành đạo, Ông rất tận tuỵ với nguồn tâm an lạc, chuyên tu với một tinh thần khiêm nhường khả kính. Ngày 30-1-1971 Đức Thánh Trần Hưng Đạo đến, ban huấn giáo ngày Xuân khai cơ năm Tân Hợi và Ngài đã điểm danh Ông như sau:\ Chơn Tu cây đạo tốt tươi. Vun phân tưới nước đợi thời hưởng chung. Thánh Ngôn ngày 27-03-1971, Đức Lý Đại Tiên Trưởng,Thái Bạch Kim Tinh đã dạy : Chơn Tu đã vào đàng chánh pháp, Phải kiên trì bồi đắp quả công; Móng nền cho sẳn cho thông, Cột rường mới vững mới mong lập thành. Sau khi Đức Lý Đại Tiên Trưởng - Thái Bạch Kim Tinh điểm danh Ông, chín tháng sau, Thánh Ngôn ngày 11-12-1971 Đức Vô Cực Từ Tôn đã về đàn dạy riêng cho Bác Nhã Tịnh Đường : Sắc lệnh truyền trao chủ tịnh đường, Đôi vai quyền pháp xúm nhau đương. Dầu sao cũng gắng tròn công quả, Để đẹp lòng Trời cứu bốn phương. “ …Minh Thiện dầu tuổi già sức yếu nhưng cũng gằng đảm nhận Pháp Chủ, Khai Diệu Tịnh chủ, Chơn Tu Quản gia, Ban Giám thị tùy các con công cử; nhiệm kỳ 2 năm mỗi phiên mà chung lo nhiệm vụ….” Nhiệm vụ quản gia rất nặng nhọc, quản suất tất cả các công việc như người nội trợ trong gia đình, nhưng Ông vẫn tròn nhiệm vụ dù ở tuổi 78 là tuổi dành để nghỉ ngơi khó có ai đảm đương trọn vẹn, nên đức Phổ Đà Bồ Tát đã chấm công Ông: Chơn Tu vui biết vui với Đạo Có những ngày phước báu đến tay Nên kim sắt cố công mài Tu thành Đạo quả chẳng ngoài Chánh trung. Đến ngày 13/5/1972, Ông vinh hạnh được tấn phong vào hàng Thiên Ân chức sắc, với sự lâm đàn của đức Lý Thái Bạch: Đức Thái Bạch Đại Tiên lâm đàn Tiên thiên Đại Đạo - Minh Lý Thánh Hội Chiếu: Nhu cầu của quyền pháp giáo hội, Chiếu: Công đức công phu nguyện lực của một thiên ân, Chiếu: Sứ mạng chỉnh cơ lập pháp , khai cơ giáo pháp, chuyển cơ thành đạo Sắc lịnh: Gia ban quyền pháp cho Nguyễn văn Tấn được quyền pháp thiên nhơn thỏa hiệp dự vào chính vị HTML để cộng đồng sứ mạng. Nguyễn Văn Tấn thọ thiên ân ThanhTịnh Sư, tấn phong Khai Chơn được đặc ân vào chính vị . Và chỉ một năm sau Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ban Quyền Khiết Tịnh Sư cho Ông Khai Chơn. TN ngày 26/5/1973. Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy: “..Đây Bần Đạo ban Ơn cho Khai Diệu, Khai Chơn nhị đệ đã đi trên con đường đạo học khá cao…tuổi cao tác lớn. Nhị đệ hãy giữ nội tâm trì hành khẩu quyết, để chờ ngày trở lại quê xưa sẽ được tiếp dẫn tu luyện thêm nghe…” Khai Chơn nhờ được tánh Chơn Tu, Sớm thoát ra nơi chốn trược tù; Tướng lão nhưng tâm còn sáng suốt, Đó là ấn chứng của công phu. Ngày 01 /07/ 1974. Đức Ngôi Hai Giáo Chủ dạy Minh Lý Thánh Hội có một trọng trách, do vậy chư Thiên Ân phải biết mình cao trọng và có lời nhắn nhủ: Khai Chơn đệ cần lao tu niệm, Phát triển lòng hiển hiện đức oai; Công trình “luyện kỷ” bao ngày, Ban ơn chung sức chờ ngày đoàn viên. Thánh Ngôn ngày 20-12-1974, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư ban khen sau khóa Tịnh Đông Chí Khai Chơn: Bóng ngã hiên tây, bóng chập chờn, Tâm linh sáng suốt biết chăng ơn. Ơn Trời ,ơn Phật, ơn dìu dắt, Vạn dậm còn trông một chữ sờn. Thời gian nầy, Ông đã 82 tuổi, lãnh nhiệm vụ quản gia khoảng 5 năm và ở suyên xuốt Bác Nhã Tịnh Đường trên 15 năm. Lúc này tuổi tác đã cao, sức khỏe suy giảm, Ông cảm nhận thấy trước cơ duyên viên mãn. Ngày 28/5/1976 Ông làm đơn xin về nhà tu dưỡng, nhưng quyền Bình Nghị Thất chỉ ở phạm vi cho phép sáu tháng về dưỡng tu ở tại gia đình. Nhưng chỉ một tháng sau, Thánh Ngôn ngày 27-6-1976 Đức Hưng Đạo Đại Vương ghi lại công phu tu tiến sau mùa tu Hạ Chí cho Ông Khai Chơn: Bóng xế mà tâm vẫn vững vàng, Ân hồng ta sẳn để trao ban. Trọn gìn bổn phận nơi thiền thất, Một bước nên công chẳng muộn màn. Và chỉ một năm sau, TN ngày 16-7-1977 Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương ban Quyền Tịnh chủ cho Ông Khai Chơn : Khai Chơn quyền Tịnh chủ, Quyền Pháp được ban trao; Lo chủ trì Bác Nhã, Chiều sớm vững tu cầu. “ Ghế Tịnh Chủ rất quan yếu ở chỗ tâm hạnh làm mẫu mực oai nghi cho tịnh chúng, thay Pháp Chủ trông nom, hướng dẫn giờ giấc ăn nghỉ, tu tịnh cho tịnh viên. Công việc hằng ngày cốt là: đặt mình trong thanh tịnh cúng dường Thượng Đế bằng các thời công phu; giao nối với Thiêng Liêng dòng tư tưởng thanh cao để đón hồng ân; tự tỉnh nội tâm và rót thấm vào cho cây đạo Thánh Hội xanh tươi nẩy nở. Cái quan trọng nhứt là giữ được vô tâm đối với mọi cảnh thuận nghịch, mọi người trong đạo và ngoài đời. Phải có chí lớn: buông bỏ trần duyên, lo đường giải thoát. Phải có tâm lượng lớn: từ, bi,hỉ, xã, để phổ quang quảng chiếu, đồng nhứt với tự thể hồn nhiên. Phải có dũng cảm lớn: dám rửa tay buông sạch các mối tương quan thân sơ để lo đường tu luyện …” V/ NHỮNG NGÀY SAU CÙNG Vào những năm tháng cuối đời từ năm 1978 đến 1983 sức khỏe ở vào giai đoạn suy thoái trầm trọng như biết trước việc ra đi theo luật vô thường, Ông đã thuận lời thỉnh cầu của gia đình về an trú tại gia đình. Việc nầy TN ngày 28/11/1983 . Đức Thánh HĐĐV đã dạy : “… Nói đến tâm hạnh , công trình đến đức độ thì ông không phải lỗi, nhưng lỗi là không xin trình Tam Giáo….” Và đây cũng là nơi dừng chân cuối cùng trong cuộc đời tu học của Ông. Ngày 06 tháng 11 năm Quý Hợi (09-12-1983) vào lúc 23 giờ, Ông đã an nhiên thị tịch, trụ thế 88 tuổi đời, với 56 tuổi đạo. Và chỉ năm tháng sau, kể từ ngày Ông về cõi Thiên tu học. Đức Thái Bạch Kim Tinh về đàn ban sắc lệnh Hồng danh của Đức Chí Tôn và Tam Giáo, Phật, Tiên, Thánh, Thần từ bi ban Hồng ân: (TN ngày 12/5/1984) TAM GIÁO sắc phong : TƯỚC PHONG PHẨM VỊ NGUYỄN VĂN TẤN – KHAI CHƠN – HUỆ NHỰT CHƠN NHƠN Thật là một đặc ân hiếm có, Sau thời gian tu tịnh ở cõi Thiên, Đức Huệ Nhựt Chơn Nhơn được Ơn trên tiến dẫn về đàn (TN Ngày 11/9/1996) chúc mừng Hội Thánh Minh Lý và đặc biệt thăm tất cả Môn Sanh Long An và dặn dò gia đình KHAI môn phước huệ hợp cơ duyên CHƠN lý ngàn đời vững chắc yên HUỆ tánh mở ra “ không, sắc” hết NHỰT tâm quán chiếu ngộ chơn thiền CHƠN như hiển hiện, không căn cảnh NHƠN pháp đồng giao đủ vẹn nguyên Mừng giận buồn thương chưa phát hiện Thử coi phải Phật ,Thánh hay Tiên “ Chào chư thiên ân đệ muội . Hôm nay, Tiểu Thánh tá đàn có mấy lời chúc mừng Hội Thánh Minh Lý và tất cả Môn Sanh Long An. Lúc nào Tiểu Thánh cũng hỗ trợ tất cả Thiên Ân . Ngày mùng 01 tháng 8 là ngày vui của toàn Đạo . Đạo sự sắp xếp phải cho chu đáo hoàn thiệ . Về phần Chư đạo tâm Long An cũng rộn ràng lo cho buổi lễ sắp tới. Tiểu Thánh có vài lời Cùng Huyền Như Chơn và Tường Nhiếp : Hai con ráng tu hành công quả sốt sắng hơn, bồi công lập đức cho chơn tâm khai mở sáng suốt, mới mong hành đạo được tốt đẹp hơn. Vài lời cùng tất cả chư Thiên Ân: Ráng tu tịnh nhiều hơn, trí Bác Nhã khai mở thì việc Đạo mới thông suốt, làm ít kết quả nhiều. Thung dung tự tại là quan khiếu của lẽ tự nhiên. Tiểu Thánh chào chư thiên ân đệ muội”. Cuộc đời Ông Khai Chơn đến rồi đi, tự tại, vượt lên tất cả thị phi, thường tình của thế gian. Ông đã sống một cuộc đời bình dị, khiêm cung. Đối với Đạo gần trọn đời tu tập, hành đạo để tiếp nối dòng sử Đạo trường tồn mà Ân Sư Mình Thiện đã dày công vun đắp. Chi đạo Long An phát triển được như ngày nay cũng là công đức của Ông đã thắp sáng ngọn đèn chánh pháp. Ông là một vị Đạo trưởng, là cây đại thọ, là bóng đại bồ đề cho ngôi nhà Minh Lý ở Long An . Xin trân trọng cảm ơn Ông Tường Tú, Chư quí Đạo hữu Long An, Thành Phố, Tịnh đường và gia đình Ông Khai Chơn đã cung cấp những tư liệu quí báu giúp cho Đại Cơ Phá hoàn thành bài viết nầy. ngài tường định
NGÀI TƯỜNG ĐỊNH THIÊN PHONG: TỊCH QUANG CHƠN NHƠN Ơn Trên khai sáng Minh Lý Đạo 明理道 tại Sài Gòn ngày 27-11 Giáp Tý (Thứ Ba 23-12-1924), môn sanh nam nữ mặc đạo phục màu đen. Về sau, Đức Thái Thượng Lão Quân 太上老君 dạy lập một cảnh chùa (nay ở số 82, Cao Thắng, quận Ba). Chùa thờ Tam Giáo Đạo Chủ 三教 道主 (Đức Thích Ca Mâu Ni, đạo Phật; Đức Thái Thượng Lão Quân, đạo Tiên; Đức Khổng Tử, đạo Nho). Bởi thế, Đức Diêu Trì Kim Mẫu 瑤池金母 ban cho chùa hiệu Tam Tông Miếu 三宗廟. Khi lập chùa, Đức Thái Thượng Lão Quân ban cho hai đôi liễn, trong đó có một đôi dùng để đặt thánh danh cho các môn sanh Minh Lý: MINH KHAI TƯỜNG ĐẠI ĐẠO / LÝ HIỂU ĐẠT THÂM UYÊN. Môn sanh đời sơ thủy có thánh danh với chữ MINH 明, và mười hai vị tiền khai của Minh Lý Đạo là quý ngài: Minh Chánh (Âu Kích, 1896-1941); Minh Cường (Lâm Thiên Hứa, 1907-1994); Minh Đàm (Nguyễn Hữu Hay, 1899-1961); Minh Đạo (Nguyễn Văn Đề, 1893-1925); Minh Đức (Nguyễn Văn Hoài, 1904-1945); Minh Giáo (Nguyễn Văn Xưng, 1891-1957); Minh Hạnh (Trương Văn Ký, 1907-1984); Minh Hóa (Nguyễn Minh Đức, 1884-1964); Minh Ngôn (Lê Kim Bằng, 1885-1967); Minh Thiện (Nguyễn Văn Miết, 1897-1972); Minh Trực (Võ Văn Thạnh, 1895-1976); Minh Truyền (Lê Văn Ngọc, 1887-1965). Thánh danh môn sanh đời thứ hai có chữ KHAI 開 (như Khai Ngộ, Khai Sắc, v.v…). Thánh danh môn sanh đời thứ ba có chữ TƯỜNG 詳 (như Tường Chơn, Tường Định, v.v…). Hiện nay là đời thứ tư, thánh danh nam môn sanh có chữ ĐẠI 大 (như Đại Bác, Đại Mạng, v.v…); thánh danh nữ môn sanh có thêm chữ CƠ 姫 (như Đại Cơ Bác, Đại Cơ Minh, v.v…). * Đức Quyền Siêu Tịnh Sư TƯỜNG ĐỊNH, Tổng Lý Minh Lý Thánh Hội, thế danh Lê Chơn Huệ, sanh ngày 08-12 Mậu Thìn (Thứ Sáu 18-01-1929). Năm 1953 Ngài nhập môn Minh Lý Đạo, pháp danh Thanh Phước. Năm 1973 Ngài thọ phong thánh danh Tường Định. Ngài lần lượt thọ nhậm các phẩm đạo như sau: Hướng Tịnh Sư (tháng 01-1953); Chí Tịnh Sư (tháng 9-1965); Tâm Tịnh Sư (tháng 12-1965); Thanh Tịnh Sư (tháng 8-1967); Quyền Khiết Tịnh Sư (tháng 02-1973); Quyền Vĩnh Tịnh Sư (tháng 01-2002); Vĩnh Tịnh Sư (tháng 5-2011); Quyền Siêu Tịnh Sư (tháng 10-2017). Ngài lần lượt thọ ơn thiêng liêng nắm giữ các trọng trách như: Chủ trì Tam Tông Miếu (tháng 01-1994); Hiệp Lý Minh Lý Đạo (tháng 10-1996); Tổng Lý Minh Lý Đạo (tháng 12-2005). Ngài quy vị lúc 20:05 giờ, mùng 7 tháng Giêng Tân Sửu (Thứ Năm 18-02-2021), thượng thọ chín mươi bốn tuổi. Ngài thọ Thiên phong sắc tứ là TỊCH QUANG CHƠN NHƠN. * CHƯƠNG TRÌNH LỄ TANG Đức Quyền Siêu Tịnh Sư TƯỜNG ĐỊNH Tổng Lý Minh Lý Thánh Hội Lễ nhập quan: 08:00 ngày 19-02-2021 (mùng 8-01 Tân Sửu), quàn tại thánh sở Tam Tông Miếu. Lễ viếng: từ 10:00 ngày 19-02-2021 (mùng 8-01 Tân Sửu). Minh Lý môn sanh viếng: 15:00 ngày 20-02-2021 (mùng 9-01 Tân Sửu). Đọc điếu văn tiễn biệt: 05:30 ngày 21-02-2021 (mùng 10-01 Tân Sửu). Lễ di quan: 06:00 ngày 21-02-2021 (mùng 10-01 Tân Sửu). Hỏa táng tại Bình Hưng Hòa (quận Bình Tân, TpHCM). Lễ an vị: 12:00 tại Báo Ân Từ ngày 21-02-2021 (mùng 10-01 Tân Sửu). Ban Tổ Chức Lễ Tang * Suy niệm về đạo quả TỊCH QUANG CHƠN NHƠN Hoan hỷ kính mừng cố đạo trưởng Tường Định, thế danh Lê Chơn Huệ (1929-2021), Quyền Siêu Tịnh Sư, Tổng Lý Minh Lý Thánh Hội, đắc đạo quả TỊCH QUANG CHƠN NHƠN 寂光真人, Đạo Uyển trân trọng chia sẻ suy niệm như sau: TỊCH 寂 là lặng lẽ, vắng lặng (quietness, silence, stillness). Chữ TỊCH này cũng là chữ TỊCH trong câu 19 bài Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo 玉皇天尊寶誥: Trạm tịch chơn đạo 湛 寂 眞 道. Thường nói TỊCH TĨNH 寂靜 (quiet, calm). QUANG 光 là ánh sáng (light), sự sáng (brightness). Thường nói QUANG MINH 光明 (bright), Hai chữ TỊCH QUANG gợi nhớ tới câu thứ hai bản tiếng Anh bài thánh ca Silent night! Holy night! (nguyên tác: Stille Nacht! Heilige Nacht!) của linh mục Joseph Francis Mohr và thầy giáo kiêm nhạc sĩ Franz Xaver Gruber (đều là người Áo): All is calm, all is bright. (Tất cả lặng lẽ, tịch tĩnh; tất cả quang minh, rực rỡ.) CHƠN NHƠN (CHÂN NHÂN) 真 人 (True Man) là bậc đã bất sinh bất diệt, siêu xuất ba cõi. Ba cõi (tam giới 三界: the three realms) là dục giới 慾界 (the desire realm), sắc giới 色界 (the form realm), và vô sắc giới 無色界 (the formless realm). Ba cõi này có bên trong thân người. Hành giả luyện tinh có thể siêu xuất khỏi dục giới; luyện khí có thể siêu xuất khỏi sắc giới; luyện thần có thể siêu xuất khỏi vô sắc giới. Vậy, bậc Chơn Nhơn luyện tinh, khí, thần thành công nên đã vượt ra ngoài ba cõi dục giới, sắc giới, và vô sắc giới.([1]) Kinh Diệu Pháp Liên Hoa chép: Chẳng kẹt hữu vô, dứt hết sinh diệt gọi là chân nhân.([2]) Theo Phật Quang Đại Từ Điển 佛光大辭典 (Sa môn Thích Quảng Độ dịch), thì Chơn Nhơn tức là A La Hán 阿羅漢 (Arhat). Vậy, Chơn Nhơn nghĩa là Đấng đã thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử (free from samsara). Tạm dịch TỊCH QUANG CHƠN NHƠN là the True Man of Stillness and Brightness. * Hiệp tâm cùng quý Thiên phong chức sắc, chức việc, môn sanh Minh Lý Thánh Hội và đại gia đình Ngài Tổng Lý Tường Định, chúng đệ tử trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo kỉnh thành vọng bái Đức TỊCH QUANG CHƠN NHƠN, cầu nguyện Ngài hiển linh ban ơn lành điển huệ đến nhơn sanh bá tánh, phù trì vạn linh hồi đầu hướng thiện, sớm giác ngộ tìm tu, cùng bình an vượt qua tai kiếp dịch bệnh giữa thời hạ nguơn nước lửa sảy sàng ráo riết. RẤT LÒNG THÀNH TÍN. ĐIẾU VĂN TIỄN BIỆT ĐẠO TRƯỞNG TỔNG LÝ TƯỜNG ĐỊNH Q. SIÊU TỊNH SƯ MINH LÝ THÁNH HỘI Mậu Thìn 1929 – Tân Sửu 2021) Kính thưa quý đạo trưởng, quý Thiên ân, chức sắc. Kính thưa quý đại diện các ban ngành đoàn thể ở trung ương, thành phố, địa phương, cùng các đạo hữu, đạo tâm và các em Thanh Thiếu Nhi Minh Lý. Chỉ còn ít giây phút nữa thôi, chúng ta sẽ phải tiễn biệt Ngài Tổng Lý Tường Định, một trong những đạo trưởng được sự trân quý của môn sanh Minh Lý Đạo nói riêng và cộng đồng Liên Tôn nói chung. Trước anh linh của Ông, toàn thể môn sanh Minh Lý xin bày tỏ lòng kính yêu vô hạn, đồng thời xin được chia sẻ niềm luyến thương của gia đình đối với Ông, cũng như sự mất mát to lớn của toàn đạo. Âu, đó cũng là lẽ thuận thế vô thường. Than ôi! Sinh ký tử quy, Sanh thành trụ hoại. Dẫu biết: Đời là huyễn hoặc, vô thường, Sống là tạm trọ trần gian. Nhưng khi hay Tổng Lý về nguồn, Lòng quặn thắt, niềm thương khôn tả. Nhớ khi xưa: Theo gót cha anh, Duyên sáng phúc lành, Nhập môn vào đạo, Pháp danh Thanh Phước. Gắng sức tập hành, Bền bỉ lập công, Kiên tâm trì chí, Ý nguyện nên thành, Thánh danh Tường Định. Thương thay! Chín mươi bốn năm lâm trần nhập thế, Sứ mạng chu toàn trở lại quê xưa. Trọn một đời chẳng quản sớm trưa, Tròn đức hạnh cha, chồng, ông, cố. Vẹn mối đạo, chẳng hề nhọc khó, Xứng Thiên ân Tổng Lý, Chủ Trì. Mừng thay! Pháp - quyền viên thông, Đời - đạo viên thành. Chánh niệm viên dung, Pháp ân thọ mãn. Phúc thay! Nay đà thanh thản trở lại chốn xưa. Hội ngộ tiền khai, phục hồi cựu vị. Thuyền về đến bến, hoan hỷ bên Thầy. Lưu niềm kính thương, nơi người còn lại. Ngậm ngùi! Đôi lời tạm biệt, kẻ ở người đi, Tuy rằng phân ly, nhưng nguyền chung ý. Gắng chí bền tâm, khắc ghi lời dạy: “Minh Lý hoằng khai, Tam Tông trường cửu”. Nay rằng: Tường tỏ, Định an, Nhiệm vụ hoàn thành. Toàn thể môn sanh, Cùng Thanh Thiếu Nhi Minh Lý: Thắp nén hương, tiễn chân Người mau bước, Chước rượu nồng, kịp về trước Thiên Cung. Hạnh, Tín, Tâm, Công, Đức cao dày, Đặng Thánh Quả, mừng vui toàn đạo. Rất lòng thành tín. Hùng Vạn (21-02-2021 – Tân Sửu) ([1]) Giảng theo Tiên Học Từ Điển 仙學辭典 của Đới Nguyên Trường 戴源長; tiếng Anh dịch theo Trung Anh Phật Học Từ Điển 中英 佛學辭典: A Dictionary of Chinese Buddhist Terms, của William Edward Soothill và Lewis Hodous. ([2]) Dẫn theo Tiên Học Từ Điển của Đới Nguyên Trường. NGÀI ĐẠI BÁC
|
Lấy công phu, công trình công quả
Vô lượng tâm hỉ xã từ bi, Đặt lòng quyền pháp thực thi, Tự cường bất tứ kiên trì vô tư. Nhị thập bát Huyền như nương tử, Thọ chuẩn ẩn chờ dự thiên ân, Nữ nam nhiệm vụ chung phần, Công ngôn dung hạnh trau thân gái hiền. Xem thêm
Quí ở chỗ chính chuyên trinh liệt, Có gí gì xão quyệt phấn son? Sang giàu sự thể bằng non, Nết na hạnh đức không còn kể chi? Dầu không kịp tu mi nam tử, Cũng là trang thục nữ hảo cừu. Trưng vương, Triệu Ẩu danh lưu, Sử xanh còn biết bao người nêu gương. Biết san xẻ tình thương rộng rải, Hay lấy lòng hà hải bao dung. Thì ai chẵng đến với cùng, Còn ai muốn tín không trung với mình? Mình được lòng nhơn sanh yêu chuộng, Thì ý mình hễ muốn là nên. Một khi vì Đạo đứng lên, Giúp tay có đủ ba bên bốn bề. Bước tiền trình ê hề chướng ngại, Trách nhiệm này buộc phải làm xong. Không ai chung sức, chung lòng, Một thân đâu đủ phá vòng trùng vây. Phải cậy bạn nhờ thầy họp chúng, Cộng sức nhau xé phủng vô minh. Tỉ như chủ soái là mình, Chỉ huy khiển tướng điều binh trận tiền. Bởi vì thế, chức quyền trao gắn, Để đảm đương gánh nặng đạo nhà. Giỏi thì truyền bá rộng ra, Không thì giữ nước, giữ nhà, giữ thân. Thân giữ được cũng phần xứng đáng, Cũng làm cho Đạo rạng danh đền. Gương lành noi để tử tôn, Dung nghi cảm hóa đồng môn tập tành. Nhưng chưa phải ở lành là đủ, Khéo trấn an hàng ngũ là hay. Luyện cho ai nấy nên tài, Linh hồn được cứu khỏi tay vô thường. Đừng vì chút tình thương thấp thỏi, Lo bòn chen cất gởi về sau. Tương lai con cháu nên giàu, Biết đâu hư hỏng hại nhau vì tiền. Lo dạy con nên hiền, nên đạo, Chủ gia đình thuận thảo nên người. May ra mở mặt với đời, Dân yêu, nước chuộng nơi nơi cậy nhờ. Thời gian qua không chờ ta được, Nếu không lo trể bước lở thời. Hụt tay, muôn kiếp chơi vơi, Tái sanh biết được làm người nữa không? Đạo hữu ôi! vừng hồng sắp lặn, Mau quay chơn mới đặng kịp đò. Nếu mà quanh quẩn không lo, Chuyến đưa lần chót thì đò hết qua. Nên Trời Phật thiết tha thương xót, Khắp kiếm tìm kẻ sót chưa sang. Rảo kêu khắp cõi dinh hoàn, Con ơi! Con hỡi! dội vang núi rừng, Kêu cứ kêu, không dừng, không dạ, Lủi vào sâu, tai họa chẳng vừa. Kìa kìa hố thẳm thấy chưa? Ngàn nguy, muôn hiễm buông bừa thế sao? Trăm vạn thứ rừng đao, hố lửa, Lỡ sa chơn, không cửa lộn về. Có gì hay khiến mà mê, Ái ân, danh lợi, dỗ về phải không? Ngục tứ tướng, xiềng gông khó bẻ, Đã biết bao nhiêu kẻ trầm luân. Những tay bạt tụy siêu quần, Vì mê mà phải táng thân hại nhà. Kia xưa Sĩ Đạt Ta hoàng tử, Đủ uy quyền, danh dự giàu sang. Con xinh, vợ đẹp trăm đàng, Mà còn biết hất ngai vàng đi tu. Một mình giữa âm u núi tuyết, Chịu cơ hàn trải biết bao năm. Bồ đề tịnh tọa quán tâm, Hốt nhiên tỏ ngộ chứng thâm đạo mầu. Nay mới được năm châu sùng bái, Gội ơn người gieo rải pháp lành. Chư thiên bồ tát thực hành, Mười phương an lạc chúng sanh hướng hồi. Đã bày tỏ khúc nôi hơn thiệt, Giải lòng nghi mau quyết tu hành. Hiệp cùng Minh Lý môn sanh, Khai tâm Bác Nhã luyện thành huyền công. Vui sướng chi, chim lồng cá chậu, Vinh dự chi trần lậu ảo huyền, Sao bằng ngày Phật, tháng Tiên, Thung dung chẳng chút não phiền bận tâm. Tâm khó giữ khó cầm, khó đoán, Lẹ như tên chớp nháng như thần. Xuất kỳ, bất ý nan phân, Thừa vân giá võ đằng vân phi hành. Không sao biết, vô danh, vô thể, Không sao lường bách kế thiên phương. Ra vào không ngõ, không đường, Dạo chơi khắp chốn nhiễu nhương đủ trò. Mua vui trút cả kho không tiếc Chọc giận rồi chém giết không từ, Nỗi cuồng chẳng kể nên hư, Quên cha, quên chú, đệ sư kể gì? Tuy bạo ngược vô nghì là thế, Nhưng cũng giàu từ huệ thuần hòa. Biết mình hồi Phật, hồi ma, Tỉnh say, say tỉnh thành ra hai người. Tâm một tâm cả đôi mâu thuẫn, Người một người nghịch thuận tương tranh. Mang thân tứ đại hợp thành, Tánh kia mới thiệt trọn lành Trời ban. Tâm tổng chủ cơ quan lưỡng cực, Tịnh động do thần thức đương quyền, Thức thần khí bẩm hậu thiên, Nhẹ quên về Đạo, nặng quên về đời. Lúc vọng động lòng người lẩn thẩn, Nào vui buồn mừng giận ghét thương. Tâm khi an định bình thường, Thông minh hiền đức kỷ cương rõ ràng. Cũng lắm lúc thấy dàn đôi cảnh, Tà dấy lên thì chánh cản ngăn. Lỡ lầm mới biết ăn năn, Ăn năn rồi cũng cứ tăng lỗi lầm. Đạo tâm với nhơn tâm tranh chấp, Tánh tự nhiên che lấp bất quân. Biết tu chế ngự thức thần, Đem tâm hiệp tánh, hiện thân chơn thường. Tu học ít người biết sợ lo, Lo mau chuyến chót, kịp qua đò. Mãn vui thế sự quên chiều sớm, Lỡ bước chừng nào gặp lại cho? May được làm người, may gặp Đạo, Rủi sanh câm điếc, rủi trâu bò, Đạo trời mở rộng chờ đưa rước, Tu học ít người biết sợ lo. Đức THÁNH TRẦN giáng tiếp do đàn số 21C ngày 12.9.năm Quí Sửu Rút gọn
BÀ TOÀN LẠC
BÀ: TOÀN LẠC THIÊN PHONG: DIỆU ĐỨC NƯƠNG NƯƠNG Một trong các bậc tiền khai của Minh Lý Đạo mà Đại Cơ Huờn muốn giới thiệu là Bà Toàn Lạc. Bà Toàn Lạc, một hình ảnh về người phụ nữ ấm áp, tài ba, tháo vát luôn che chở, chăm sóc cho mọi người không chỉ ngoài đời mà cả trong đạo. Ngày đó, tôi còn quá nhỏ, thời gian gần bên Bà lại quá ít. Tuy là cháu nội của Bà nhưng tư liệu về Bà Toàn Lạc đều do chị Đại Cơ Minh cung cấp nhất là những công việc Bà làm ở Chùa. Bà tên là Tô Thị Thân, năm sanh 1902 (Nhâm Dần), số tứ tự nhập môn: 059. Pháp danh: Toàn Lạc. Ngày nhập môn: 11/12/ Đinh Mẹo (3/1/1928) * Tái nhập môn: 26/7 Tân Mão (28/8/1951) Ngày quá vãng: 7/7/ Mậu Ngọ (10/8/1978) SỰ NGHIỆP Các huynh tỉ lên Google đánh máy 3 chữ Bà Bút Trà thì sẽ thấy một loạt bài viết về Bà như:
Theo bài viết của Ô.Bình Nguyên Lộc, Đại Cơ Huờn trích một vài đoạn sau đây: “… Bà ấy làm chủ một tờ báo hằng ngày, có một dạo nhiều năm, là tờ báo bán mạnh nhứt ở miền Nam nước Việt. Sở dĩ là tôi phải nêu ngay tên của bà Bút-Trà ra, vì nay bà đã ra người thiên cổ. Tôi có bổn phận để yên người quá cố, nên tôi cần cầu xin sự tha thứ của linh hồn bà. Nhưng trong bài nầy, tôi chỉ khen ngợi bà, chớ không hề nói xấu bà lần nào hết, nên tôi thấy rằng tôi chẳng có phạm tội nào cả đối với một người vắng mặt. Bà Tô-Thị-Thân là người đàn bà Việt Nam thuộc vào hạng phụ-nữ Việt Nam cao lớn nhứt nước. Bà có đẹp hay không vào thuở đó ? Tôi bảo đảm là bà ấy rất đẹp. Nhưng tình-trạng giàu có của bà với lại sắc đẹp của bà thật ra chẳng có gì đáng kể đối với tài tháo-vác của bà …” Theo bài viết của Ô. Hoàng Hải Thủy: “… Một hôm, khi nhận giấy mời dự hội báo do bà Bút Trà đưa, tôi nói với bà: – Bà để tôi đi một mình, tôi không thích tòa báo cử hai người đi. Bà Bút Trà nói ngay: – Thì anh đi một mình, đâu có sao. Tôi khoái chí vì tôi đã thắng trong lời yêu cầu. Nhưng tôi không khoái chí được lâu. Ngay ngày hôm sau bà Bút Trà mời tôi vào nói chuyện, bà nói: – Nhà báo có nhiều người. Nhà báo cử anh đi làm việc nào thì anh cứ đi, anh không nên đòi phải cho anh đi một mình anh mới đi. Anh chỉ nên làm tròn công việc của anh thôi. Nhà báo cử bao nhiêu người đi là quyền của nhà báo. Từ năm 1956 là đường Pham Ngũ Lão. Tôi không được thông minh lắm nhưng tôi cũng không đến nỗi quá ngu ngốc, tôi biết lùi lúc tôi cần phải lùi. Bà Bút Trà đã đặt “vấn đề nguyên tắc” với tôi. Ðúng như bà nói, tôi là người làm công, tôi không có quyền đòi nhà chủ phải để một mình tôi làm một công việc do nhà chủ giao, nhà chủ không được cho người khác cùng làm việc đó với tôi. Khi tôi mới yêu cầu, bà Bút Trà không nhận ra ngay chuyện tôi đòi hỏi như thế là không đúng nguyên tắc, bà làm theo ý tôi. Nhưng sau đó bà nghĩ lại, bà thấy bà làm theo ý tôi là không đúng, bà đặt vấn đề lại với tôi. Chuyện làm tôi cảm động, và cảm phục bà, là tuy bà thắng tôi, tuy tôi đã phải chịu để bà phái anh Việt Nhân, hay bất cứ ai, cùng đi dự họp báo với tôi, nhưng sau đó bà vẫn làm theo ý tôi: những lần tôi đi họp báo sau đó tôi đều đi một mình, không có anh Việt Nhân cùng đi. Bà không nỡ làm cho tôi phải thấy nhục vì tôi đã đòi hỏi bậy bạ. Thái độ của bà đối với tôi thật rộng lượng. Thay vì có thể làm cho tôi phải nhục, bà đã không làm. Không ai biết chuyện tôi vừa kể ngoài bà Bút Trà, bà chủ tôi, và tôi…. … Tôi phục bà Bút Trà, bà chủ tôi, ở sự thông minh, nhanh trí của bà. Bà biết ngay tôi nói dối, bà đưa ngay ra bằng chứng là tôi nói dối. Tôi không còn cãi vào đâu được. Sau đó bà chỉnh tôi: - Nhà báo có nhiều người. Việc nào anh không muốn đi hay anh có việc bận không đi dự được anh cứ cho biết, nhà báo cử người khác đi. Anh đừng nhận đi rồi bỏ không đi như vậy. Lời chỉnh rất nhẹ. Lời chỉnh làm tôi tự thấy xấu hổ, tôi đã không làm việc tôi phải làm, tôi còn can tội nói dối. Nhưng bà không làm tôi xấu hổ quá. Thưa Bà Chủ: hôm nay nhớ Bà, tôi cám ơn Bà. Chuyện đó cùng một số chuyện nho nhỏ khác, tôi xin phép không kể, làm cho tôi kính phục bà Bút Trà, tôi coi bà là bà chủ của tôi. Trọn một đời làm báo của tôi, tôi đã làm với khoảng trên dưới mười ông bà chủ báo, chỉ có một bà Bút Trà được tôi coi là chủ nhân của tôi…. …Trong tòa báo của bà, tổng số 9 năm trời, tôi không một lần thấy bà Bút Trà sẵn giọng, to tiếng với nhân viên, bà không rầy la nhân viên có lỗi trước mặt đồng nghiệp của anh ta, bà cũng chẳng bao giờ than phiền một nhân viên nào làm việc bê bối với người trong tòa soạn, cần nói gì bà mời riêng nhân viên đó vào nói chuyện với bà. Tôi nhớ bà người to lớn, đẫy đà, da trắng, mắt sáng, tóc búi, vai như vai hùm, giọng nói dễ nghe, bà như cây cổ thụ tàn lá xum xuê che chở, không chỉ che chở chồng con bà, mà che chở luôn cả những người làm công cho bà. Năm nào đến Rằm Tháng Bẩy, bà cũng cho làm một bữa ăn đãi tất cả nhân viên, nhân công tòa báo: bánh hỏi, thịt quay, cà-ri ăn với bún, bánh mì, ăn thả dàn theo kiểu All You Can Eat. Tết đến nhân viên tòa soạn được hưởng lương 15 ngày lao động – ký giả nhà báo làm việc quanh năm, không nghỉ hàng năm 15 ngày theo Luật Lao Ðộng nên mỗi năm được lãnh 15 ngày lương- và nửa tháng lương thưởng Tết, coi như trọn một tháng lương gọi là lương Tháng Mười Ba. Cho đến ngày báo bị đóng cửa, nhật báo Sàigònmới áp dụng chế độ nhân viên tòa soạn lãnh lương trước, làm việc sau, và Tết đến nhân viên có tiền 15 ngày lao động cùng nửa tháng lương tiền thưởng Tết. Luật lãnh lương trước, làm việc sau là Luật của các nhật báo Pháp ở Sài Gòn Xưa… … Có lần tôi nói với bà Bút Trà về chuyện máy in rotative, tất nhiên là tôi muốn bà thay dàn máy in cũ cả chục cái bằng một dàn máy rotative cho hách, bà nói: - Ðể tôi tính anh nghe. Mỗi máy in của mình bây giờ có một anh thợ máy trông nom, mỗi anh thợ máy có gia đình ít nhất là năm người, hai vợ chồng, hai, ba đứa con, có người còn bố mẹ già phải nuôi. Mười máy in nuôi 50 người. Nay tôi dẹp đi, dùng máy rô-ta-tiêu chỉ phải dùng hai anh thợ thôi, tám người mất việc, 40 người nheo nhóc. Tôi không muốn thay đổi là vì vậy…” BÀ DIỆU CHƠN MINH
Bà: DIỆU CHƠN MINH THIÊN PHONG: LỢI KIẾN THIỀN CÔ -----oOo----- Hòa trong không khí náo nức chuẩn bị Giỗ Hội năm 2014, Đại Cơ Mạng rất vui mừng và vinh hạnh được tham gia hội thảo để có những giây phút nhớ về Mẹ, cũng là Bà Diệu Chơn Minh mà Quý đạo hữu vẫn thường nghe danh. I/ Thuở thiếu thời Mẹ tôi tên là Nguyễn Thị Nguyệt Yển, sinh ngày 6 tháng 12 năm 1917 tại làng Long Điền, tổng Long Thủy, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu, là người con thứ ba của Ông Nguyễn Thanh Tịnh và Bà Trần Thị Xứng. Sau khi học xong bằng sơ học Pháp – Việt, Mẹ được ông bà ngoại cho trao dồi công dung ngôn hạnh như bao thiếu nữ khác trong thời kỳ đó. Là con gái lớn của Ông Huyện Tịnh, lại thêm vẹn toàn công dung ngôn hạnh, Bà khá nổi tiếng tại Giá Rai lúc còn là thiếu nữ. Mẹ tôi thừa hưởng tinh thần Khổng Mạnh từ ông ngoại, thể hiện nơi lòng nhân từ, và hay giúp đỡ mọi người. Mẹ tôi lại cũng chịu ảnh hưởng của bà ngoại trong việc quán xuyến việc nhà, thích lao động, và tụ tập các thành viên trong gia đình để gia tăng tình đoàn kết, tương thân tương ái. Tất cả những điều này làm nên một phần bản tính và thói quen trong cuộc sống hằng ngày của Mẹ, và ảnh hưởng không nhỏ đến cách đối nhân xử thế với các đạo hữu và công việc của Chùa sau này. Ngày 9 tháng 4 năm 1939, khi Mẹ được 22 tuổi, theo lệnh Ông bà ngoại, Mẹ kết hôn với cha tôi (mà chúng tôi vẫn gọi là Thầy), là Ông Phạm Thanh Thời và lên sống tại Sài Gòn. Thầy Mẹ có tất cả 8 người con, 6 trai và 2 gái, trong đó, tôi là con gái út. Mẹ là người phụ nữ trong gia đình, rất yêu thương chồng con và cha mẹ anh chị em nội ngoại hai bên. Mẹ đã dùng tình yêu thương của mình, dùng đạo lý nhân nghĩa của Đạo Khổng do ông bà ngoại truyền dạy để đối nhân xử thế. Mẹ đã để lại cho chúng tôi lời khuyên răn bất hủ: “Trong việc xử thế từ ngoài đời đến tình cốt nhục, chỉ có một tình yêu thương, một chút lẽ phải, một chút khoan dung nhường nhịn là đời sẽ luôn luôn tươi đẹp dưới mắt chúng ta”. Cuối năm 1998, khi hầu hết các con cháu đã trưởng thành, Mẹ xuất gia chuyên tâm lo việc tu hành theo lời dạy của Đức Quan Âm Bồ Tát: Yển Nguyệt chớ để qua cơ hội, Lo mở mang đường lối trở về. Trần hồng đâu phải là quê, Buông xuôi cuộc thế lo bề tu thân. II/ Hoạt động và Thành tựu Đạo pháp Theo truyền thống của gia đình chồng, Mẹ tôi nhập môn Đạo Minh Lý cùng với Thầy của chúng tôi vào ngày 4 tháng 11 năm 1940, với pháp danh là Yển Nguyệt, cấp tu Hướng Tịnh Cô. Theo lời Mẹ kể lại, pháp danh Yển Nguyệt được Ngài Minh Thiện lấy từ tên Nguyệt Yển. Chữ Yển Nguyệt là ánh sáng của đạo tâm, cái ánh sáng này chiếu tới đâu thì tà khí đều phải tiêu diệt. Yển Nguyệt là trăng của mùng 3, nó cong quớt lên giống như mấy con dao trên mái Chùa. Lúc ban sơ nhập Đạo, Bà Yển Nguyệt vẫn thường đồng hành cùng Bà Diệu Biện (là thân mẫu của Cô Huyền Như Tuệ) trong hầu hết các công việc của Chùa. Đức hạnh và sự công minh liêm chính của Người trong đối nhân xử thế đã được Đức Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu khen ngợi: DIỆU CHƠN MINH đã vào đời bao lâu, Chiếu công tâm giải dầu từ thuở, Chiếu nguyên căn gìn giữ bổn nguyên. Minh tâm, minh tánh, diệu hiền, Để cầm giữ vững mối giềng nữ tu. Với khả năng giao tiếp duyên dáng, mềm dẽo và linh hoạt của mình, Bà Yển Nguyệt đã gây dựng nền tảng cho các hoạt động liên giao của Minh Lý Đạo. Nổi trội nhất là mối liên hệ và các sinh hoạt liên giao với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý thời bấy giờ. Bên cạnh đó, là một môn sanh Minh Lý Đạo, Bà Yển Nguyệt không ngừng học tập và nghiên cứu Đạo pháp. Được sự cận kề giúp đỡ của chồng, tức Ông Khai Sắc - Thầy của chúng tôi, cùng với nền tảng giáo dục tốt và sự sáng suốt thông minh của mình, Bà đã từng bước đạt được nhiều thành tựu vượt bậc trong tu luyện Huyền Công. Do sự nỗ lực và đóng góp không nhỏ vào quá trình khai lập Đạo, bằng đạo hạnh tu hành của mình, Bà Yển Nguyệt đã lần lượt được cấp phong: Chí Tịnh Cô: vào năm 1959 Tâm Tịnh Cô: vào năm 1965 Thanh Tịnh Cô: vào năm 1972 Khiết Tịnh Cô: vào năm 1980 Vĩnh Tịnh Cô: vào năm 2002 Đáng kể là vào năm 1972, khi Ơn Trên tuyển phong nữ phái vào hàng Quyền pháp tạo lập Thập Nhị Nữ Đồ và thành lập cơ quan Nữ phái Minh Lý Thánh Hội, Bà Yển Nguyệt đã được Đức Vô Cực Từ Tôn trao ban quyền pháp “Diệu Chơn Minh”. Diệu Chơn Minh đức tài tô điểm Xứng nữ đồ đại diện phát huy Tâm linh bữa bữa hành trì Thân an trí sáng đương vi trọng quyền. Đến năm 1980, nhân dịp Đức Thượng Đế giá lâm ban phong cho Ông Khai Sắc thì Mẹ tôi cũng được gia phong chấp trì nữ giới “điều hành Thập Nhị Nữ Đồ” vào hàng Khiết Tịnh Cô. Tháng 6 năm 2002, Bà Diệu Chơn Minh được Tam Giáo gia ân chức Cố vấn Tối cao trong Hội đồng Hội Thánh với cấp Đạo là Vĩnh Tịnh Cô Chưởng Lý Nữ Giới. Khi Bà viên tịch vào cuối năm 2002, được thiên phong: Lợi Kiến Thiền Cô. III/ Soi rọi về quá khứ và tưởng nhớ những lời căn dặn. Để có thể đóng góp cho Đạo pháp và đạt được những thành tựu như Bà Diệu Chơn Minh, theo thiển ý của Đại Cơ Mạng, ngoài việc tự bản thân mình nỗ lực luyện rèn, còn phải có một cơ duyên. Năm 1983, trong một lần lâm cơ, Đức Từ Hàng Nam Hải đã soi rọi về tiền kiếp của Bà Diệu Chơn Minh. Rằng: Diệu Chơn Minh, nữ đồ sứ mạng, Được pháp quyền tỏ sáng hồng ân; ... Quê xưa vì một lỗi lầm, Chuyển thân đến thế, oán ân tháng ngày. ... Trò nào nhớ cung trăng thuở nọ, Đủ quyền uy giá võ đằng vân, Dạo chơi cõi Thánh cung Thần, Tự do tự tại, đến trần quên xưa. Có thể nói sự soi rọi của Đức Từ Hàng Nam Hải đã tạo nên một động lực rất lớn cho Bà Diệu Chơn Minh, khuyến khích bà phải luyện rèn nhiều hơn nữa, phải cố gắng nhiều hơn nữa để xứng đáng với nguyên căn của mình và sự trông đợi của tất cả mọi người. Nên phải ráng hy sanh mọi thứ, Để tròn xong phận sự thiên ân; Một là trì thủ chuyên cần, Hai là an trụ tinh thần cố kiên. Ba là quyết định thiền “ vô niệm”, Bốn loại trừ phù phiếm đa đoan; Năm lo “ phản chiếu hồi quang”, Chuyển thức thành trí, phá màn vô minh. Sau khi viên tịch, trong một lần lâm cơ vào năm 2003, Lợi Kiến Thiền Cô đã để lại nhiều lời nhắn nhủ chí tình của mình cho các Đạo hữu. Người đã căn dặn rằng: Việc đạo cần sự chung tay góp sức để chu toàn sứ mạng, mà cần nhứt là chữ HÒA. Có “HOÀ” thì mọi việc được hanh thông và lấy tình thương cảm thông nhau thì mới có cơ tiến ích. Thật cảm kích với lời căn dặn của Người lưu lại. Đại Cơ Mạng tin rằng, thế hệ hậu sinh chúng ta hiện nay đang có rất nhiều điều kiện để học tập và rèn luyện. Do vậy, chúng ta cần phải cố gắng hơn nữa để xứng đáng với những gì chúng ta đang có, và phấn đấu đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình học Đạo. Xin mượn lời căn dặn của Lợi Kiến Thiền Cô để kết thúc bài nói chuyện hôm nay: Ngày tháng trôi qua gắng học hành, Nếu không ôn cố phải hư danh. Ngàn năm một hội đừng bê trễ, Phải lắm công phu, Đạo mới thành. BÀ DIỆU CHƠN TỊNH
Bà Diệu Chơn Tịnh Thiên Phong: ĐỘC HÀNH KỲ ĐẠO TIÊN CÔ Bà Diệu Chơn Tịnh đắc quả vị Độc Hành Kỳ Đạo Tiên Cô tục danh Lê Kim Ngọc, Pháp danh là Tịnh Danh ,Thánh Danh là Diệu Chơn Tịnh . Bà sanh năm 1918 và viên tịch ngày 08/9/ 1998 tức ngày 18/07 Âm lịch năm Mậu Dần, bà là con ông Lê Kim Bằng pháp danh Minh Ngôn , là một trong 12 vị tiền khai Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu. Bà lập gia đình và có 4 người con,3 người con hiện là môn sanh Minh Lý. Khi ông ngoại tôi mất 1968, Bà nguyện đọc một tạng kinh Cầu Siêu và ăn chay trường. Lúc đó, Bà đang làm chủ một nhà thuốc tây tại quận Dĩ An thuộc tỉnh Biên Hòa, thu nhập từ nhà thuốc cũng đủ chi tiêu trong gia đình, nhưng tâm trí không được rảnh rang, vì lúc nào cũng lo tới tiền bạc để phát triển việc làm ăn buôn bán, bản thân không được nghỉ ngơi, nên Bà cảm thấy rất mệt. Năm 1972 Bà sang tiệm thuốc tây lại cho người con trai trưởng, còn toàn bộ gia đình dọn về nhà mướn ỡ Cư Xá Bắc Hải ( trước là cư xá sĩ quan Chí Hòa ) nay thuộc phường 15 quận 10 Saigon. Hàng ngày Bà đi chùa công quả, lúc đó ông Khai Minh ( anh con Bác ) là Tổng Lý có nhờ bà xấp xếp lại những kinh sách và Đàn Cơ của Chùa,nhờ đó Bà có cơ hội để đọc những bài Đàn Cơ và Thánh Ngôn có từ ngày thành lập Đạo. Bà là người thông minh nên đọc thánh ngôn Bà hiểu những nghĩa đen và nghĩa bóng. Bà biết trong Thánh ngôn có hàm ý dạy về Tịnh Luyện, Bà hiểu điều đó rất là quan trọng và cũng hiểu rằng chính Bà phải làm công việc đó. Bà nghĩ tới công lao cũa Ơn Trên xuống Đàn dạy Đạo mà không ai biết, nên Bà nói với gia đình Bà muốn đi Tu và nhờ gia đình giúp Bà để cho Bà không phải lo việc tài chánh rảnh trí mà tu học. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì là nhà mướn trong khu Cư Xá Bắc Hải, nên bị đuổi liên tục, hai người con trai thì bị đi cải tạo, đứa con trai Út đang học Luật năm thứ ba, thì không được tiếp tục học Luật ... Tất cả mọi việc dồn dập xảy ra, nhưng Bà quyết chí tiếp tục tu tịnh, không bỏ một thời công phu nào ( Bà giữ 4 thời Tịnh một ngày ), không đi thăm con bị học tập cải tạo trong suốt 6 năm trời, không đi thăm con bị tù vì tội vượt biên.. Đổi tiền mấy lần làm gia đình vô cùng nghèo túng,….nhưng tất cả không làm ý chí Bà lay chuyễn, tất cả mọi việc lúc đó đều do chồng ( ông Tường Pháp ) và con gái Nguyệt Quế đứng ra cáng đáng, từ việc nhà cho tới việc thăm nuôi các con còn trong trại tù… Khoảng năm 1986, Bà có nói với đứa con gái Nguyệt Quế và rể, để Bà chứng minh cho thấy kết quả tu luyện của Bà ( ý Bà muốn chứng tỏ rằng sự giúp đỡ của gia đình với Bà không vô ích ), bắng cách để hai bàn tay dọc theo hai bên đầu của bà từ Thái Dương trở về sau, Bà hít thở và cô Nguyệt Quế cảm thấy 4 khớp xương đầu cũa Bà rời ra ,và ráp lại ,kể cả tiếng kêu lách cách cũa Xương khi tháo ra và ráp lại, chứng tỏ Bà đã mở được Nê Hườn…..để đón nhận Tiên Thiên Khí mỗi khi Bà ngồi tịnh. Vì sau ngày 30/4/1975 tầt cả mọi chuyện tu tịnh hay thuộc về tôn giáo đều phải giữ kín không được nói ra,vì sợ bị kép tội mê tín dị đoan. Năm 1989 Bà xuất gia, công việc của Bà ở chùa chỉ là tịnh luyện mà thôi, và chuyện Bà tịnh luyện như thế nào kết quả ra sao không ai biết. Hàng năm Chùa vẫn tiếp tục tổ chức các đợt tu tịnh ngoài Bác Nhã Tịnh Đường. Bà có làm đơn xin đi cả hơn 10 lần, nhưng không đuợc chấp thuận vì vị Chủ Trì lúc đó cho rằng Bà chưa đủ trình độ vào Thất… Bà rất buồn, nhưng vẫn cố gắng nhẫn nhịn. Một lần Bà có ý định nói với những vị Nữ môn sanh có Thánh danh Diệu Chơn về việc tu hành của Bà và kết quả để nung chí cho các bạn Đạo. Nhưng có một bữa sau giờ tịnh thời Ngọ, khi Bà từ trên lầu bên phong Nữ giới vừa bước xuống thang lầu thì cô Huyền Như Như Tịnh đang nằm trên bộ Ván giữa phòng, ngóng mắt đợi Bà, và khi thấy Bà thì ngồi dậy và nói : “ Anh Hai dặn không được nói cho ai biết hết,vì sẽ nguy hiểm cho bản thân và cho Chùa “ …. Nói xong cô quay trở lại bộ Ván nằm xuống ngủ tiếp. Khi cô dậy thì bà Diệu Chơn Tinh ( cô Tám ) có hỏi lại thì cô hoàn toàn không nhớ gì hết. ( Anh Hai là ông Khai Minh lúc đó đã qui vị ) Trước khi Bà nhập tự rất lấu, Bà có đi khám bịnh ở bịnh viện Grall, bác sĩ cho biết Bà có dấu hiệu của ung thư Nhũ Hoa, nhưng lúc đó vì bịnh chưa phát ,và hơn nữa Bà đang tu tịnh nên không muốn dùng thuốc hay giải phẫu vì sợ ảnh hưởng đến sự tu tịnh. Sau khi nhập tự năm 1989, thì bịnh phát rất mau, và làm Bà đau đớn nhiều. Nhưng cho tới lúc nầy Bà vẫn quyết định không dùng thuốc,và mỗi khi cơn đau kéo tới thì Bà nghiến răng mà chịu đựng, và cầu nguyện Ơn Trên. Con gái Nguyệt Quế hàng năm về VN một tháng để thăm và săn sóc cho Bà, mỗi sáng làm vệ sinh vết thương lở loét, thì thấy thịt rơi ra từng chút một, từ vết lở thấy cả xương sườn, Bà vẫn ngồi yên nghiến răng chịu đựng…. Bà đã chịu đau đớn vì bịnh ung thư kéo dài gần 10 năm mà không dùng 1 viên thuốc giảm đau. Người con trai lớn là dược sĩ vẫn ở tại Việt nam năn nỉ Bà dùng thuốc giảm đau, nhưng Bà nhất định không chịu, có lúc thấy Bà đau quá, muốn nói láo với Bà đây chỉ là thuốc bổ để Bà uống, nhưng không ai dám vì sợ gây hại tới sự tu tịnh của Bà. Từ khi nhập tự Bà chỉ ăn vào giờ Ngọ sau thời tịnh mà thôi, còn buổi sáng và chiều thì uống nước Dừa, mỗi năm Bà đều nhịn ăn một tháng, cả ngày chỉ uống nước Dừa. Vài năm trước khi Bà mất, thì có uống thêm sữa Ensure. Trước khi Bà mất khoảng hai năm, có lúc đau quá nhiều khi Bà muốn bỏ cuộc, cô Nguyệt Quế ở Mỹ biết được có viết thư về để an ủi và khuyến khích Mẹ rằng việc tu tịnh của Bà sắp có kết quả, nên Bà lên tinh thần và tiếp tục cho tới ngày mất. Trước đó vài năm trong một buổi hầu Đàn, Ơn Trên có xuống điểm danh các tịnh viện nhập thất ngoài Bác Nhã Tịnh Đường, trong đó có tên của Bà ( trước đó thì không ),nên mọi người ngạc nhiên và đưa câu hỏi với Ơn Trên đang dạy tại Đàn tiền, thì được trả lời là “ Ngoại Lệ “, và không có lời giải thích nào. Ông Đồng Tử Liên Hoa là người đầu tiên biết Bà tu đắc, nên mỗi khi có gì không hiểu vế kinh sách hoặc Đàn Cơ đều nhờ Bà giảng giải…..nhưng mọi việc Tu tịnh của Bà thì không nói ra cho ai biết hết. Hàng ngày ngoài thời tịnh, Bà đều xem kinh sách, xem đi xem lại cho thấu hiễu rõ ràng, và mỗi khi tịnh Bà thấy có sự việc xảy ra cho Bà như thế nào thì Bà đều ghi chép cẩn thận, để sau nầy có vị nào gặp khó khăn cần giúp đỡ thì mở ra coi… Tât cả sách vỡ ghi chép có lưu bút cũa Bà đều còn giữ lại… Có nhiều lúc Bà tâm sự với con gái Nguyệt Quế là “ Đi học ỡ trường thì có thầy cô dạy,nhưng ở đây Bà tu chỉ có một mình, nhiều lúc thắc mắc không hiểu ý nghĩa bài Đàn cũng không biết hỏi ai, và cũng không dám hỏi, chỉ tự mình nghiên cứu và suy nghĩ để tự tìm ra đúng sai….Mỗi lần như vậy thì Bà cầu nguyện Đức Hà Tiên Cô và Thần Hộ Mạng của Bà là Diêu Trì Thất Nương phò hộ cho Bà. Hình như Bà biết trước ngày đi cũa mình. Lần về thăm cuối cùng thì Bà nói với cô Nguyệt Quế và Nhựt Khóa ( con trai Út ) là Bà có gì thì Nguyệt Quế đừng về nữa, vì lo cho Bà đầy đũ lắm rồi. Khi qui vị Ơn trên sắc phong: TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO MINH LÝ THÁNH HỘI TAM GIÁO CÔNG ĐỒNG SẮC TỨ LÊ KIM NGỌC thọ Thiên ân DIỆU CHƠN TỊNH Xét công, hạnh, giới, nguyện, Nhiều kiếp tích đức hành thiện, cúng dường Tam Bảo, công hạnh túc căn Hiện thân gặp Đạo tu hành, an thuận quả duyên, đọc tụng thánh giáo đắc ngộ lý mầu, phát tâm lập nguyện cầu phát liễu sanh chuyên tâm tu luyện, kiên cố công phu, mở thông căn trí, chí nguyện giải thoát trần mê, thanh tâm đoạn dục, tùng pháp chế luyện kim đơn, tự tâm khai thị. Chiếu tâm nguyện công phu, Phong ĐỘC HÀNH KỲ ĐẠO TIÊN CÔ Phẩm: Trung phẩm Thánh vị Thọ ký: Ly Cấu Hải. Thánh Hội Minh Lý y tuân. Ngày 08-9-1998 nhằm ngày 18-7 Mậu Dần. Vì vậy khi biết được Bà là Độc Hành Kỳ Đạo Tiên Cô thì cô Nguyệt Quế thấy Ơn Trên quả thực đã từng bước theo dõi và giúp đở Bà trên đường Tu Đạo. QUÝ BÀ TIỀN KHAI MINH LÝ
LƯỢC SỬ QUÝ BÀ CÓ CÔNG VÀO THỜI KỲ TIỀN KHAI ĐẠO MINH LÝ Vào tháng 9 năm 1925 người nữ được nhập môn Minh Lý Đạo. sau khi cho người nữ nhập môn, Ơn Trên từng bước hướng dẫn nữ phái trên đường tu học. 1927 Ơn Trên dạy lập Chiêu đải sở, sắp đặt phận sự phái nữ như đặt chiêu đải viên, củ sát viên, nữ trù dịch…, hướng dẫn nấu ăn chay có dinh dưỡng, 1930 lập ban Hành Động (nam), ban Hành Tịnh (nữ) để giúp quí Hành Lễ trong việc coi sóc chùa và phổ độ quần sanh. Ơn Trên cũng dạy lập sở nữ công để dạy các thiếu nữ, giáo dục các trẻ nhỏ tương lai của đạo… Những người nữ đầu tiên đều là thân quyến của quí ông Hành Lễ. Năm bà nhập môn năm 1925 theo thứ tự là: Ngày 14-9-1925 Bà Diệu Cảnh Nguyễn thị Cần (1847-1928) và bà Diệu Ý Phan Thị Sửu (1889-1926), nhập môn. Năm 1984, Ơn Trên cho biết bà Diệu Cảnh thiên phong là Trinh Dung Thần Nữ ở Viên Thông địa; bà Diệu Ý là Hồng Liên Ngọc Nữ ở Vô Ngại Địa. Ngày 27-10-1925 bà Diệu Huyền Trần thị Cửu (1883-1935) nhập môn. Bà trường trai, công quả trong ban Hành Tịnh Nữ tiền thân của Ban Nữ Giới. Sau khi qui vị, bà được thờ tại Lịch Đại Tổ Tiên. Năm 1984, Ơn Trên cho biết bà tiêu dao nơi Tự Tại Bồ Đề địa Ngày 19-11-1925 bà Diệu Ngươn Lâm thị Hộ (1895-1953) nhập môn. Ngày 26-12 1965 bà nhập cơ với danh hiệu Diệu Duyên Nương Nương. Ngày 1-12-1925 bà Diệu Giác Đinh thị Thuận (1895-1953) nhập môn. Ngày 26-12 1965 bà nhập cơ với danh hiệu Diệu Liên Thánh Nương. Trong năm 1926 có 25 bà nhập môn. Trong số này có bà Diệu Trí Huỳnh Thị Ngôn (?-1949) và bà Diệu Biện Lê Thị Nhi ( ?-1979). Bà Diệu Trí Huỳnh Thị Ngôn nhập môn ngày 25-9-1926. Bà được cho biết là đệ tử của Đức Quan Thánh Đế Quân, bà đóng góp hằng tâm hằng sản để xây dựng hội thánh. Bà là Từ thiện Hội viên của Hội Tam Tông Miếu và là trưởng ban Hành Tịnh ( 1930-1940) ( ban Hành Tịnh là tiền thân của Ban Nữ Giới sau này) đi phổ độ nhơn sanh. Nghĩa trang Tam Tông Miếu nay là Báo Ân Từ là do bà hiến tặng. Bà qui vị năm 1949 tiêu dao nơi Vô Ngại địa. Bà Diệu Biện Lê thị Nhi nhập môn 26-12-1926, cấp bậc của bà năm 1973 là Q. Khiết Tịnh Cô , bà từng là Phó chủ tịch rồi chủ tịch Ban Nữ Giới. Bà qui vị ngày 25-5-1979 sắc phong Thông Tâm Ngọc Nữ Thần. Bà Toàn Lạc Tôn Thị Thân ( 1902- 1976),bà là em của ngài Minh Thiện, nhập môn 3-1-1928 . Cấp đạo của bà năm 1973 là Q. Khiết tịnh Cô. Bà từng làm Chủ tịch Ban Nữ Giới. ngoài đời bà cũng từng làm chủ tịch Hội Phụ Nữ Việt Nam ( 1952-1958 tại Nam Việt Nam) đòi sự bình đẳng cho phụ nữ, Hội trưởng Bình Dân Học Hội xóa bỏ mù chữ và được biết nhiều với ngoài đời bà cũng từng làm chủ tịch Hội Phụ Nữ Việt Nam ( 1952-1958 tại Nam Việt Nam) đòi sự bình đẳng cho phụ nữ, Hội trưởng Bình Dân Học Hội xóa bỏ mù chữ và được biết nhiều với tên bà Bút Trà. Bà qui vị 10-8-1978 sắc phong Diệu Đức Nương Nương 1984. |
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |