Ngài Âu Minh Chánh (1896 – 1941) (người gốc Minh Hương) tên tục là Âu Kiệt Lâm, khoảng năm 1920, muốn tìm hiểu về nhân điện (magnétisme) nên đã gởi mua tài liệu bên Pháp. Ngài nghiên cứu và học được cách chữa bệnh giúp bá tánh địa phương. Nhiều bệnh nhân trong cơn hiểm nghèo đã được trị lành. Lúc ấy, ngài đang ở nơi đường Barbier (nay là Thạch Thị Thanh, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh) và cùng hợp tác với nhiều thân hữu làm từ thiện. Dần dần, chư vị phát tâm tin tưởng Thiêng liêng. Sau đó, Ngài Âu Kiệt Lâm cùng vài người khác tìm đến một vị cao tăng bên Tàu qua, đang giảng pháp tại chùa Minh Hương Phước An Hội Quán (đường Hùng Vương), học cách cầu huyền cơ hầu tiếp xúc với cõi Thiên. Do cách cầu huyền cơ đòi hỏi phải thật nghiêm cẩn nên ít thành công, chư vị chuyển sang tìm học cách cầu Đại ngọc cơ. Tam Tông Miếu (ngôi chùa đầu tiên - ảnh chụp 1927)
Từ khoảng 1922, Ơn Trên hướng dẫn quý ngài dần vào đường tu. Buổi đầu ấy chư Tiền khai Minh Lý Đạo gồm 6 vị: Nguyễn Văn Miết (Minh Thiện) (1897 – 1972); Nguyễn Văn Xưng (Minh Giáo) (1891 – 1957); Lê Văn Ngọc (Minh Truyền) (1887 – 1965); Võ Văn Thạnh (Minh Trực) (1895 – 1976); Nguyễn Văn Đề (Minh Đạo) (1893 – 1961); Âu Kiệt Lâm (Minh Chánh) (1896 – 1941) Các vị luân phiên nhau tổ chức cúng tại nhà vào các kỳ Sóc Vọng và tạm dùng vài bài kinh Minh Sư (bài Niệm Hương, Khai Kinh, Ngọc Hoàng Kinh…) chữ Hán Việt. Một lần, chư vị có than cùng nhau rằng: “Nghĩa lý chữ Nho rất cao sâu nên lời Thần Tiên để lại trong kinh sách bấy lâu nay, người đời ít ai thông hiểu những điều mầu nhiệm. Chớ chi Ơn Trên cho kinh bằng chữ quốc âm, dầu bực nào cũng dễ hiểu và thực hành được”. Chẳng ngờ Ơn Trên chấp nhận lời cầu xin này. Đức Thái Thượng Đạo Quân trong lần giáng cơ sau đó dạy rằng: “Chư nhu tụng kinh chữ không thông nghĩa lý, nên ta cho kinh Nôm. Kinh này vắn tắt, cũng tiện cho chư nhu đọc”. Đêm 27-11 Giáp Tý (23-12-1924) (thuộc tháng Bính Tý, ngày Bính Tý, giờ Mậu Tý), Minh Lý Đạo Khai Minh tại Thiên Bàn nhà Ngài Âu Minh Chánh.. Trước đó một ngày, vào 22-12-1924, nhằm ngày Đông Chí nhứt dương sơ phục, Đức Thái Thượng giáng tả bài Tặng Thiên Đế (Vì Thiên Đế Thái Cực Hoàng...) (diễn nôm từ bài “Đại La”). Nhiều bài kinh khác (gốc Minh Sư hay kinh mới) đều được chư Thiên tiếp tục ban bằng chữ quốc ngữ, thí dụ như:
Từ đó, Minh Lý môn sanh quyết tâm xây ngôi chùa riêng. Nhờ ông Trần Kim Ký hiến đất vùng Bàn Cờ (lúc ấy trước chùa chỉ là một con hẻm đất, sau mới mở thành đường Cao Thắng) cùng quý bà Ba Ngỡi, Huỳnh Thị Ngôn… giúp một phần tài chánh, ngày 10-8-1926 chùa đặt viên đá đầu tiên. Chùa gác đòn dông ngày 15-9-1926 và đến cuối tháng 1-1927 việc xây dựng hoàn tất. Ngày 2-2-1927 khai buổi cúng đầu tại chùa mới. Như vậy, Minh Lý môn sanh đã mượn Linh Sơn Tự từ tháng 9-1925 đến tháng 2-1927. Trước đó, khi chuẩn bị xây dựng, Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn ban đạo hiệu chùa là Tam Tông Miếu. Qua hai đợt trùng tu năm 1941 và 1957, Tam Tông Miếu mới có dáng như ngày nay. Tam: là Tam thể đồng nhứt; Tam giáo đồng nguyên. Tông: là thừa kế, tiếp nghiệp của Tổ truyền. Miếu: là tòa ngự của các Đấng Thiêng Liêng tại thế. Chánh điện Tam Tông Miếu thờ Tam Cực: Vô Cực (Diêu Trì Kim Mẫu); Thái Cực (Ngọc Hoàng Thượng Đế); Hoàng Cực (Hồng Quân Lão Tổ). Cấp thứ nhì thờ Tam Giáo Đạo Tổ. Cấp thứ ba thờ Tứ Đại Bồ Tát. Cấp thứ tư thờ Ngũ Vị Tinh Quân cùng nhiều bàn thờ khác từ trong ra ngoài… Năm 1972 bổn đạo Minh Lý phát triển thêm ngôi Bác Nhã Tịnh Đường ở Long Hải (chuyên để luyện tu). Đến nay, chư Minh Lý môn sanh, với đạo phục màu đen truyền thống, tiếp tục hành đạo theo giáo lý và giáo pháp đã được truyền dạy từ xưa. Nhiều môn sanh mới đã gia nhập Minh Lý Thánh Hội, kế thừa mối đạo Tam Tông. Ghi chú: Buổi đầu mở đạo Cao Đài, tháng 6 năm Bính Dần (1926), Ơn Trên ban lệnh chư Tiền khai gồm quý ngài Lê Văn Trung, Lê Văn Lịch, Vương Quan Kỳ đến Minh Lý Thánh Hội thỉnh một số bài kinh. Đồng lúc ấy tại Minh Lý, Ơn Trên đã ban lệnh truyền kinh qua thánh giáo ngày 28 tháng 6 Bính Dần (6.8.1926) như sau : "Ngã Lục Đinh Thần giáng đàn, hỉ chư nhu. Ta vưng lịnh Đạo Tổ giáng xuống truyền cho chư nhu rõ : Chư nhu phải sắm 12 cuốn kinh Sấm Hối cho thiệt tốt, sạch, chẳng chút bợn nhơ gì hết. Sắm rồi thì phải cho đi mời Trung, Lịch, Kỳ lại nhà chư nhu, biểu chúng nó làm lễ mà thỉnh kinh ấy. Nơi bìa kinh phải đề hiệu 'Tam Tông Miếu'..." Trước đó, vào ngày mùng 3 tháng 7 năm Ất Sửu (21.8.1925) trong một buổi hầu đàn, Ngài Minh Thiện có bạch "mỗi khi phát kinh Sấm Hối thì chúng tôi đặng phát luôn bài Khai Kinh và mấy bài kinh khác hay không". Đức Đạo Tổ hôm ấy dạy : "Phát luôn". Quyển kinh Sấm Hối có in nhiều bài kinh, trong đó có các bài :
Và, có điều trước nay nhiều người cho rằng chư Tiền khai Cao Đài thỉnh kinh tại Tam Tông Miếu. Thật ra, vào năm 1926 Tam Tông Miếu chưa cất, Minh Lý Hội còn tạm nơi chùa Linh Sơn. Việc thỉnh kinh diễn ra tại bàn thờ tư gia Ngài Âu Minh Chánh.
(Theo Tài liệu còn lưu giữ)
0 Comments
Leave a Reply. |
Blog's author
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |