Đức Trần Hưng Đạo, tên thật là Trần Quốc Tuấn, là một trong những vị anh hùng dân tộc vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Sinh năm 1228 tại thôn Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc Nam Định), Ngài là con trai của An Sinh Vương Trần Liễu và là cháu gọi vua Trần Thái TNgài bằng chú.Từ nhỏ, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện tài năng xuất chúng. Ngài ham thích trò chơi đánh trận, biết làm thơ từ 6 tuổi và lớn lên trở thành người học vấn uyên bác, giỏi cả văn lẫn võ. Tài năng quân sự của Ngài được thể hiện rõ nét qua ba lần chỉ huy quân đội Đại Việt đánh bại quân xâm lược MNgài Nguyên:
Với những cống hiến to lớn cho đất nước, Đức Trần Hưng Đạo đã trở thành một biểu tượng của tinh thần dân tộc Việt Nam. Ngài mất năm 1300, thọ 74 tuổi, nhưng di sản và tấm gương của Ngài vẫn còn sống mãi trong lòng dân tộc. Xem thêm
Sử sách từng ghi lại câu nói nổi tiếng của Ngài với vua Trần Thánh Tông, khi đất nước đang lâm vào tình thế nghìn cân treo sợi tóc: “Xin bệ hạ hãy chém đầu tôi trước rồi sau sẽ hàng”. Cho đến trước khi chết ông vẫn ân cần dặn vua Trần Anh Tông trong mọi chính sách của nhà nước phong kiến phải biết “Nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”. Ngài không những là một công thần của nhà Trần mà còn là một Anh hùng lớn của dân tộc. Trần Hưng Đạo đã được phong nhiều danh hiệu có liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng dân gian sau khi Ngài qua đời:
Đức Cái Thiên Cổ Phật khi dạy về quẻ Tùy có nêu lên ba cái đức lớn của Đức Trần Hưng Đạo như sau: TÍN: Hết lòng thành tín, tỏ sự trung thành.. NHÂN: Đứng trên tình thương cao cả, gánh vác nhơn sanh. TRÍ: Khi công thành thì than thối, đem sự khôn ngoan sáng suốt giúp đời. Nắm binh quyền trong tay nhưng Ngài nêu một tấm gương về lòng trung nghĩa sáng suốt, biết gạt bỏ mọi hiềm khích riêng để đoàn kết quan quân trong triều nhằm phò vua giúp nước, đánh bại kẻ thù. Tại Minh Lý Đạo, trong thời kỳ “Khai Cơ Giáo Pháp”, Đức Trần Hưng Đạo đả được lịnh của Tam Giáo về đàn để lý giải Dịch học, mở một lối thông đưa đường hậu thế. Ngài dạy Minh Lý môn sanh là môn đệ của Tam giáo Đại Đạo phải thông suốt Dịch kinh để đóng lấy vai trò sứ mạng trong Tam Kỳ phổ độ. Ngài đã cùng với Đức Vạn Hạnh Thiền Sư và chư Phật Tiên giáng đàn ban cho Minh Lý những nội dung giáo pháp trong Minh Lý Chơn Giải, Minh Lý Học Thuyết và Đạo Học Chỉ nam làm nền tảng giáo lý cho nền Tân pháp Đại Đạo. Đức Trần Hưng Đạo dạy: Nên Minh Lý ra đời phải nhận chân cho được sứ mạng, phải đặt một giải pháp nào hữu hiệu thích đáng, thỏa hiệp được trình độ và hoàn cảnh hiện tại của mỗi nơi. Vậy con người Minh Lý phải là con người tượng trưng cho một con người tương lai lành mạnh, không thiên ái, không chấp nê, vị thân vị kỷ, quyền pháp được đặt trên bản ngả cá nhân. Nhứt cử, nhứt động phải ứng thông biến hóa, cho khế hợp thiên đạo, nhơn sự, hầu làm thước mực cho nền móng nhân sanh. Chúng ta nên cùng suy ngẫm và tri hành. Rất lòng thành tín, Đại Mạng Rút gọn
0 Comments
TIỂU SỬ VÀ CÔNG NGHIỆP
Hôm nay là ngày vía Đức Thái Thượng Lão Quân, chúng ta cùng nhau ôn lại vài nét chính về sự tích và công nghiệp của Ngài. Đức Thái Thượng Lão quân là Tổ Sư của Đạo giáo, nên cũng xưng là Đạo Tổ. Đạo Tổ vốn là người Trung Hoa ở huyện Khúc Nhơn, nước Sở (thuở trước là huyện Khổ nước Trần). Ngài giáng sanh nhằm ngày rằm, tháng 2, đời vua Châu Linh Vương, lối 570 trước kỷ nguyên Tây Lịch. Theo sử ký, họ của Ngài là Lý, tên thiệt là Nhĩ, tên chữ là Đam (Đam nghĩa là lỗ tai lớn, có trái dài thòng xuống). Còn theo Liệt Tiên Truyện, Ngài cũng là họ Lý, tên thiệt là Nhĩ, mà tên chữ là Bá Dương, còn Đam là tên thụy (tên đặt sau khi mất). Đức Lão Tử ở vào một thời kỳ đồng với Đức Khổng Tử. Người phỏng đoán Đức Lão Tử lớn hơn Đức Khổng Tử lối 20 tuổi và lúc hai Ngài gặp nhau, Đức Lão Tử đã già có lối 60 tuổi, đương làm quan Trụ hạ sử (giữ tàng thơ viện) cho nhà Châu. Khi trở về, Đức Khổng Tử khen Đức Lão Tử như con rồng, nên sách có câu: “Du long chi thán”, chỉ vào lúc hai Ngài gặp gỡ nhau đây. Sau nhà Châu suy, Đức Lão Tử từ chức, đi về hướng Tây, gặp Doãn Hỉ làm quan lịnh giữ ải Hàm Cốc, có truyền cho ông nầy cuốn Kinh Đạo Đức. Rồi từ đó, bặt tích không ai biết Ngài đăng tiên hồi nào, ở xứ nào. Vì Ngài là người ẩn dật, ít ai đặng biết đời sống Ngài ra sao, nên sự tích của Ngài rất khó tra cứu. chỉ biết được phần nào qua tra cứu tài liệu hay qua các Thánh ngôn Ngài ban dạy. Theo Kinh Thanh Tịnh, công nghiệp của Đức Thái Thượng Lão Quân chẳng phải ở trong một đời giáng sanh lấy hiệu là Lão Tử mà thôi. Ngài thiên biến vạn hóa, không sao kể xiết. Từ thuở hỗn độn tới bây giờ, không đời nào mà chẳng có Ngài xuất thế. Như: Đời Thượng Tam Hoàng, hiệu của Ngài là Vạn Pháp Thiên Tôn, Đời Trung Tam Hoàng, hiệu là Uất Hoa Tử, Đời Thần Nông, hiệu là Đại Thành Tử, Đời Hiên Viên, hiệu là Quảng Thành Tử, Đời Văn Vương, hiệu là Nhiếp Ấp Tử. Đời Võ Vương, hiệu là Dục Thành Tử, Đời Khương Vương, hiệu là Quách Thúc Tử, Đời Hán Sơ, hiệu là Huỳnh Thạch Công, Đời Hán Văn Đế, hiệu là Hà Thượng Công. Thuyết của Ngài căn cứ vào kinh Dịch, theo lẽ hóa sanh tự nhiên của Trời Đất. Ngài chẳng phải sáng kiến ra thuyết nào mới, mà chánh là tập đại thành các tư tưởng theo Kinh Dịch từ đời cổ nước Tàu. Thuyết của vua Huỳnh Đế, ta thấy rải rác trong các sách Tàu, rõ ràng là tư tưởng về phái Đạo gia. Cho nên người ta bây giờ thường lấy hai họ hiệp (họ Huỳnh và họ Lão) mà gọi Đạo giáo là đạo Huỳnh Lão (Tu luyện phép đơn ngươn Huỳnh Lão – Thông Minh Chú). Khi Đức Lão Tử còn sanh tiền, Ngài chỉ truyền kinh cho ít người đồ đệ, như Quan Doãn Hỉ. Ông nầy là người Tần, sau tự xưng là Văn Thỉ tiên sinh, có làm ra bộ sách, gọi là Văn Thỉ Chơn Kinh. Lần lần tới nhiều đời sau, có ông Liệt Tử phác họa những câu kinh văn vắn tắt, huyền bí cao siêu của Đức Lão Tử, mà làm ra bộ Xung Hư Chơn Kinh. Kế đó, lại có ông Trang Tử lại là một người rất thông minh và hùng biện cũng binh vực cái thuyết của Đức Lão Tử, làm ra cuốn Nam Hoa Chơn Kinh. Nhưng lúc ấy, Đạo giáo còn ở trong thời kỳ triết lý, chỉ có hàng thượng lưu trí thức hiểu được, chớ lời dạy của Ngài chưa có phổ cập dân gian. Đến đời Đường, vua Cao Tông tôn Ngài là Huyền Ngươn Hoàng Đế. Sau vua Huyền Tôn làm điện thờ Ngài. Rồi từ đó đạo Ngài mới bắt đầu mở mang. Đến sang đời nhà Tấn có Ngụy Bá Dương và Cát Hồng hiệu là Bảo Phác Tử thừa kế, mới làm cho Đạo giáo có một nền học thuật hẳn hòi, thể hiện một tông giáo được nhiều người sùng bái. Xem thêm
CÁC LOẠI KINH DO ĐỨC LÃO TỬ BAN CHO ĐỜI Các loại Kinh nói trên là Đạo Đức Kinh, Huỳnh Đình Kinh, Thanh Tịnh Kinh và Cảm Ứng Kinh. A. ĐẠO ĐỨC KINH 道 德 經. Đạo Đức Kinh của Lão Tử chia làm hai phần: - Thượng kinh gồm ba mươi bảy chương, 2140 chữ, bắt đầu bằng chữ Đạo. - Hạ kinh gồm bốn mươi bốn chương (từ chương 38 đến hết chương 81), 2815 chữ, bắt đầu bằng chữ Thượng Đức. Vì thế nên gọi là Đạo Đức Kinh, tổng cộng toàn kinh có tám mươi mốt chương, 4999 chữ. 1. Đạo Kinh: Quyển nầy gồm có 37 chương giải về chữ ĐẠO. Chữ Đạo đây phải được hiểu là tuyệt đối thể bất khả tư nghị, vô biên tế, là căn cơ, là nguồn gốc muôn loài. Theo Đức Lão Tử, chữ Đạo có nghĩa là phép tắc của Vũ trụ. Đạo là một ký hiệu của toàn thể Vũ trụ. Đạo không có hình tích, vốn là Hư tịnh (lặng lẽ, trống không) và Bản thể ấy của vạn vật trong Vũ trụ. Vì Bản thể ấy Hư tịnh nên cá nhân con người phải hết sức khép mình theo lẽ tự nhiên để phục qui về cảnh Hư tịnh. Đó là Nguyên lý cốt yếu của Lão giáo vậy. Đến trình độ ấy rồi mới là đắc thành chánh quả. 2. Đức Kinh: Quyển nầy nối tiếp quyển trên và gồm có 44 chương. Đức tức dụng của Lý Thái Hư hay Lý Nhứt Nguyên là những hoạt động vô tâm, tự nhiên. Chữ Đức phải được hiểu là sự hiển dương của Đạo. Thánh nhân chính là sự hiển dương tuyệt vời của Đạo, cho nên cũng được gọi là Thượng đức Đức Lão Tử cho rằng: “Người đời xưa bất thức, bất tri cho nên vô vi (người xưa không vì mình, không ích kỷ, không tham dục)”. Nói một cách khác, người đời xưa không hay, không biết cho nên không làm, không muốn cái chi chỉ có lợi cho mình mà thôi và nhiều khi hại đến kẻ khác. Tính tình của người xưa hồn nhiên như trẻ nít vậy. Vì vậy người xưa dễ theo Đạo và đắc Đạo. Sau rồi lần lần trí thức con người phát triển và con người bị vật dục mê hoặc mà Đại Đạo ở trong người lần lần bị chôn vùi. Thì chữ đức thời nay chỉ còn là sự biến thiên tương đối bên ngoài. Mà cái tương đối ấy lại đối chọi nhau. Thí dụ: Bên cạnh cái Lành thì có cái Dữ, bên cạnh cái tốt thì có cái xấu, bên cạnh cái dài thì có cái ngắn, tranh nhau trái phải mà con người trôi lăn trong vòng sanh tử. B. HUỲNH ĐÌNH KINH. Định nghĩa: Huỳnh là màu vàng, màu đất, ám chỉ Trung Ương Mồ Kỷ Thổ. Đình: là cái sân trống ở trước nhà. Từ ngữ Huỳnh Đình có nghĩa là Trung Không. Ở trong thân con người từ rún sắp lên là phân nửa trên của con người, như trong thân cây của thực vật. Phần trên ấy là phần Sinh cơ hướng thượng. Từ rún sắp xuống là phân nửa dưới của con người cũng như thân gốc rễ của thực vật và được gọi là Sinh cơ hướng hạ. Cái tổng cơ sinh lý gồm hết cả hai động lực trên và dưới. Theo thực vật thì cái tổng cơ sinh lý ấy ở chỗ chia ranh giới thân cây và gốc rễ, còn về thân con người thì nó ở tại rún. Vậy Huỳnh Đình Kinh là quyển Kinh quý nhứt của Tiên giáo dạy luyện Đạo mà nơi qui căn trong người là chỗ trống không ở trong rún gọi là Huỳnh Đình. Huỳnh Đình Kinh gồm hai quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh và Huỳnh Đình Ngoại Cảnh. C. THANH TỊNH KINH. Đức Thái Thượng Đạo Tổ khi đã thành Đạo rồi, chứng ngôi Thanh Tịnh trên Trời, ý muốn cho người đời tu Đạo đồng hưởng thanh tịnh cho nên Ngài mới đặt ra quyển Kinh Thanh Tịnh. Diễn pháp trường sanh mà lưu truyền trong Thiên hạ để thức tỉnh Nguyên Nhân. Kinh nầy rất giản dị, rất diệu huyền. Thật là một cái bè báu để độ người đời, lại cũng là một cái búa rìu để đoạn Bàng Môn (tà thuyết). D. CẢM ỨNG KINH. Đức Thái Thượng Lão Quân ban ra quyển Cảm Ứng Kinh là cốt để dạy về Lẽ lành dữ trả vay. Cảm Ứng Thiên là một thiên văn chương khuyến thiện rất cổ xưa trong vô số các kinh sách khuyến thiện của Trung Quốc. Người đời cực kỳ tôn trọng Cảm Ứng Thiên mà gọi là Kinh Cảm Ứng. Theo Quyển Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Linh Dị Ký (Ghi chép về những linh nghiệm kỳ lạ do trì tụng Cảm Ứng Thiên) của ngài Vô Tích Vạn Quân Thúc Hào ghi rằng: Kinh này xuất hiện từ đời Tấn đến nay, người noi theo đó tu thân thành tiên (chân nhân) thì rất nhiều, người trở nên phú quí thì vô số kể; kinh này phổ biến khắp nơi. Đây xin trích lục hai đoạn: Kinh và đoạn Minh Nghĩa Đệ nhứt diễn nghĩa như sau: Tiên Ông Thái Thượng dạy rằng: Rủi may không cửa, níu phăng tại mình. Đạo Trời thưởng phạt chí minh, Dữ lành như bóng theo hình chẳng sai. Thứ nhứt Minh Nghĩa tỏ bày, Ai người tỉnh ngộ lánh rày họa tai. Thưởng răn Trời chẳng vị ai, Sai Thần biên chép hôm mai chẳng lầm. Cân theo tội lỗi khinh thâm, Giảm phân phước lộc cũng năm ba phần. Khó nghèo chờ đợi trước sân, Gặp nhiều ưu hoạn tìm lần đến thân. Hễ là chẳng giữ nghĩa nhân, Khiến người đều ghét họa gần chẳng sai. Nếu theo việc dữ gây hoài, Điều lành xa lánh họa tai khó rời. Khuyên đời chớ gọi rằng chơi, Lộc Trời đã hết, lưng vơi khó nài. Dữ lành báo ứng chẳng sai, Có Thần Bắc Đẩu Tam Thai trên đầu. Hễ ai tính việc cơ cầu, Biên cho đúng tội giảm thâu Số người. Luật Trời chớ khá dễ ngươi! Trong mình sẵn có ba người Thần Linh. Ngay gian chép đủ sự tình, Đến ngày canh nhựt Thiên đình cáo tâu. Lại còn Thần Táo trên đầu, Ba mươi mỗi tháng đều tâu y lời. Hễ ai tính việc lưng vơi, Nhẹ thời giảm toán, nặng thời hai năm. Thần Tiên giữ sổ chẳng lầm, Tùy làm nặng nhẹ mỗi năm ghi vào. Ở đời chớ tính thấp cao, Muốn cho trường thọ chớ vào thị phi. TẠM KẾT Tiên Phật luôn muốn truyền lại cho hậu thế nguyên lý sống cho hợp Đạo và những bài học đạo đức để thiên hạ biết tìm về con đường lành, tránh lạc vào nẻo dữ mà phải nuối tiếc cho một kiếp người mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho. Bài Tịnh Tâm Chú có câu: Lòng người đặng tánh linh hơn vật, Biết kỉnh thành dè dặt khôn lanh. Khá tua lánh dữ, làm lành, Những điều nghiệt ác hóa thành khỏi dơ. Trong cuộc sống vật chất hiện đại ngày nay, con người càng dễ bị cuốn vào nhà lửa, nơi mà thất tình, ngũ dục khiến con người trôi lăn trong vòng lục đạo. Mỗi thời cúng, người Minh Lý môn sanh đều được nghe và chiêm nghiệm lời dạy mà tu tâm dưỡng tánh. Chỉ có làm lành lánh dữ thì sự chí nguyện đó mới có thể chuyển hóa được nghiệp dữ đưa người tu đến bến bờ giải thoát. Rất lòng thành tín, Đại Mạng Rút gọn
Thường thì cứ mỗi năm ra Tết, Rằm tháng Giêng là một ngày lễ tín ngưỡng lớn của người dân Á Đông. Như ở nước ta, đi lễ chùa cầu phước vào ngày nầy đã trở thành một phong tục đầu xuân. Các chùa các đền miếu đều tấp nập người hành hương, lễ bái với niềm tin được Trời Phật Thánh Thần ban nhiều ân phước trọn năm cho người thành tâm cầu nguyện.
Với ý nghĩa thiêng liêng đó, chúng tôi xin được trình bày về một cách sống đạo đức dựa trên căn bản giới không sát sanh và sự tương tức trên con đường tu tập của mổi chúng ta. Về ý nghĩa cơ bản, giới được đặt trên nền tảng từ bi thương sót đến tất cả muôn loài chúng sanh, là không làm các điều ác và làm các việc tốt lành hay nói một cách khác, không làm những gì có hại cho mình, cho chúng sanh, hoặc hại cả hai, và tích cực làm những gì về cả ba phương diện thân, khẩu và ý mà có lợi cho mình và cho chúng sanh. Giới không sát sanh là giới thứ nhất, không phải là những điều răn dạy hay cấm đoán trong nền tảng luân lý thông thường mà được đặt trên cơ sở bình đẳng Phật tánh nơi mỗi chúng sanh, nơi lòng từ bi của con người và nơi định luật nhân quả của vũ trụ vạn vật. Kinh Đại Bát Niết Bàn dạy: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì bị vô lượng phiền não che phủ nên chúng sanh chẳng nhận thấy được. Đối tượng chúng sanh trong giới cấm thứ nhất của đạo Phật là hữu tình chúng sanh, tức là những chúng sanh có hệ thần kinh, có tình cảm, biết cảm giác, biết đau đớn và vui sướng.. Chúng sanh ấy bao gồm từ người cho tới các loài động vật trên bộ, trên không và dưới nước, từ những con vật lớn như voi tượng, như cá ông cho đến các con vật nhỏ bé như kiến, như sâu trùng. Do nghĩa trên mỗi cá thể chúng sanh đều đồng có Phật tánh, đều có khả năng thành Phật nên có đặc tính bình đẳng, do đó người biết tu tập không những không dám sát hại chúng sanh mà còn phải tôn trọng và bảo vệ chúng sanh. Bản chất của chúng sanh, dù loài nào, cũng đều ham sống sợ chết. Giết hại chúng sanh tức là gây cho chúng sanh một sự đau đớn về thân thể và một sự tuyệt vọng khi lòng ham sống bị đe dọa và xâm phạm. Hơn nữa, cái chết của một chúng sanh luôn luôn đồng nghĩa với sự chia lìa thân quyến. Khi một chúng sanh bị đe dọa đến mạng sống, chúng cũng có những phản ứng tự vệ, ít nhất là phát ra những nỗi oán hờn thù hận đến những ai định tâm sát hại chúng. Tại sao chúng ta làm đau đớn hay hủy mạng sống của chúng trong khi chúng ta lại muốn sống và không muốn ai hành hạ chúng ta? Sát sanh là nguyên nhân của chiến tranh tàn phá. Con người giết đồng loại, thú vật một cách si mê ngu muội, đâu biết rằng niềm oán hận không thể nào xóa bỏ cứ chồng chất theo năm tháng khó mà cản ngăn nỗi thù sâu oán trả. Xem thêm
Đạo Phật chủ trương cấm sát sanh, thể hiện một phần qua việc ăn chay, như là một chính sách dinh dưỡng tốt và cần thiết cho sự hành trì Phật pháp của mỗi cá nhân, ổn định cho gia đình, xã hội, và tận diệt nguồn gốc của chiến tranh. Dân gian thường nói: “Ăn chay để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ nhân dịp những ngày rằm lớn”, là một phong tục đẹp góp phần cho cuộc sống đạo đức. Khoa học cũng đã chứng minh con người không cần ăn thịt cầm thú, mà cũng có thể sống mạnh khỏe được, lại còn tránh nhiều tai hại khác về mặt tinh thần lẫn cả vật chất nữa. Loài cầm thú tuy ít có trí thông minh, mà cũng cùng có tình thương yêu, ham sống sợ chết, chẳng khác nào hạng em út của chúng ta vậy. Thế thì ta nở lòng nào vì sự ngon miệng mà sát hại chúng nó cho đành. Nếu ta không chừa các thức ăn ấy, thì nó sẽ làm cho linh hồn ta tập nhiểm điều không tốt. Tại sao ? Vì loài cầm thú tánh còn hung ác, trí sáng suốt chưa mở mang. Nếu ta ăn thịt máu của thú vật, thì không sao khỏi bị thú tánh ô nhiễm ít nhiều đến linh hồn ta. Lại giết một con vật vô cớ, vì ta có thể sống bằng rau cỏ, chớ không phải chỉ ăn thịt mới là sống được, và giết con vật không đủ sức tự vệ, là tỏ ra mình khiếp nhược, hiếp đáp kẻ yếu, quên đi cái lý tưởng bác ái, đánh mất lương tâm của mình vậy. Ý NGHĨA TRONG VIỆC TU TẬP CỦA MỖI CHÚNG TA Đối với Đức Phật, từ bỏ sát sanh có nghĩa là bố thí sự không sợ hãi, bố thí sự không hận thù, bố thí sự không làm hại cho vô lượng chúng sanh. Đây là bố thí đệ nhất, bố thí tối thượng, bố thí vượt ngoài thời gian, bố thí được tồn tại lâu dài. Hạnh bố thí giúp người tu mở rộng lòng từ bi, lập hạnh buông xả. Ở đây lời dạy của Đức Phật về lòng từ, về tôn trọng sự sống, về không sát sanh sẽ đi rất xa trong sự nghiệp thay đổi tâm thức của người tu. Chúng ta phải tu tập lòng từ để nhiếp phục lòng sân và bất mãn. Chúng ta cần phải tu tập lòng bi để gìn giữ không làm tổn thương một ai, một sinh vật nào. Chúng ta cần phải tu tập lòng hỷ để hoan hỷ trước sự thành công của người khác. Chúng ta phải tu tập lòng xả để tâm thanh tịnh, không còn vướng bận, so đo tính toán. Đức Phật Thích Ca chủ trương hai chữ từ bi là vì lẽ nói trên. Chúng sanh đồng có một bổn thễ, đồng có một Phật tánh mà ra, thế thì chúng sanh là anh em ruột thiêng liêng cả. Cũng như theo thế tục người đời thường gọi: anh em ruột là đồng một hòn máu, mà xắn ra làm năm, làm bảy vậy. Nếu ta xét kỹ đồng một chất ô trược mà còn thương yêu nhau, huống là đồng một tánh thiêng liêng, lẽ nào chúng ta chẳng biết giúp đỡ lẫn nhau, cứu vớt lẫn nhau hay sao? Làm được điều đó mới là đúng là công phu thiệt hành của các vị Bồ tát của Phật. Người đời vì thiếu trí huệ, tham đắm vị ngon, mặc tình dồn chứa, ra tay sát hại, tạo tác muôn ngàn thật đáng thương. Chỉ ngon qua ba tấc lưỡi, một ngày kia ân oán trả vay, vay trả không dứt thì dù Chư Phật, Bồ tát có phép huyền diệu đến đâu, cũng không thế nào độ dẫn chúng ta được. Lòng vị kỹ, chấp trước sẽ đưa chúng ta mãi trôi dạt trong luân hồi sanh tử. Giữ giới là phương pháp tu tập trái tim đồng cảm làm cho tâm hồn trở nên sinh động, đầy cảm xúc thanh cao, quân bình hoà điệu trái tim và khối óc, hay nói cách khác hòa điệu ý, trí, tình để vươn tới con người chí thiện. Nếu giữ giới mà tâm địa hẹp hòi, khó chịu, bảo thủ, chấp chặt … thì không còn bản chất giới của Phật nữa mà trở thành phiền não. Nói về giới không sát sanh này, sách Nho dạy: "Thi ân bố đức". Kinh Đạo dạy: "Ái vật háo sanh". Phật dạy giữ giới cấm sát sanh. Giới không sát sanh được đặt trên định luật nhân quả, của tác động và phản động, đây là định luật thiên nhiên. Nhân là nguyên nhân gây nên và quả là kết quả. Như trồng hạt lúa thì có cây lúa, trồng cam thì có cây cam. Định luật nhân quả chi phối tất cả chúng sanh hữu tình lẫn vô tình. Tất cả hành động của chúng ta bao gồm thân làm, miệng nói và tâm ý mà đạo Phật gọi là ba nghiệp thân khẩu ý. Nghiệp là hành động sẽ đưa đến kết quả tốt hay xấu. Do đó nếu chúng ta làm những điều ác dữ thì chúng ta sẽ bị quả xấu mà thường hay gọi là nghiệp báo. Tiên gia có dạy: “.. Giết một con thú, làm một việc bất lương cũng đủ ngăn ngại cho ta lúc lên đường, họ xúm nhau mà cản trở. Phương chi mỗi người, dầu ít dầu nhiều, cũng kết buộc oan gia với ngạ quỷ, với súc sanh, với tình ái ân trong gia đình, xã hội”. Cho nên khi khởi ý niệm gì, cũng nên thật cẫn trọng để tránh điều hối tiếc. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật có nói rằng: Vì chúng sanh đồng ham mến bồi bổ thân mạng, lòng ham mến ấy không bao giờ dứt. Cho nên các loài thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hoá sanh, ở cõi thế gian mạnh hiếp yếu, ăn lẫn nhau . . . Hạng nầy lấy sự sát hại làm gốc. Bởi nghiệp sát hại đó, nên người ăn thịt súc vật, súc vật chết rồi trở lại làm người, người chết rồi trở lại làm súc vật, trong các loại chúng sanh cũng như thế cả, chết rồi sống, sống rồi chết, cứ ăn lẫn nhau. Lòng từ bi có được phát khởi và tu tập thì mới mong giải hóa được nghiệp sát sanh đả bám rễ vào biết bao tiền kiếp. Ý NGHĨA VỚI NHÂN SINH VÀ MÔI TRƯỜNG Một người thực thi giới Không sát sanh , tức là người đó quý trọng sự sống dưới mọi hình thức, dù đó là con người, súc vật hay cây cối. Đối với đạo Phật, giết hại súc vật một cách không cần thiết, hủy hoại thảo mộc một cách vô tổ chức là một tội lớn. Cho nên, hành trì giới này không chỉ tạo ra sự an lành cho chính mình mà còn đem lại sự bình an cho những người xung quanh, nhất là đảm bảo một môi trường sống hòa bình, trong lành. Hay nói cách khác, lòng từ được hóa hiện trong mỗi trái tim biết yêu thương và quý trọng sự sống. Tại đây, sự tham lam, sân hận, si mê, sự băng hoại đạo đức về trộm cướp, tà dâm, không tôn trọng sự thật, buông thả trong say sưa sẽ giảm thiểu và đi đến đoạn trừ. Tu tập lòng từ bi của Đức Phật sẽ tăng trưởng tình thương và tôn trọng cuộc sống của vạn hữu chúng sanh. Trong vũ trụ bao la, hành tinh chúng ta cực kỳ nhỏ bé, sự sống mong manh, trước đe dọa của một thảm họa hạt nhân. Nếu nhìn sâu xa hơn, chúng ta đang chung sống tương tức lẫn nhau trên hành tinh này, nên tôn trọng và bảo vệ sự sống còn của con người, tôn trọng và bảo vệ sự sống của sinh vật, tôn trọng và bảo vệ sự sống của cỏ cây hoa lá là sứ mạng không của riêng ai. Sự sống tự nó là sự mầu nhiệm, đòi hỏi chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ, dầu là sự sống động vật hay thực vật thậm chí là của đất đá. Hủy hoại đời sống người khác, các loài hữu tình hoặc vô tình để duy trì đời sống của mình, không những trái với đạo lý con người, mà còn nghịch lại với luật thiên nhiên. Tôn trọng và bảo vệ đời sống của con người, của mọi loài, là động lực hay nhất và thiết thực nhất để bảo vệ và tôn trọng đời sống của chính bản thân mình. Bảo vệ sự sống ở nơi đây còn có nghĩa bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sự dinh dưỡng trong lành của đất, nước, cỏ cây hoa lá, bảo vệ sự trong sạch của bầu khí quyển khỏi bị ô nhiểm, để nuôi dưỡng sự sống con người. Chỉ bằng cách bảo vệ hữu hiệu môi trường sống mới có khả năng bảo đảm sự sống của muôn loài và sự sống còn của chúng ta. Nguyên lý này đặt trên nền móng, trên lời khuyên của Đức Phật, chớ có sát sanh, chớ có khuyến khích sát sanh, chớ có chấp nhận sát sanh để lòng từ bi được trưởng dưỡng trên con đường tu tập. TẠM KẾT Trong năm điều cấm giới, giới không sát sanh được Đức Phật thiết lập đầu tiên, có vị trí và vai trò hàng đầu trong năm giới. Có thể xem giới không sát sanh là cơ sở, cội nguồn để xác lập đạo đức, sự nhân cách con người. Các giới còn lại hình thành và đi vào sự vận hành trong đời sống thực tiễn khi giới đầu tiên này được nghiêm tức gìn giữ. Do đó, nó không chỉ có giá trị đạo đức cao trong qui ước của một xã hội an bình mà nó còn là nền tảng, chuẩn bị để chúng ta vươn tới niềm an lạc xuất thế, cho đến cái tối thiện, cảnh giới hạnh phúc vĩnh hằng là Niết-bàn. Phật dạy tu thì phải làm sao cho cái bổn thể mình tương tức với bổn thể của chư Phật, Bồ tát. Nếu còn tướng sanh ngã (vị kỹ) và pháp ngã (chấp trước), thì cái bổn thể ấy bị ngăn chia giữa ta và chư Phật, Bồ tát, nên chư Phật, Bồ tát khó mà độ dẫn cho ta. Việc ăn chay là một sự thực tập thật cần thiết để tu thân tâm. Khi mới vào đạo, ta nên tập ăn trai kỳ lần lần, chọn món ăn cho đủ chất mới tránh khỏi bệnh hoạn. Chừng nào ta ăn chay trường được, mới là đặng trọn đủ lòng từ bi, mới mong đặng hoàn toàn giải thoát. Nhơn dịp lễ Thượng nguơn, chúng ta cùng hiệp tâm cầu nguyện Thượng Đế và Tam Giáo Tổ Sư ban ơn lành cho vô lượng chúng sanh vơi cảnh khổ, an lạc cuộc sống, hướng tâm hành thiện. Rút gọn
Tất cả chúng ta đều muốn sống một cách an lạc và hạnh phúc. Tuy nhiên, ai cũng có lúc bị phiền não, bực dọc; và những khi ấy, chẳng những bản thân mình đã bị bực bội, khổ sở mà cả những người chung quanh cũng có thể bị ảnh hưởng lây do những cử chỉ, lời nói thiếu hòa nhã của mình. Dĩ nhiên, không ai muốn vậy cả. Thế nhưng tại sao chúng ta cứ tiếp tục bị bực bội, khó chịu, khổ sở…? Vì người nào đó làm trái ý với ta, vì một sự việc nào đó xảy ra không như ý muốn, hay một sự việc mình muốn lại không được toại nguyện. Mấy ai trên thế gian này hoàn toàn tránh được những tình huống ấy ? Vậy, vấn đề đặt ra là CÓ CÁCH NÀO ĐỂ GIÚP CHO TA KHỎI BỊ PHIỀN NÃO HAY KHÔNG? LÀM SAO CHÚNG TA LUÔN GIỮ ĐƯỢC SỰ AN LẠC, TỰ TẠI VÀ HẠNH PHÚC? Vấn đề xem ra không phải ai trong chúng ta cũng có một lời giải thỏa đáng cho chính mình. Hôm nay tôi chỉ xin phép đưa ra một gợi ý để chúng ta cùng tư tuy, trao đổi để tự xác lập cho mình một hướng tu học trong cuộc sống. Vậy thử định nghĩa xem phiền não là gì?
Theo tự điển Phật học Huệ Quang: phiền não trong tiếng Phạn là Klesa, tiếng Pali là Kilesa, Hán âm dịch là Kiết lê Xá còn gọi là Hoặc. Đó là trạng thái lo buồn, sầu khổ, sợ hãi, làm náo loạn thân tâm chúng sanh. Nhưng đối với Phật giáo thì những tác dụng tinh thần gây chướng ngại cho sự giác ngộ đều gọi là phiền não. Theo Duy Thức Thuật Ký: Phiền là lo buồn và Não là tán loạn, nghĩa là cái gì làm cho thân tâm lo buồn, loạn động, gọi là phiền não. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ có ghi: Tất cả chúng sanh đời vị lai bị giặc phiền não làm hại. 1. Phiền não từ đâu mà có? Chúng ta cùng nghe một cậu chuyện sau đây để chiêm nghiệm: Có người lượm một cục đá ném vào con chó, bị đau quá con chó giận và chạy theo cục đá sủa để trả thù. Vì vô minh con chó không biết rằng nguồn gốc sự đau khổ của nó không phải là cục đá mà do người ném. Xem thêm
Người đau khổ phiền não cũng vậy. Vì sự chấp nhất của mình, vì sự vô minh trong tâm mình làm mình đau khổ, vậy mà mình cứ đổ lỗi cho lục trần (Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp) làm mình đau khổ mà không nhận ra rằng tại ta nhìn những đối tượng chung quanh mình rồi khởi tâm phân biệt vướng mắc quá nhiều nên ta chỉ thấy khổ. Vậy thì nếu là người tu thì nên bớt vướng mắc chừng nào thì ta bớt khổ chừng nấy. Người tu tập đúng nghĩa là phải chuyển hóa cái nhận thức sai lệch của chính mình chứ không phải thù ghét những thứ xung quanh, rồi cho chúng là nguyên nhân gây những khổ đau cho ta: Điều này có nghĩa là chúng ta nên dụng tâm chuyển cảnh chớ đừng buông cho cảnh chuyển tâm. Người xưa vẫn thường nói: Chúng ta thường dùng cái bị phía trước chứa lỗi người, và cái bị sau lưng chứa lỗi mình. Hoặc nói chúng ta là luật sư tốt cho bản thân mình (bênh vực) mà là quan tòa xấu (đổ lỗi) cho người khác. Thánh nhơn vẫn thường dạy: Người tu là thấy lỗi mình chớ thấy lỗi người. Chúng sanh thì đôi mắt ngó ra, người tu thì ngược lại nhìn vào nội tâm, quán chiếu thấy sai lầm của mình và sửa đổi. Sách kinh dạy: Con người ta chỉ có một chử ÁI (ưa mến) mà không trừ bỏ đi được. Mến danh lợi thì bị danh lợi ràng buộc. Mến tửu sắc thì bị tửu sắc ràng buộc, mến thân gia (thân mình, nhà cửa) thì bị thân gia ràng buộc, mến con cháu thì bị con cháu ràng buộc. Nó đem cái chơn tánh nầy ràng qua buộc lại, điên-đảo, đảo-điên, lên xuống cõi trần gian này, mà chịu không biết bao nhiêu sự khổ. Thánh nhơn cũng dạy rằng mọi điều tội lỗi, độc ác, sa đọa đưa đến phiền não đều do bức màn vô minh che lấp Chơn tâm Tự tánh. Sự nhận thức của con người không nhận biết được cái nào là chơn, là giả, điều nào là thiệt, là hư, cũng đều do bức màn vô minh ngăn cách giữa con người và chân lý. Con người thường nhận xét các sự vật qua mắt trần và suy nghĩ chủ quan của mình, nên thường bị thất tình lục dục gạt gẫm đánh lừa. Vậy thì phiền não là do chính chúng ta tự tạo ra cho chúng ta vì vô minh mà sanh lòng ích kỷ, vì tham sân si mà gây bao điều phiền não cho chính mình và cho những người chung quanh. 2. Nhận biết rõ phiền não đang hoành hành thân tâm, nhưng muốn đoạn trừ nó thì không phải dễ. Vì sao? Đức Trần Hưng Đạo dạy khi mỗi người chúng ta bước đầu vào tu, cốt làm lành lánh dữ vì chúng ta hầu hết ở cõi đời này, ai nấy cũng có tạo nhân không lành, chịu quả không tốt, khi tỉnh ngộ nên cải ác tùng thiện, chứa đức tu nhân, chuộc lại tội tình đã gây kiếp này và nhiều kiếp đã qua. Tuy tâm sáng biết cái sự phải, sự trái, việc tốt, việc xấu, song cũng khó mà làm theo sự thấy biết, vì nghiệp chướng tham sân từ vô thỉ, cái che của vô minh còn dày đặc cản trở bước đường tu học. Người tu ai cũng muốn thành đạo quả, thoát biển trần khổ; nhưng vì cái nhân đã gieo, cái nghiệp đã tạo từ nhiều kiếp trước đến nay cứ trôi lăn trong dòng quả báo, biết kiếp kiếp là phù sinh trong cõi tạm, nếm đủ mùi đau khổ; muốn thoát cũng không cách nào thoát ra được. Con người là thích động, thích hướng ngoại. Hể có thân tất có ưa vui sợ khổ, tránh khổ tìm vui. Mỗi một bước thất bại đau thương là một bước tiến sâu vào bài học kinh nghiệm, cho nên biết không một chúng sanh nào mà không tìm lối thoát. Nhưng nếu bàn chân chưa dẫm nát gai chông, khuôn trán chưa răn reo sạm nắng, bát cơm chưa chan nước mắt, dòng sinh mạng chưa từng bị ăn sắt cục, uống nước đồng sôi, thì máu thánh Hiền chưa trổi dậy. Thật là phải nếm mùi đau khổ thì mới nhận ra được chân lý. 3. Phiền não tức Bồ Đề Như trên có nói phiền não làm cho thân tâm lo buồn, loạn động mà con người mình thì sanh đủ mọi phiền não mà lòng chẳng biết chẳng để ý. Có lúc phiền não hiện ra nơi mặt, có lúc mình dấu trong tâm. Khi vô minh mà nổi dậy thì chẳng có biết chuyện chi nữa, đen trắng, phải trái không còn phân biệt thì lòng liền u mê hồ đồ, chúng ta nên biết phiền não là nhân duyên chướng ngại Đạo, là rào cản ngăn bước tiến đạo. Tuy vậy nếu biết khéo tu thì “phiền não là Bồ Đề”. Nếu chẳng biết minh triết thì Bồ Đề trở thành phiền não. Vì phiền não và Bồ Đề vốn cùng một thể như nước biển và sóng biển vậy; cũng đồng một thể là TÁNH ƯỚT. Khi vô minh thì nước biển dậy sóng phiền não nhưng khi thanh tịnh sáng suốt thì sóng dịu gió êm, sóng nước phiền não lại trở về mặt nước biển Bồ Đề thanh tịnh. Có phiền não thì sóng cuộn dâng trào. Chẳng phiền não thì Bồ Đề hiển hiện. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư cũng có dạy cho Minh Lý môn sanh: Thánh xưa cũng vẫn có thất tình lục dục, nhưng Thánh xưa biết sử dụng điều khiển những thất tình lục dục ấy đúng chỗ, đúng lúc và hợp hoàn cảnh. ……. Mừng là mừng thấy có ý nghĩ lời nói và hành động có tác động vào sự tế nhân lợi vật. Vui là vui đã làm được những việc giúp đời. Giận là giận khi thấy lòng chưa được thanh tịnh hoặc ý nghĩ lời nói việc làm không thuận Thiên hòa nhơn, tự khắc kỷ để tự hậu không còn tái diễn. Ghét là ghét những điều trái đạo lý luân thường nhân nghĩa mà không thèm nghĩ đến, nhìn đến, nói đến và làm đến. Sợ là sợ những hành động trái với đạo đức, trái với lòng Trời, chớ không phải sợ dư luận khen chê tán tụng. Có điều khiển làm chủ hướng dẫn được thất tình thì chúng nó sẽ ngoan ngoãn tuân theo rồi lần hồi trở thành thói quen. Biết tận dụng điều khiển thất tình, chúng nó sẽ trở nên thất bửu là bảy món báu vô giá để làm tả phù, hữu bật, tiền xung, hậu kích, trước mọi cảnh ngộ đảo điên và chúng sẽ giúp trở lại chủ nhơn ông được trọn vẹn trên đường Thánh thiện . Danh ngôn có câu: Tâm thanh, thủy nguyệt hiện Ý định, thiên vô vân. Nếu tâm có bình, ý có định thì phiền não chẳng thể phát khởi, Bồ đề tâm ắt hiển hiện. Cũng có câu: Tâm lắng, niệm dừng là phú quý thật Dứt hết tư dục ruộng phước mới chân. Người giàu sang chân thật là người biết dừng vọng tưởng, lắng lòng trong sạch, chuyển hóa tam độc. Không lòng tư dục (lòng dục vọng ích kỷ, vì cá nhân mình) thì đó là ruộng phước. Nếu lòng ham muốn ích kỷ riêng tư này mà trừ hết được thì đó mới là ruộng phước chân thật. 4. Các bước công phu … Bước đầu công phu tu học là phải đoạn duyên giản sự, tập buông bỏ hết mọi ngoại cảnh ảnh hưởng đến tâm mình để vào thiền định tiêu trừ những tà niệm. Ngoại cảnh còn ràng buộc, tà niệm còn tuôn trào, thì làm sao an trú được trong thanh tịnh. Không còn vướng mắc vào cái ta thì đạo tâm mới có thể hiển hiện. Đức Hà tiên Cô khuyên: …… nếu đã tu thì phải tiêu trừ vọng niệm, đoạn dứt trần duyên. Dầu một sớm một chiều chưa xong thì gia tăng tốc lực nhiều năm nhiều tháng. Mỗi lúc tâm phàm giảm xuống thì trí huệ tăng lên. Phiền não không còn thì Bồ đề xuất hiện. Tiên với phàm chỉ cách nhau một niệm. Bởi vậy mới có câu: “Bể khổ vô nhai, hồi đầu thị ngạn.” Chỉ có quay đầu, hướng tâm là thành, giác ngộ là đến, xa mà không xa. Xa gần do mê hay giác mà thôi. Từ nhận thức được phiền não là do chính sự vô minh trong tâm mình làm mình đau khổ, vậy nên muốn đoạn trừ phiền não thì phải tu tịnh để gột rửa thân tâm; vén bức màn vô minh đã che cái Chơn Tâm sáng suốt của mình qua nhiều kiếp luân hồi. Đức BNTS dạy: … Muốn tìm lại Chơn Tâm thì chỉ có một hướng phản tỉnh nội cầu, quay ngược cái sở dụng hướng ngoại trở về tự thân, để nhận lại chủ nhơn ông hằng có của mình, đó là cái “bản lai diện mục”bất di bất dịch vạn cổ như như, mà bấy lâu chưa được khải ngộ, bị lãng quên, nhận lầm cái thức tâm vọng tác, chạy theo trần cảnh, lặn hụp trong biển sanh tử, chịu đủ khổ đau. Ngài cũng dạy rằng: Mọi điều đau khổ, phiền nảo, loạn lạc, bất nhứt, phân ly trong xả hội đều phát xuất từ tâm thức con người mà biến thành hiện tượng, hiện tượng trở lại nhiểu loạn gây tan tác khổ đau cho xã hội và con người. Vậy thì muốn cứu giải con người cũng chỉ có bắt tâm thức quay ngược trở về chỗ cội nguồn của tâm thức. Khi tâm thức theo gốc bỏ ngọn thì thiên hạ thái bình. Cũng món thuốc đó, nếu biết chế sao, thì chất độc trở thành chất bổ; thấu đáo cái nguyên nhân, tức thời giải quyết được ngay, chuyển loạn thành trị vậy! Để vửng bước tu tịnh, đoạn trừ vô minh, phiền não, phải giữ sao cho trọn ba điều là TÍN, NGUYỆN, HẠNH. TÍN là phải có lòng tin vững chắc. Tin vào sự nổ lực của mình cho đến cùng. Tin chung quanh còn được bao nhiêu trợ duyên gia hộ, thần thánh dắt dìu. Tin có Trời là chủ nhơn ông cầm quyền tạo hóa. Tin có luật báo ứng, gieo nhân gặt quả. Nên cố làm, làm cầu thanh phước tiêu giải oan trái tiền khiên. Biết mình từ vô thỉ đến nay tạo lấy bao nhiêu nghiệp chướng chưa sao giải được, nên thân này chồng chất vô minh, oan trái không dứt. NGUYỆN LỰC phát ra từ lòng tin mảnh liệt, rộng lớn như Quan Âm Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Đức Phật Di Đà: Nguyện học Pháp môn - Nguyện thành Phật Đạo - Nguyện độ chúng sanh – Nguyện đoạn phiền não. Nguyện lực sâu dày sẽ cảm động Chư Thiên, Bồ Tát. Các Ngài sẽ giúp ta mọi mặt trên con đường công phu tịnh luyện. đoạn trừ phiền não. ĐẠO HẠNH là kết quả của công trình Giới Định Huệ bền bỉ, lâu dài. Người tu phải biết khép mình vào giới quy để hạn chế tâm tà nổi lên, mới giữ được lòng mình dần dần an nhiên tự tại trước cám dỗ của hoàn cảnh, gột rửa lần để thân tâm được thánh khiết. Giới có giữ trọn thì định mới sanh. Nhờ giới kềm chế vọng tâm, tiêu trừ chướng nghiệp, tạo nên công đức thù thắng, đặng quả chơn định mà trí huệ sinh ra. Trí huệ sinh ra là chơn tâm, là Bác Nhã phục sinh thì mới vẹt sạch được bức màn vô minh đã khiến chúng sanh chìm nổi trong biển khổ, mới đoạn trừ được phiền não. TÍN, NGUYỆN, HẠNH là huyền năng đủ khiến cho chúng sanh tỉnh ngộ hồi đầu, an ủi nỗi khổ đau cho muôn loài vạn vật. Kết luận Phiền não đẩy chúng ta đến mọi đau khổ, điên đảo trong cuộc sống cũng như trên con đường tu. Phiền não phát khởi đều do bức màn vô minh che lấp Tự tánh. Bức màn vô minh ngăn cách giữa con người và chân lý. Vậy muốn tìm được chân lý, quay về với Chơn tâm Tự tánh thì phải vẹt bức màn vô minh ngăn cách này chớ không có con đường nào khác. Để vửng bước để đoạn trừ vô minh, phiền não, phải giữ sao cho trọn ba điều là TÍN, NGUYỆN, HẠNH. Công phu giới, định, huệ giúp cho người chơn tu men lần đến cứu cánh là Bồ đềTâm, Bác Nhã trí thì mới vẹt sạch được màn lưới vô minh, đoạn dứt được phiền não. Đoạn dứt phiền não ở đây nên hiểu là SỐNG TRONG PHIỀN NẢO NHƯNG VẪN TỰ TẠI, AN LẠC. Rất lòng thành tín Rút gọn
BÁC NHÃ chưa khai, vọng chấp còn, THIỀN đồ tu đức chí còn non. SƯ thừa thánh pháp minh phân rõ, Mừng lúc Thiên ân sứ mạng tròn. Chào chư Thiên ân đệ muội thanh tịnh nghe dạy. Chư Thiên ân đệ muội đã thấu biết môn đạo tu hành cốt ở tâm thiền tịnh định thì dầu ở trong thiền hay ngoài thiền, đi, đứng nằm, ngồi, thị, thính, ngôn, động, được thanh tịnh, thì cũng nhập cảnh Viên giác đó vậy. Hôm nay tuy đợt tu liên tục 24 giờ thì không cứ ở thiền phòng mà ở đâu cũng hành thiền quán chỉ. Hầu đàn cũng là một cách thiền rất thiết yếu, thân tâm được hòa nhịp với linh điển, nhứt nhứt để tai vào từng phát ngôn, theo dõi Thánh dụ, tâm hồn không lìa khỏi luồng sóng điện thần cơ, đó cũng giúp cho tâm chánh niệm trong khóa này. Bần Tăng hôm nay, được lịnh QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT mang linh điển rót vào Thánh Sở và chư Thiên ân, muốn cho sứ mạng của mỗi người trong Thánh Hội chúng ta được kiến công đắc vị. Theo sự cố gắng của Thiên ân đệ muội liên tục tu học, kẻ giảng người nghe cũng đem hết tấc tình, nhưng trông lại từ người thì chưa thấy tiến được bước nào, cũng có nhiều lý do: vì tâm nguyện còn yếu nhược, thấu đạt giáo pháp chưa triệt thông mà hoàn cảnh mỗi lúc đập mạnh vào tâm, nảy sanh buồn vui động loạn, hoặc vì nghiệp chướng còn nhiều, nặng phần đời, phần giải thoát tâm linh không được mấy. Bần Tăng cũng đã chỉ chỗ động cơ sinh diệt lúc còn tại thế; từ ngày tịch liễu đến nay, chư Thiên ân hiểu thì hiểu đó, nhưng khi bắt tay hạ thủ hành thiền thì chưa mấy người. Dầu có làm cũng là việc phụ, đâu tha thiết tư duy nên chưa thấy được lạc thú của thiền sinh tâm chánh niệm. Bần Tăng cũng thường dạy cái nguyên lai tự tánh thanh tịnh, ai ai cũng sẵn có, nhưng cái tâm Chơn nhứt kia bị vô minh che lấp mà quanh quẩn trong sáu nẻo luân hồi. Vì sao mà có vô minh? Vô minh là cái gì? Chưa thấy một ai thấu hiểu. Bần Tăng cũng nhắc lại chư Thiên ân đệ muội suy gẫm như: - Như Lai Tạng một mực không sanh diệt như tánh ướt của nước. - Bảy thức sanh diệt như sóng nổi trên mặt nước. - A-Lại-Da sanh diệt và không sanh diệt như biển gồm cả hai thứ động, tịnh. - Vô minh không sanh diệt, cũng không phải không sanh diệt, tỷ như gió lớn làm cho nước nổi sóng, nhưng nó không phải nước cũng không phải sóng. Bốn thứ đó cũng là một tâm, nguyên Chơn như bất giác mê nhứt tâm mà biến thành thức, thì vô minh không phải thức cũng không phải không thức. Vô minh không diệt nhưng không phải không diệt. Chư Thiên ân cần đi thêm vào một khoảng ngắn nữa sẽ thấy. Chơn như tâm bất giác mà có vô minh, bất giác mà có tâm vương, tâm sở. Đã nói vô minh là gió, vọng giác quấy động biển thức gây nên sóng gió, sóng là thức khởi lên giúp cho trợ tăng thêm sức gió. Gió là vô minh, gió càng mạnh, sóng càng to, sóng càng to là gió càng mạnh. Hai bên tương hệ lẫn nhau mà gây nên nghiệp sanh tử. Bây giờ ta cần hiểu cái sóng là cái động, cái động là cái vọng tưởng, niệm niệm chuyền leo. Cái vọng tưởng kia là cái ý, ý khởi thì niệm sanh, ý niệm khởi sinh thì tất cả tâm sở dữ lành đều tấp nập dấy động. Nếu niệm lành thì thọ lạc, niệm dữ thì thọ khổ, nghiệp dẫn đi quanh quẩn trong sáu nẻo luân hồi. Dầu là vô thỉ vô minh thổi gió bất chánh mà ý thành tâm chánh thì không dễ biển thức nổi sóng. Bởi vậy mà HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG mới dạy vô minh tức thị viên minh. Ý thuần là Như Lai Tạng, nên bước tu cốt là chủ cho được ý. Ý đã thuần tịnh là Đạo thành, niệm được thuần như là Bác Nhã. Cổ Thánh có câu: “Niệm tưởng quán dĩ trừ, tắc năng kiến Bác Nhã”. Đây Bần Tăng tóm gọn ý lại giúp cho chư Thiên ân đệ muội một phương thức cầu tu chóng nên Đạo quả. Đừng chê đó là tầm thường mà bỏ qua thì khó mong đạt đích. Xem thêm
THI BÀI Khai cơ để mở cửa Huyền, Chánh tâm diệt dục huờn nguyên Chơn thần. 1. Tu tam nghiệp sạch thân, khẩu, ý. Vững một lòng chung thỉ dẻo dai. Đạo mầu thể, dụng, không hai, Nhứt chơn bình đẳng trong ngoài một Tâm. 2. Chỗ cứu cánh cầu tầm ở đó, Pháp tu hành, không ngõ nào hơn. Phật Tiên kiến tánh qui chơn, Nho gia trung thứ, nghĩa nhơn, cũng là 3. Cũng dạy trừ cái ta tham vọng, Cho biển lòng gió sóng lặng yên. Lặng yên: cảnh giới cửa thiền, Lặng yên: tam ngũ triều huyền phục sơ. 4. Lặng yên thì sinh cơ phát xuất, Lặng yên: tâm trung nhứt đồng thiên. Cách nào cầu được lặng yên? Lặng yên: buông xả muôn duyên, ta, người. 5. Ngã, pháp, khi tách rời đôi mảnh, Mà khiến tâm xúc cảnh suy lường. Sanh tình lấy bỏ ghét thương, Quên rằng một gốc Chơn thường mà ra. 6. Pháp cũng ta, mà ta cũng Pháp, Thấu nguyên lai bảo hợp Thái hòa. Không nhơn, không pháp, mới là, Hoát khai trí huệ vượt qua kia bờ. 7. Đã thấu rõ động cơ siêu đọa, Đọa là do chấp ngã, chấp tình. Siêu hay chủ được ý mình, Ý không vọng loạn thì tình lặng yên. 8. Cách giữ còn an nhiên giác tĩnh, Phải kiền thành tu chỉnh oai nghi. Thấy, nghe, ngôn, động, xét suy, Theo Thầy, gần bạn, giới trì kệ kinh. 9. Núp dưới bóng Chí linh bảo vệ, Cậy uy thần điển huệ thắng duyên. Dựa nương Thánh đức pháp quyền, Thắm say mùi Đạo, lòng thiền nảy sinh. 10. Xóa hận thù, bất bình, oan khúc, Khéo dằn tâm nhẫn nhục từ hòa. Đuổi xua tư tưởng vạy tà, Tu Bồ Tát hạnh, vị tha quên mình. 11. Ấn thơ với phóng sinh trợ đạo, Giải tiền khiên oan báo nhiều đời. Thí tài, thí pháp giúp người, Bạt tam ác đạo, thoát nơi luân trầm. 12. Lo sửa mình tẩy tâm tiến đức, Đoạn não phiền nghiệp lực tạp căn. Vẹt mây cho tỏ vừng trăng, Buông tay tục lợi, nắm phăng nguồn thiền 13. Ngồi tịnh lự tâm yên trí định, Quán chiếu thường ác bịnh tiêu tan. Khai thông cửu khiếu tam quan, Pháp luân vận chuyển, huyền hoàng suốt thông. 14. Khắp bách thể thấy không ngăn ngại, Cùng sáu căn bốn đại điều hòa. Không Trời, không Đất, không Ta, Chỉ còn một khối bao la trùm đầy. 15. Lặng lẽ lâu như vầy coi thử, Còn hôn trầm, trạo cử, hay không? Dò nghe đâu trệ, đâu thông, Vị lai quá khứ bặt lòng được chưa? 16. Ma hiện thứ ta ưa, phỉnh gạt, Dụ không xong, dọa nạt cướp thần. Của tiền, sắc đẹp, lõa thân, Phật Tiên giá vũ đằng vân đến mừng. 17. Bày đủ thứ thích ưng cám dỗ, Khiến cho lòng ái ố loạn tâm. Hoặc cho muỗi, kiến tương xâm, Thịt da nhức ngứa, bụng râm tê chồn. 18. Biết tiềm thức còn chôn đủ nghiệp, Khi móng lên mau kịp ngăn phòng. Ma ngoài hiệp với ma trong, Ngơ đi chớ tưởng, lặng lòng quên thân. 19. Còn bóng dáng, ma thần mới khảo, Còn thức duyên, ma đạo mới sanh. Trống trơn, bặt dứt dữ lành, Cắt đường ma quỷ lưu hành vào ra. 20. Cứ lì lợm ngồi già chớ nản, Ngày ngày y thiền quán đừng lơi. Ngoài thân không dạng Đất Trời, Trong tâm động đậy tăm hơi chẳng còn. 21. Công phu được vẹn tròn thanh tịnh, Thì lậu duyên chướng bịnh tiêu trừ. Ngưng thần nhập cảnh huờn hư, Sinh cơ báo triệu, ngộ từ giờ đây. 22. Chơn ý hiện cảm đầy vẻ sống, Dường tỉnh cơn ác mộng khoan nhàn. Toàn thân thông sướng khinh an, Ví người vừa thoát hàm oan tử hình. 23. Trực diện thể Viên minh hiện phát, Huyễn hóa đều rã nát hư tro. Phúc đời, sao đủ sánh so, Nghe, không bằng tận vào kho nhiệm mầu. 24. Chơn ý khi quày đầu phải biết, Hư giả thành chơn thiệt, lạ thay! Đổi phàm hóa Thánh liền tay, Lỗi xưa rõ rệt, công nay đành rành. 25. Chuyển bát thức trở thành tứ trí, Cũng không ngoài chơn ý nầy đâu. Xây lưng đuôi trở thành đầu, Viên minh chưa phát biết đâu bến bờ. 26. Có cực tịnh, sinh cơ mới động, Có hư tâm, diên hống mới giao. Dưới Khôn Chấn khởi sơ hào, Đó là động đích cửa vào huyền quan. 27. Là thỉ giác soi đàng dẫn bước, Là huỳnh bà, môi ước tơ duyên. Đem Khôn tương hội với Kiền, Xuống tay chiết Khảm mà điền vào Ly. 28. Vầy sạ nữ anh nhi phối ngẫu, Xua âm dương giao cấu thành thai. Chờ ngày nhụy nở hoa khai, Công đầy quả đủ thoát ngoài Càn Khôn. 29. Pháp tu luyện huyền môn Bác Nhã, Thích, Đạo, Nho gồm cả thiên nhơn. Cũng đồng phá vọng hiển chơn, Thành PHẬT, nhập THÁNH, đắc đơn cũng là. 30. Nhứt nhứt tu, huỳnh bà vai chánh, Ý đã thuần cảnh cảnh là Tiên. Ý mê trụy lạc xích xiềng, Ý thành là Bác Nhã thuyền độ nhơn. 31. Bước đầu của tu đơn luyện kỷ, Lấy công phu lập chí vững bền. Trúc cơ kiên cố móng nền, Trì hành cửu tiết tiến lên tột cùng. 32. Ngày tháng được thung dung vô sự, Đối cảnh hay an xử bình thường. Trống lòng được mất, ghét, thương, Chẳng nên liên lụy vấn vương tình đời. 33. Hành phương tiện tùy thời công quả, Chỗ chứng đem khuyến hóa thiện nhân: Hơn thua, được mất, không cần, Khen chê chẳng ý, sơ thân không lòng. Bước đầu đã tu xong nhứt bộ, … … … Đến đây Bần Tăng tạm ngưng, có dịp sẽ nói thêm, mong ở các Thiên ân đệ muội nhớ động cơ siêu đọa là ý. Ý là niệm, là đầu mối mọi sự Thánh phàm. Chủ được ý, ý được tịnh, được thuần, thì là thành Đạo. Sứ mạng khi ấy được hoàn tất, sự nghiệp MINH LÝ được thành công. Lấy ý làm động cơ cho công cuộc hoàn nguyên. Ý chuyển thì A-Lại-Da và Mạt-Na được vô lậu. Ý một niệm lành thì Mạt-Na một niệm tịnh. Ý một niệm dữ thì Mạt-Na một niệm nhiễm. Ý quan hệ thay! Lấy đó mà hạ công quán chỉ. Bần Tăng xin chào và chúc nguyện các đệ muội hòa nhứt giữa nhau mà chia lo gánh đạo. - Khai Sắc bạch: Sau một lúc vắng bặt, Đức BÁC NHÃ THIỀN SƯ trở về thăm chúng đệ tử, ai nấy cũng khôn xiết vui mừng. Ngài lại ban cho một bài pháp vô cùng quí giá, chúng đệ tử rất đỗi đội ơn. Tuy nhiên, trên đời có lý và sự. Hân hoan với lý bao nhiêu, đụng vào sự rất khó xử, … … - Cứ quán thì tiêu mọi việc dầu khó, dầu dễ cũng do nội bộ; tâm giữa các Thiên ân đồng, thì mọi việc hòa. Hòa thì mọi việc nên. BẦN TĂNG chào. Rút gọn
Đức Bác Nhã Thiền Sư dạy: “Cái mục đích cứu cánh của MINH LÝ là con đường “phản bổn huờn nguyên”, giải thoát cho tâm linh ngoài vòng huyễn hóa, xác nhận cái lẽ chơn thật chỉ có nằm gọn trong thâm tâm của con người, ngoài cái thân không có CHƠN không có THẬT”.
Ngay trong thân duyên hợp nầy tức là pháp thân. Giác ngộ pháp thân thấy không có một hình tướng sự vật gì. Pháp thân nầy cũng gọi là bổn nguyên, tự tánh, Pháp thân là tên khác của tâm thể lặng lẽ, tròn đầy, trong sáng của mọi chúng ta. Nó không có hình tướng nên không bị vô thường, không dấy động nên không sanh diệt, hàng trong sáng nên chẳng phải ngu ngơ. Vì chúng ta quen nhìn cái gì cũng theo hình tướng, theo dấy động mới cho là có, ngược lại cho là không? Tâm thể lặng lẽ tròn đầy trong sáng có sẵn trong mọi người. Nên nói là bổn nguyên, là tự tánh. Tại vì vọng tưởng dấy khởi liên miên, khiến chúng ta chỉ thấy vọng tưởng, không thấy được tâm thể nầy. Bởi chỉ thấy vọng tưởng nên chấp nhận vọng tưởng làm tâm mình, hài lòng ngang đây, cam chịu nó lôi chạy trong lục đạo luân hồi. Mỗi vọng tưởng dấy lên, mỗi niệm khởi đã cắt xén tâm thể tròn đầy thành những mảnh vụn. Những mảnh vụn này tung tóe lên che khuất tâm thể lặng lẽ tròn đầy trong sáng. Như mặt biển lặng lẽ, tròn đầy trong sáng, một cơn gió mạnh thổi qua, những lượn sóng trỗi dậy nối tiếp, đã cắt xén mặt biển phẳng lì thành vô lượng mảnh vụn săn đuổi nhau. Khi nầy người ta nhìn không còn thấy mặt biển phẳng, chỉ thấy bao nhiêu lượn sóng gầm thét rượt đuổi nhau. Sóng đã dậy, làm sao dừng? Sóng Tâm muốn dừng chỉ khi nào gió nghiệp lặng. Vọng tưởng dấy lên đều có đối tượng. Ngã và pháp là đối tượng chủ yếu của vọng tưởng. Xem thêm
Thường thì ta nghĩ về cái gì? Nghĩ về ta, về người hay về vạn vật. Nếu ta xem giả cảnh đó là thật thì ta sẽ là một vai chính trong vở kịch cuộc đời đó mà không có một kết cuộc có hậu!!! Ðã biết thân cảnh hư dối thì còn gì phải bận lòng, đối tượng đã phá vỡ thì vọng niệm không còn chỗ tựa để phát sanh. Thế là gió nghiệp lặng, sóng vọng niệm từ từ im bặt, chỉ còn mặt biển tâm lặng lẽ tròn đầy trong sáng như xưa. Con đường tắc quan trọng của người tu là trí tuệ Bác Nhã, nhờ nó chúng ta mới phá được ngã chấp, mê lầm muôn kiếp. Nó góp công lớn lao trong việc đem lại an bình cho tâm thể. Vọng niệm dấy khởi là loạn động, sanh diệt, khiến chúng sanh không thể thấy được tâm thể lặng lẽ tròn đầy trong sáng trong chính mình. Ðã không nhận ra, thì dù tu hành cũng không tin mình có thể thành Phật. Ðây là nguyên nhân thối lùi của đa số người tu. Nghe trong kinh nói có Chơn tâm, Phật tánh, tri kiến Phật...nhưng thực tế có bao giờ họ nhận thấy nó ra sao. Tu lâu rồi họ xoay ra lo cất chùa to, tổ chức lễ lớn... lấy đó làm Phật sự nên việc giác ngộ giải thoát xem như gặp nhiều trở ngại. Muốn thấy Chơn tâm, Phật tánh, trước tiên chúng ta phải dừng vọng niệm. Vọng niệm đã dừng thì cái bổn thể chơn tâm tròn đầy trong sáng hiện tiền. Chẳng cần cầu mong trông đợi cũng tự cảm thấy. Vọng niệm không phải dễ dừng, nó đã thành một dòng sinh diệt liên tục trong chúng ta. Ðể chận đứng nó, trước tiên chúng ta phải đập nát đối tượng chủ yếu làm cơ sở phát sinh của nó là ngã và pháp. Chỉ có Trí Bác Nhã thấy ngã pháp như huyễn hóa, là Huệ kiếm chặt lìa đối tượng chủ yếu của vọng niệm. Ðối tượng đã đổ vỡ thì vọng niệm không còn nơi phát sinh. Thế là, nhờ trí tuệ Bác Nhã thấy ngã pháp như huyễn hóa mà hành giả đạt đếkhôngn bổn thể chân thật hằng còn. Ơn Trên dạy: Tất cã cõi vũ trụ bao la, trên trời dưới đất, đâu đâu cũng huyễn hóa, ảo ảnh, giả tượng; khắp vũ trụ, suốt vạn vật, thấu hết thân người, không đâu không là hiện tượng của âm dương tiêu trưởng, mà âm dương là cái diệu dụng của Trời Đất, chưa phải cái nguyên thể linh không vô cực, là cái tự tánh thanh tịnh như như bất động của chính mình. Cái linh không ấy mới chơn thật thường còn; phải hướng tâm về đó, tập trung tất cả, qui gọn vào đó; mắt, tai, mũi, miệng, tình, ý, tưởng, niệm hội tụ ở đó, nhồi trộn đúc kết tất cả trở thành một khối nguyên vẹn, gọi là phản hoàn trở lại bổn thể. Đó là cái mặt thật của chính mình, được Một rồi là Phật, Tiên, là Đạo, là Thành, thay Trời mà điều động âm dương và vạn pháp. Muốn được vậy thì hành giả phải thực hành phản tỉnh nội cầu, quay ngược cái tâm thức vốn luôn hướng ngoại chạy theo trần cảnh trở về tự thân, để nhận cái bộ mặt thật của chính mình là cái “bản lai diện mục”, là cái tự tánh bất di bất dịch vạn cổ như như. Sách Dưỡng Chơn Tập có giải thích về phép phản tỉnh nội cầu như sau: Phản quán hay phản tỉnh nội cầu là quay vào xem xét bên trong cái tâm của mình để tìm thấy cái Thiên tánh, cái Chơn tâm hằng ngự trong lòng mỗi chúng ta; nhà Phật gọi là minh tâm kiến tánh hay sáng lòng để thấy tánh. Quán xét một cách tinh tường để phát hiện được cái bản linh chơn tánh của mình, vốn linh minh sáng suốt, giúp ta hiểu rõ được cái chơn giả, hư thiệt, chánh tà hay lành dữ để biết đường ngay mà đi, đường tà vạy mà tránh, cho khỏi vương mang những điều lầm lạc tội lỗi. Đức Bác Nhã Thiền Sư có dạy: Tham thiền tịnh tọa không phải để dưỡng sức cho qua ngày mãn khóa theo luật của người tu, mà tham thiền tịnh tọa cốt yếu đạt được mảy may nào trong cơ vi diệu của đạo pháp. ……. Chỗ đạt đạo là phải : Thân an, Tâm định, Trí huệ, tự Tánh sáng tỏ mới thấy chổ công hiệu của nội tại huyền linh. Thế nên người tu hành cần phải tham thiền tịnh định, dứt hết niệm lự trong những ngày vào tịnh phòng để tìm thấy chổ Chơn tâm, tức là đến chốn Như Lai bản thể hoặc Ngọc Hư cung rồi đó. … chư hiền đệ hiền muội hiện diện hôm nay lưu ý phải cố gắng cho được an, được định, để thần khí tương giao, tâm tức tương ứng, điều hòa luôn luôn trong khóa tịnh để phát huệ, soi sáng diệt trừ hết vọng tâm. Chừng đó chư hiền đệ hiền muội sẽ thấy vững an như bàn thạch, dầu thế sự có bao năm cũng không lay chuyển tinh thần đạo đức, dầu mảnh thân phàm tục có lăn lộn trong khung trần cấu cũng chẳng hoen ố được điểm linh quang. Đó là chư hiền đệ hiền muội có một bảo pháp để hộ thân bất cứ lúc nào còn nơi cõi tạm. Để có những bước đi vững vàng trên con đường tiến tu, Đức Hà Tiên Cô dạy người tu học phải là người hơn hết kẻ trên đời, vượt trên danh lợi, thị phi sống chết; ngăn ngừa những cám dỗ lôi cuốn trong cuộc sống; làm không để vết tích; hằng lo ngăn chận mọi tập nhiễm bất chánh ở trong tiềm thức, không cho vọng loạn khởi lên; chuyên cần thực tập cách vật dục, trí lương tri, thì ý sẽ thành tâm sẽ chánh, sóng lòng sẽ dần yên lặng cho Bác Nhã chơn tâm hiển hiện. Khi tâm ấy phục sinh thì mới thiệt chơn chánh, vĩnh tồn. Muốn có chơn tâm đó hiện, Bác Nhã xuất sanh, phải luyện được quên mình. Coi theo quẻ Phục đủ thấy phương châm vào đạo. Nên nói: “Tâm phàm cần phải chết thì tâm đạo mới sanh”. Muốn đạt huyền công, giữ sao lòng hằng thanh tịnh. Chỉ niệm thì không dục, nên sách Đại Học bảo ta tri chỉ, định đến tịnh, tịnh rồi mới an, an rồi mới lự. Lự đây là suy nghĩ chân chính, mà có suy nghĩ chân chính là do tâm đã an định. Nếu tâm chưa an định thì cái niệm đâu phải là trí huệ, là Bác Nhã. Nên bước công phu vào tu cốt là tập buông bỏ hết mọi trần duyên, tiêu trừ vọng niệm. Dầu một sớm một chiều chưa xong thì chuyên cần trì chí nhiều năm nhiều tháng. Mỗi lúc tâm phàm giảm xuống thì trí huệ tăng lên. Phiền não không còn thì bồ đề xuất hiện. Tiên với phàm chỉ cách nhau một niệm. Bởi vậy mới có câu: “Bể khổ vô nhai, hồi đầu thị ngạn”. Chỉ có hồi đầu là thành, giác ngộ là đến, xa mà không xa. Phải giữ sao cho trọn ba điều là TÍN, NGUYỆN, HẠNH. Phải có lòng tin vững chắc. Tin sức mình có đủ, dầu khó khăn cũng vượt qua đến chỗ đến nơi. Tin chung quanh còn được bao nhiêu trợ duyên gia hộ, thần thánh dắt dìu. Tin có Trời là chủ nhơn ông cầm quyền tạo hóa. Tin có luật báo ứng, gieo nhân gặt quả. Nên cố làm, làm cầu thanh phước tiêu giải oan trái tiền khiên. Biết mình từ vô thỉ đến nay tạo lấy tội lỗi hằng hà, chác thù kết oán cùng kẻ sống và người chết chưa sao giải được, nên thân này chồng chất vô minh, oan oan trái trái theo hoài. Nếu muốn giải thoát suôn sẻ đâu phải dễ dàng. Giết một con thú, làm một việc bất lương cũng đủ ngăn ngại cho ta lúc lên đường, họ xúm nhau mà cản trở. Phương chi mỗi người, dầu ít dầu nhiều, cũng kết buộc oan gia với ngạ quỷ, với súc sanh, với tình ái ân trong gia đình, xã hội. Nên phải nhờ tha lực Phật Trời âm phò mặc hộ, luôn luôn lân mẫn dắt dìu, ám trợ đường tu. Nhờ thầy sáng bạn lành nương nhau mà giải thoát. Nhờ tâm thường thiết tha cởi bỏ oán thù, phát tâm sám hối gội sạch tiền khiên. Lòng tin mãnh liệt mà phát ra nguyện lực rộng lớn như Quan Âm Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Đức Phật Di Đà: Pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành, Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Nguyện lực mạnh mẽ sẽ giúp hành giả một động cơ tu tập chuyên cần không thối chuyển, tâm chí thành với đạo, từ đó lan tỏa ra mọi người chung quanh. Nếu niềm tin kiên cố, nguyện lực sâu dày, mà còn giới hạnh đủ đầy, tạo cho hành giả một quyền năng, đủ oai nghi hạnh đức, quỷ phục thần khâm. Giới quy để làm chuẩn mực hạn chế tâm tà. Giới quy để tô tạo cho con người trở nên thánh khiết. Giới có giữ trọn thì định mới sanh. Nhờ giới kềm chế vọng tâm, tiêu trừ chướng nghiệp, tạo nên công đức thù thắng, đặng quả chơn định mà trí huệ sinh ra. Trí huệ có rồi thì Trời Đất với ta là một. Sự tu hành là dừng vọng niệm, mới hiển hiện được tự tánh, quay ngược cái dụng lại thì phiền não tức Bồ Đề. Tâm thể ly niệm là giác, giác tánh vọng động là vô minh. Cho nên mỗi ngày luôn luôn người hành giả cần kiểm tu. Phải đặt mình trong quyền pháp, trang nghiêm cảnh giới tâm. Tâm có thanh tịnh mới cùng Trời làm một. Một cùng tất cả khắp giới, hiệp ý xa gần, tạo một sức mạnh tinh thần để có đủ điều kiện vượt qua chướng nghiệp, giải thoát thân tâm và trợ duyên cho lân hữu, cho nhân sanh cộng đồng phúc huệ. Rất lòng thành tín, Rút gọn
Hướng đến Kỷ niệm 100 năm Minh Lý Đạo Khai, Môn sanh Minh Lý cùng dặn lòng tưởng nhớ về những năm tháng đầu khai đạo với những lời dạy ân cần từ các Đấng Thiêng liêng đến các bậc tiền khai trong công cuộc xây dựng một nền tân pháp trong kỳ phổ độ lần thứ ba.
Đạo Minh Lý thờ Thượng Đế và Tam Giáo Đạo Chủ, là: Tây Phương Phật Tổ hay Phật Thích Ca Mâu Ni, Văn Tuyên Khổng Thánh hay Đức Khổng Phu Tử, Thái Thượng Lão Quân hay Đức Lão Tử; và nghiên cứu cả ba giáo lý xưa của Thích, Đạo, Nho, để làm nền tảng cho Đạo Minh Lý. Do đó mà Kinh luận Minh Lý bao gồm tinh hoa của Tam giáo, lời dạy từ Thiêng liêng hầu giúp cho người tu đạt đến cứu cánh là song tu tánh mạng, hoàn thành sứ mạng tự độ và độ tha, mang tình thương lẽ thật đến với vạn vật. Về Thế Đạo, Minh Lý lấy con người làm đích chánh. Người là đại diện của Trời Đất, giữ mối tương quan, làm cho sáng tỏ và rộng bày Đại Đạo. Kinh xưa có dạy: Con người có tài thành Thiên Địa chi Đạo, phụ tướng Thiên địa chi nghi. (Nghĩa là: Con người thễ theo Đạo Trời đất mà cắt xén cho mọi việc được thành tựu, thay Trời đất giúp dân đặng tiện nghi hạnh phúc) Sứ mạng con người là như thế, nhưng tại sao chúng ta gặp hôm nay một hoàn cảnh rất đen tối, thù ghét nhau, mâu thuẩn đến tiêu diệt lẫn nhau? Đó là con người bị ám ảnh bởi lòng tham dục, về một tương lai hão huyền mà say đắm với hoàn cảnh, nên gây ra biết bao sự đổ nát hư hại không đáng có, làm cho đất bằng sóng dậy chẳng có hồi kết. Hiểu là như vậy, thì việc tối quan trọng trong thời kỳ này là phải có những con người lành mạnh tượng trưng, đủ trí tuệ, đủ từ tâm, mới có thể đặt tay vào đời để có thể tái tạo lại cuộc sống nhân bản. Muốn có con người ấy, không phải học giỏi tài cao mà ra gánh đời độ chúng được. Muốn đòi hỏi cho đời được trở nên thanh bình thánh đức, phải có con người chơn tu, chứng đạo, nội thánh ngoại vương, tự giải thoát được thân, để giải cứu loài người ra ngoài đau khổ. Về Thiên đạo, Minh Lý nhìn nhận mỗi người đều có Lý tánh tối thiêng liêng, cái Bác nhã Chơn tâm bất sanh bất diệt, ngang cùng Trời Đất, hoặc gọi là Minh Đức, Minh tánh, Minh giác, v.v... làm căn bản cho sự tu thân. Cho nên bề trên có dạy: Minh Lý tánh, minh tâm kiến tánh, Đạo Tam Tông, thọ lãnh hóa hoằng. Nhưng khó ở chỗ nhìn rõ được cái Lý tánh nói trên. Chết tại đó mà sống cũng tại đó, nên gọi chỗ đó là cửa Sanh Tử. Nhưng làm sao minh được Lý tánh? Làm sao có được con người đủ sự sáng suốt, đủ chơn thanh tịnh để có thể tự giải thoát và khế hợp cùng trời cứu nhơn độ thế? Kính thưa quý vị, Trong phạm vi của bài nói chuyện hôm nay, tôi xin phép được đề cập đến SÁM HỐI và TU THÂN, một phép tu cơ bản và vô cùng thiết yếu mà Ơn trên đã ban dạy và thường xuyên nhắc nhở MLMS trong suốt các chặng đường từ Chỉnh cơ lập pháp đến Khai cơ giáo pháp để chuyển cơ thành đạo, hầu đưa con thuyền từ đến bờ bến giác, hầu có thể hoàn thành sứ mạng thế đạo và thiên đạo mà Ơn trên đã chỉ dạy. Sám hối và Tu thân có mối liên hệ cảm ứng lẫn nhau giúp cho hành giả trên con đường tu tập tiến hóa. Sám hối để gột rửa thân tâm, giải nghiệp tiền khiên, giữ tròn giới luật, gìn tâm thanh tịnh, làm nền tảng cho bước đường công phu tu tiến. Tu thân giúp cho hành giả thêm kiên định đức tin, vững vàng kềm giữ thân tâm trước sự lôi cuốn của vật dục hầu tiến lên quả chơn định, để tiến đến minh minh đức. Xem thêm
Đức Bác Nhã Thiền Sư dạy Minh Lý môn sanh phải thấu rõ yếu quyết của Minh Lý Đạo là tu Bồ Tát Hạnh, qua đó mà hành trì Pháp Môn Đại Thừa. Muốn hành trì Pháp Môn Đại Thừa trước hết phải thành tâm phát nguyện và trì tâm sám hối. - Phát tâm cầu Chánh Pháp Đại Thừa: Phát nguyện tu tập Tứ Vô Lượng tâm để Tâm không đắm nhiễm, Tâm không tham cầu, Tâm không riêng cho thân, cho nhà, mà phải có lượng lớn bao dung để hành trì pháp đạo, khỏi bị phạm Thiên Điều. Nguyện xóa hận thù, bất bình, oan khúc, khéo dằn tâm nhẫn nhục từ hòa, vị tha quên mình. Phải diệt sạch tam nghiệp do thân, khẩu, ý gây ra. - Phát tâm Sám hối để sửa mình, tẩy tâm tiến đức, đoạn não phiền nghiệp lực tạp căn, giải tiền khiên oan báo nhiều đời, để vẹt mây mù bao vây cái bản thể Chơn Tâm, cản trở con đường tiến tu của hành giả. Bác Nhã Chơn Tâm khi được hiển hiện sẽ soi rọi cho hành giả càng vững vàng. Từ đó, phát Bồ đề tâm dũng mãnh diệt trừ những đen tối, ô uế của chính cái tâm mình như là lòng tham, sự ích kỷ, đố kỵ, hơn thua và lòng thù hận để đón nhận sự thanh tịnh và tự tại. Ơn Trên có răn dạy: “Từ xưa nay, các hiền cũng thấy biết bao kẻ đã tiến lên hầu gần đạt Đạo, song vì nghiệp chướng mà nửa đường buông xuôi, ngã gục, trở lại đầu hàng con ma tội lỗi, chẳng phải ít đâu! Để tránh các sự trở ngại lớn lao cho mình tiến đạo, cho đạo hoằng khai, thì chỉ có một phép Sám Hối mà thôi”. Vì sao phải sám hối? Con người vì vô minh nghiệp chướng mà lầm đường lạc lối qua nhiều kiếp sống, gặp bao trở ngại trên bước làm người, lập chí tu học. Nghiệp chướng đã ràng buộc thân phận rồi, thì trên đường tu thân để nên Thánh, nên Hiền cũng khó được, bởi oan trái kia luôn luôn ám ảnh buộc ràng, cản bước người tu trên con đường tiến hóa. Tiên Phật dạy người tu phải có tâm thiết tha giải hóa hận thù, ân oán, phát tâm sám hối gội sạch nghiệp tiền khiên. Dù mình có muốn giải thoát suôn sẻ đâu phải dễ dàng. Khi đã giết một con thú, làm một việc bất lương thì nghiệp quả cũng đủ trở ngại cho chúng ta trên con đường tu tập. Phương chi mỗi người, dầu ít dầu nhiều, cũng kết buộc oan gia với ngạ quỷ, với súc sanh, với tình ái ân trong gia đình, xã hội… Qua đó, chúng ta có thể nhận ra rằng không ai trong chúng ta được sanh ra đã là người hoàn hảo. Ngược lại, mỗi chúng ta được sanh ra đều có nhiều lớp bụi bẩn bám chặt do chính chúng ta đã tạo ra mà nay chúng ta có bổn phận phải tự lau chùi, tắm gội thật nhiều lần hầu lớp áo sau cùng có thể nhuộm màu đạo trong muôn một. Màu đạo trong sáng trong tâm sẽ phát ra một ý chí quyết tâm sám hối kiên định. Ngoài ý chí kiên định của người tu, cũng phải nhờ đến tha lực của Phật Trời, luôn luôn lân mẫn dắt dìu, ám trợ đường tu. Nhờ thầy sáng bạn lành nương nhau mà giải thoát. Thế nào là sám hối? Đức Huệ Năng Lục Tổ là ông Tổ thứ sáu của phái Thiền Tông, có gọi các môn đệ mà hỏi rằng: “Sao gọi là sám? Sao gọi là hối?”. Sám là khai tội trước của mình đã phạm từ trước, các phần ác nghiệp thuộc về u mê, dối gạt, tật đố, nay đều khai ra hết cả, đời đời chẳng còn gây ra nữa. Hối là chừa bỏ lỗi sau, từ này về sau, các phần ác nghiệp thuộc thuộc về ngu mê, dối gạt, tật đố, nay đã tỉnh ngộ biết rồi, đời đời quyết đoạn dứt hết, không còn tái phạm. Cho nên gọi là “sám hối”. Kỳ thiệt, hai chữ đồng có một nghĩa mà thôi. Nói ngắn gọn thì sám hối là chừa cải lỗi xưa, không tạo gây lỗi mới. Sám hối là “ăn năn chừa bỏ”, đây là trọng tâm của sự sám hối. Nhưng nếu cứ thường xuyên phạm tội, rồi thường xuyên sám hối, lại phạm tội lại sám hối, như vậy không còn ý nghĩa và không phải là phương pháp sám hối tích cực. Sám hối là nhận ra thân hành động sai, lời nói không khéo, ý buông lung niệm ác, nay nhận ra lỗi lầm của mình, tha thiết hối lỗi quyết không tái phạm. Sám hối có nghĩa là: gột rửa thân tâm được sạch sẽ, nhẹ nhàng khoẻ khoắn. Thân bị lấm lem, nhơ bẩn, nặng nề, sanh ghẻ chốc, cần được vệ sinh tắm rửa buổi sớm buổi chiều. Áo quần tẩy giặt cho sạch, đừng bận mãi, mồ hôi bụi bậm bám vào. Muốn giặt áo quần cho sạch, đó là chánh duyên. Muốn giặt cho sạch thì phải có xà phòng, thuốc tẩy, là trợ duyên làm sạch áo quần, mới ra hết bụi, mới khỏi mồ hôi thối bẩn. Nước là trợ duyên làm cho thân gội tắm và áo quần đều được sạch. Đó là sám hối phần ngoài. Còn bên trong tâm, cần có sự nỗ lực tỏ rõ ăn năn, phải có chí dẻo dai, mạnh mẽ khử trừ tội lỗi mà mình đã tạo tác. Phải khơi ngọn đèn trí tuệ ở lòng mình cho tỏ sáng để phân biệt phải trái rõ ràng, ngăn ngừa tham dục, vun trồng công đức. Ngoài ý chí của nội lực, người tu cần phải nhờ pháp, nhờ quyền, nhờ Thầy, nhờ bạn, nhờ kinh, nhờ giới luật làm hướng đạo, mới ra khỏi chỗ tối tăm, địa ngục khổ đau. Sám hối không phải là lúc nào cũng tự nghĩ về những tội lỗi đã gây ra trong quá khứ. Sám hối càng không phải chỉ dành thời gian để buồn bã cho số phận mà sám hối là cho chúng ta một cơ hội để nhận ra nhân xấu của quá khứ để chấp nhận cái quả trong hiện tại và sống có ý nghĩa hơn so với quãng đời mà chúng ta đã bước qua. Ai cũng có nhiều điều phải hối tiếc khi nhìn lại quá khứ. Tuy nhiên, những hối tiếc ấy chỉ có giá trị khi chúng giúp chúng ta sống cuộc đời mình trong phút giây hiện tại và tương lai sao cho không phải lặp lại những lỡ lầm đáng tiếc ấy nữa. Như thế, sám hối không phải là một phương tu để hành giả có thể làm trong một sớm một chiều mà có thể giải quyết cho tất cả. Sám hối là một tiến trình mà người ta phải thực hiện liên tục trong cuộc đời tu học của mình. Mỗi lần sám hối là mỗi lần trí sáng lại được khai mở. Thân tâm lại thêm một lần được giải phóng khỏi cái ách nặng nề của quá khứ. Nhờ đó mà tâm thức của hành giả dần chuyển hóa và hướng đến sự giác ngộ. Trong phép Chơn Sám Hối, Kinh xưa dạy khi đã biết tội lỗi rồi thì không nên tưởng lâu tới tội lỗi đó nữa mà có hại cho tâm đức. Vì nếu chú ý hoài đến sự lầm lạc, e sự lầm lạc vấn vương mãi trong lòng. Vậy thì nên làm sao để được giải thoát? - Người tu cần phải suy gẫm tới gốc của tội lỗi, mới biết tội lỗi là huyễn hư, lý tánh mới là chơn thiệt. Làm như vậy mới thiệt là hữu ích. Lý tánh trước kia vốn là trống rỗng, chẳng có vật chi trong đó hết. Tội chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, cũng chẳng phải ở giữa. Bổn lai của nó vẫn là không, chỉ do tâm tạo nhân duyên điên đảo mà có. Phép xét này gọi là “quán tội tánh không” nghĩa là xét cái tánh của tội lỗi không phải thiệt có. Vậy muốn bỏ tội ác thì cứ xa rời những nhân duyên điên đảo ở ngoài là xong. Xa rời bằng cách không để cho những nhân ấy làm rối loạn tâm điền, rồi sau mới có thể phát triển các đức lành tốt sẵn có trong Lý Tánh. Kinh Phổ Hiền Quán dạy rằng: “Nhược dục sám hối giả, đoan tọa quá thiệt tướng, tội nghiệp như sương lộ, Phật nhựt năng tiêu trừ”. Nghĩa là: Bằng muốn sám hối, ngồi ngay thẳng, xét tưởng tướng chơn thiệt là lý tánh, tội nghiệp như sương mù, mặt nhựt của Phật sẽ làm tiêu hết. Vậy thì phép Sám Hối cũng phải căn cứ vào Lý Tánh, mới có hiệu quả thiệt tốt. Lý Tánh càng rõ ràng chừng nào, thì tội ác tiêu mau chừng nấy. Tỷ như sương móc gặp mặt trời mọc lên thì liền phải tiêu, chẳng cần có ý trừ bỏ. Phép Sám Hối này ở trong Lý Tánh của mình phát ra, chớ chẳng phải việc làm hình thức bề ngoài, nên gọi là vô tướng sám hối. Sám Hối và Tu thân Dù đã sám hối với thái độ vô cùng ăn năn hối lỗi và quyết tâm không lặp lại những hành động cũ, nhưng vào một lúc nào đó chúng ta sẽ không tránh được việc lặp lại sai lầm trước đây, chúng ta sẽ dễ rơi vào trạng thái phán xét và dằn vặt chính mình. Nếu chưa đi vào con đường tu tập để quyết tâm giác ngộ thì những thói quen cũ, tập quán cũ của chúng ta sẽ không thay đổi gì vì nghiệp lực sâu dày từ vô thỉ dồn nén, chất chồng muôn ngàn tội lỗi. Ngay khi đang tu tập, chúng ta cũng chưa thể sửa đổi ngay lập tức thói quen này do tích tụ nghiệp nhiều đời quá khứ. Cuốn Tu Chính Nghĩa của phái Tào Động nói: “Nghiệp dữ trong ba đời, tuy mình phải gánh chịu (theo luật nhân quả), nhưng ai hay sám hối, thì nghiệp nặng cũng ra nhẹ, hay là được tiêu diệt luôn”. Cho nên biết chắc công dụng của phép Sám Hối là lớn lắm. Nhưng đó chẳng qua là một phép tiêu cực, nghĩa là bớt lầm lạc, tiêu tội ác mà thôi. Vì sao nói như vậy? Cái tâm của ta cũng như miếng đất của người làm vườn. Phải cần lo nhổ cỏ, dọn đất. Khi nhổ cỏ dọn đất rồi, phải lo vun vén gieo giống lành sẵn có, thì nó mới kịp nẩy mầm, đâm chồi phát triển lên được. Bằng không cỏ kia sẽ mọc lại, giống lành sẽ không có cơ hội để hiển hiện. Giống lành ở đây chính là công đức do sự tu thân mà có. Hột giống lành lúc mới mọc cái mầm còn yếu, thì phải trông nom nó luôn. Đến khi cây lớn, cành lá xum xuê rồi, thì cỏ kia mới không làm hại nó được nữa. Sám hối và công đức cũng quan hệ vớí nhau như thế đó: Sám hối rồi phải lập công đức. Ban đầu, phải sám hối nhiều để giải oan chi, nghiệp chướng, cũng như nhổ cỏ. Đến sau, lập công đức khá rồi, lý tánh đã hiện rõ ràng, cũng như cây lớn, thì tội lỗi không còn lôi cuốn ta được, tự nhiên sự sám hối cũng theo đó mà dứt. Đức Lục Tổ dạy công đức nói ở đây chỉ tự thấy ở trong tự tánh mà thôi, chớ không phải tìm cầu ở trong việc bố thí, cúng dường. Cho nên công đức khác với phước đức. Cứ theo lời dạy trên: tự mình tu tánh ở trong gọi là công, rồi do công ấy phát diệu dụng ra ngoài gọi là đức, nghĩa là mỗi công việc làm phải thuận lý, tự nhiên theo mệnh lệnh của tự tánh. Công đức này gọi là vô lậu tánh công đức. Vậy muốn giải thoát kiếp sanh tử luân hồi, là cần phải học Đạo. Mà muốn học Đạo, phải có chí cương quyết, dẻo dai, để có sự sáng suốt nhận ra điều phải trái, thấu hiểu luật nhân quả qua bao kiếp. Muốn nên hiền nên thánh, gốc ở lòng được thung dung thanh tịnh. Mà thung dung thanh tịnh, là nhờ xả khước mọi trần tình, đoạn sạch oan gia trái chủ. Oan gia trái chủ không còn quấy nhiễu ở ta, là nhờ nhiều phen sám hối. Muốn đạt đến chỗ tâm thanh tịnh thì phải tu thân để ngăn ngừa lục dục, thất tình quấy nhiễu làm loạn động Tam bửu, Ngũ hành. Tam bửu Ngũ hành bị dấy động sẽ gây hư hại tâm, can, tỳ, phế, thận; làm cho thân thể suy yếu, cản trở bước đường tu. Để ngăn ngừa lục dục, thất tình khuấy động thì căn bản, ngoài việc công phu thiền định, còn phải trì hành giới luật và siêng năng sám hối. Sám hối kiểm điểm hằng ngày rồi dốc lòng tỉnh sát và khắc trị để tiêu trừ tội lỗi và bảo đảm việc hành trì giới luật được tinh nghiêm, tạo thành trì vững chắc bảo vệ cho sáu căn thanh tịnh, tâm thần an định. Sám hối và Tu thân để tiến đến minh Lý Tánh . Tu thân là sửa chữa bản thân mình cho được ngay chánh, hợp theo đạo đức. Sám hối để luôn xét nét lấy chính mình, trì tâm ăn năn chừa lỗi đã gây ra, tu thân để minh cái Lý Tánh đã bi lu mờ để ngọn đèn huệ thắp sáng tâm điền, thông suốt mọi lẽ. Trong Bát Điều Mục của Nho giáo thì tu thân là trung tâm điểm, nên quan trọng hơn tất cả. Muốn tu thân, phải Cách vật, Trí tri, Thành ý và Chánh tâm. Tu thân được rồi thì mới có thể Tề gia, Trị quốc và Bình thiên hạ. Bốn điều mục trước là điều kiện để tu thân và ba điều mục sau là hệ quả của việc tu thân. Đó cũng là ý nghĩa của tự độ và độ tha. Trong đó, cách vật, trí tri là hai phương pháp thần diệu để gỡ màn che Lý Tánh và làm cho nó hiện ra rõ ràng. Lý Tánh sáng tỏ sẽ giúp người tu nhận ra điều trái phải. Cách vật, trí tri là công phu ban đầu nhưng chính là hai yếu điểm của chánh đạo. Các công phu khác đều là phụ thuộc vào đó cả. Nếu hai việc đó mà hiểu sai đi một li, thì các việc làm sau trật không biết mấy ngàn dặm. Ai muốn tu thân cho chín chắn, thì nên tìm hiểu biết nghĩa chơn chánh của nó. Minh Lý Yếu Giải có giải thích như sau: Cách vật nghĩa là đừng cho sự vật chi phối tâm mình, lúc nào cũng phải chống trả với tình tham dục, sự bất chánh. Nói cho đủ chữ là cách vật dục, nghĩa là trừ bỏ lòng ham muốn theo sự vật. Kinh Nhạc ký nói: “Vật chi cảm nhơn vô cùng, nhi nhơn chi háo ố vô tiết, tắc thị vật chí nhi nhơn hóa vật giả dã, diệt thiên lý nhi cùng nhơn dục giả dã”. Nghĩa là: Vật chất cảm động người ta không biết đâu là cùng. Nếu người ta quen thói ưa ghét không chừng, thì khi gặp vật dục, ắt bị vật dục lôi cuốn. Người chạy theo vật dục thì lương tri sẽ không còn, nhơn dục sẽ nổi sóng. Nếu còn lòng tham chấp vật nào, thì lương tri bị món vật đó ám mờ. Ban đầu, lương tri giong ruổi theo vật. Rốt cuộc, món vật che khuất lương tri. Đó là thường tình của người ta, ai ai cũng vậy. Dẫu người có trí uyên bác cũng khó tránh khỏi sự che lấp của nó. Thế lực của vật dục và lương tri đối chọi với nhau, một còn một mất, không thể đứng chung cùng nhau. Hễ dẹp vật dục thì đặng lương tri sáng suốt, còn giữ vật dục thì mất đi lương tri sáng suốt. Cho nên muốn trí tri tất nhiên trước hết phải cách vật (dục). Trí tri nghĩa là phát triển lương tri, làm cho nó đặng trọn sáng suốt. Muốn trí tri, có chi hay hơn là suy ngẫm, xét nét cho một bổn tánh lương tri. Hay là nói một cách khác: thường lấy tánh lương tri mà xét nét, và mình phải có ý chí tỉnh ngộ, tự cường mới được. Nếu cứ theo tập quán cũ, lấy bản ngã (tức là tánh khí chất) mà xem xét, thì con người không bao giờ đặng giải thoát, tới chết cũng còn ở trong vòng vật dục. Công phu trí tri có được ban đầu từ sự chí thành học hỏi ở kinh sách, Thánh ngôn để thanh lọc tư tưởng, biện biệt được tốt xấu, lành dữ và phải nhờ những đoạn công phu tiếp theo mà dần trưởng dưỡng cái tánh lương tri đến thật sáng tỏ. Do đó mà người tu cần phải có học, mà sự học của mọi người là cốt ở sự sửa mình (tu thân), cho nên sách Đại Học nói rằng: “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”. Nghĩa là: Từ vua cho đến dân, ai cũng phải lấy sự tu thân làm gốc. Muốn sửa mình cho thành người có đức hạnh hoàn toàn thì trước hết phải giữ cái ý của mình cho thành (tức là không lòng tham dục, còn gọi là Thành ý), cái tâm của mình cho chánh (Chánh tâm). Trong lúc khởi ý mà hết sức trung thành với lương tri, lẽ phải, thì gọi là Thành Ý. Lương tri vốn sẵn do Trời phú cho con người, vẫn sẵn có đức sáng mà biện biệt được phải trái, lành dữ. Mình cứ theo lương tri, phải thì làm, lành phải theo, ác thì tránh, tất cả đều phải đúng theo lẽ phải, như thế là trung thành với chính mình. Trong một Thánh ngôn, Đức Hà Tiên Cô có dạy: Người tu nên tuân thủ theo giới quy để làm chuẩn mực để hạn chế tâm tà. Giới quy để tô tạo cho con người trở nên thánh khiết. Giới có giữ trọn thì Định mới sanh. Nhờ giới kềm chế vọng tâm, tiêu trừ chướng nghiệp, tạo nên công đức thù thắng, đặng quả Chơn Định mà Trí huệ sinh ra. Trí huệ có rồi thì người tu mới có thể khế hợp cùng Trời Đất mà tài thành Thiên Địa chi đạo. Người biết tu tập phải thành thật lấy mình, xét nét thận trọng khi chỉ có một mình, vì chỉ tư tưởng sai một ly thì đi một dặm. Kính cẩn ở chốn “độc” (một mình) của mình thì không bao giờ tự lừa dối mình, bao giờ cũng thành thật với chính mình, không có gì bên ngoài sai khiến lừa dối tinh thần mình thay đổi. Đó là công phu thận độc. “Thận độc” là cẩn thận kính sợ ở chốn một mình, không ai thấy, không ai nghe đến, mà tự mình cẩn thận lấy mình. Nên thận độc ở cả thân và tâm. Kinh văn sách Đại Học viết: “Tu thân tại chính kỳ tâm”, là vì thân và tâm cùng chung một hạt giống. Muốn tu trì được thân, cũng chỉ tu trì ở nơi tâm mà thôi. Vì thế thân có điều xấu, không qui trách tại thân, mà chỉ trách tại tâm. Tâm muốn cho chính thì luôn luôn phải giữ mực Trung Hòa. Trung thì Tâm được quân bình luôn luôn, Hòa thì tâm luôn được thư thái, an nhàn. Có như thế thì tâm mới chánh được. Tâm chánh tức là tu thân. Tâm thể phải cốt giữ cho thanh tịnh, trung hòa thì những sự vật tiếp xúc ở bề ngoài, không có thứ gì cám dỗ được tâm mình. Dù như tức giận, sợ hãi, ham muốn, lo buồn, có xảy đến cũng không lay động được tâm mình. Đó cũng nhờ công phu tu tập thiền định. Vì vậy, người tu hành muốn tu thân chánh tâm, trước hết phải thành (tức phải răn lòng dục) và lúc nào cũng “giới thận (răn đe)” chỗ mình chẳng thấy, “khủng cụ (e sợ)” chỗ mình chẳng nghe để tránh nghiệp thân, khẩu, ý. Tâm đã chánh, ý đã thành thì tự nhiên cái lương tri lương năng của mình tức là cái Minh Đức trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ chỗ sâu xa, làm điều gì hay là đối phó với cảnh huống nào cũng đắc kỳ trung, cũng có điều hòa và hợp đạo lý. Cách được Vật, Trí được Tri, Thành được Ý, Chánh được Tâm là thấm nhuần được thân về tinh thần, tư tưởng không có gì là không chánh đại, đó là Tâm Chánh. Tâm đã chánh, tất nhiên Thân tu. Lỗ tai tất nhiên tỏ, không nghe cái gì lầm, mắt tất nhiên sáng, không thấy cái gì sai trái, tay chơn cử động nhằm lẽ, không trở ngại. Cái Lý Tánh một khi đã tỏ sáng thì Tứ Vô Lượng Tâm sẽ lan tỏa một cách ngoạn mục, đưa nhân loại đến bến bờ Thượng nguơn Thánh đức. TẠM KẾT Kính thưa quý vị, Hiện những cuộc biến thiên của thời thế làm cho nhơn sanh tinh thần hỗn loạn, sống trong nỗi lo sợ cho ngày mai, vì hiện nay toàn cầu đương sống trong một bối cảnh xáo trộn của tai kiếp nạn ách đang hoành hành. Đời sống gặp nhiều trở ngại và tật bệnh lan tràn. Tầng khí quyển đã bị tổn hại ngày càng xấu đi, khiến cho thời tiết đảo lộn gây nên nắng lửa mưa dầu, dịch bệnh đã, đang và sẽ còn kéo dài trên toàn cõi địa cầu. Là những người tu hành, chúng ta càng nên phát tâm sám hối và cầu nguyện để giải bớt nghiệp quả cho chính chúng ta và cho bá tánh vơi đi thống khổ của thời hạ nguơn mạt kiếp. Sự liên kết như vậy mới tạo ra một sức mạnh phi thường, mới mong có chút khả quan hóa giải được mối hiểm nguy đang gần kề, trước nhứt là lập công, hai là tự giải thoát bằng sự hồi hướng công đức cho chúng sanh toàn cõi dinh hoàn này. Để tạm kết, tôi xin được đọc bài Văn Sám Hối mà Minh Lý Môn sanh hằng tâm niệm trước các khóa tu tịnh: Chúng đệ tử từ đời vô thỉ, Bị vô minh che đậy chơn tâm, Thường hành sát, đạo, tà, dâm, Vọng ngôn, ác ngữ, lời sàm dệt thêu. Hỉ, nộ, dục, tình yêu túng tánh, Tham, sân, si, khó tránh loạn tâm, Nghiệp trần nhiều kiếp căn thâm, Ngày nay phát lộ chơn tâm Bồ Đề. Nguyện sám hối mọi bề cải đổi, Cho tiêu trừ hết lỗi, về lành, Nguyện đem dưng hết tấc thành, Thân tâm phụng sự Đạo lành độ dân. Trên lo báo Tứ ân trọng đại, Dưới Tam đồ khai giải thành sầu. Lòng lành trải khắp năm châu, Nguyện đâu đều đặng vẹn cầu toại sanh. Xin quý vị cùng hiệp tâm với chúng tôi, Cầu xin trăm họ bình an, Nước giàu dân mạnh, thanh nhàn muôn năm. Rất lòng thành tín Rút gọn
Bài giảng tại Tam Tông Miếu
NGÀY LỄ HẠ NGUƠN (RẰM THÁNG MƯỜI) NĂM NHÂM DẦN ( 2022 ) Thưa quý Thiên ân chức sắc, Thưa quý đạo hữu và đạo tâm nam nữ, Hôm nay, nhơn ngày vía Hạ nguơn, Thủy quan giải ách, tôi xin được chia sẽ với quý vị một đề tài gần gủi với mổi chúng ta mà người xưa cũng đã từng dạy, một vấn đề mà một người khi mới bước vào Đạo cho đến cả cuộc đời tu học của mình cũng phải luôn nên suy nghiệm và tu tập để luôn noi theo con đường thiện lành mà đi đến giải thoát. KHẨU ĐỨC TRONG TU TẬP Trong phương pháp tu tập có pháp “nói lời ái ngữ”, tức là nói những lời dễ thương, những lời có chất liệu giải thoát, mang đến an lạc cho người nghe, đó cũng là “chánh ngữ” mà Đức Phật dạy trong giáo lý ‘Bát Chánh Đạo’và từ đó hình hiện nên khẩu đức cho người tu tập. Động cơ của một lời nói nặng hoặc nhẹ nhàng rất quan trọng, hay nói đúng hơn nó phát xuất từ ý niệm ban đầu của người nói, mà sẽ cho ra thiện nghiệp hay ác nghiệp. Vậy thì muốn có ý niệm thiện lành từ ban đầu thì phải biết bình tâm định ý, nghĩa là phải giữ tâm an tịnh thì mới có thể khởi được ý thiện lành. Lời nói phát nguồn từ niệm chưa lành có thể sắc bén như gươm giáo làm trọng thương người khác nhưng một niệm lành cũng có thể là nguồn nước thanh lương dập tắt mọi não phiền, điên đảo có khi cứu cả một sinh mạng, thay đổi cả một lối sống. Khởi được ý thiện lành thì Tam độc “Tham, Sân, Si” không thể trổi dậy làm rối loạn thân tâm mà gây ra nghiệp thân, khẩu, ý mà khẩu nghiệp là một trong những nghiệp nặng nề nhất mà chúng ta tạo ra. Ai cũng biết rằng vết thương trên thân thể dễ lành hơn nhưng vết thương gây ra do lời nói bất thiện sẽ khó lành và sẽ mang lại nghiệp báo, oan gia cho người tạo tác. Lời nói từ cửa miệng là quả từ tâm ý phát khởi và là nhân của hành động tạo tác. Xem thêm
Chuyện xưa có kể như thế này: Ngày trước ở thành phố Shravasti, khi trên đường về tịnh xá, Phật và chúng tăng dừng chân nghỉ ngơi dưới một tán cây to ven hồ, bỗng một con khỉ từ trên cây nhảy xuống, xin mượn chiếc bát trong tay Phật. Sau khi đón nhận chiếc bát từ Phật rồi nhanh chóng rời đi, chỉ một chốc đã thấy nó quay lại. Nó cung kính dâng chiếc bát chứa đầy mật ong lên cho Phật. Phật nhận bát mật ong, chia đều cho các tăng nhân cùng dùng. Khỉ ta thấy vậy, thích thú nhảy múa xung quanh. Một thời gian sau, khỉ chết được chuyển kiếp thành người, sinh ra trong gia đình đạo đức. Khi đứa trẻ này được sinh ra, mọi bát đĩa nồi niêu trong nhà đều đựng đầy mật ong. Người mẹ lấy làm lạ, bèn đặt tên cho đứa trẻ là Mật Thăng. Thời gian thấm thoắt trôi đi, chẳng mấy chốc Mật Thăng đã trưởng thành. Anh chán ghét hồng trần thế tục nên xin cha mẹ cho phép anh xuất gia. Sau khi được cha mẹ cho phép, Mật Thăng đã đến tịnh xá quy y cửa Phật. Do thiện duyên từ kiếp trước, anh rất nhanh đã tu thành chính quả. Có một vị sư đã nói với Phật: “Trước kia Mật Thăng đã tu được phúc gì? Tại sao mọi lúc mọi chỗ đều có thể dễ dàng cầu xin được mật ong?” Phật đáp: “Các ngươi có nhớ cách đây rất lâu, có một con khỉ đã mượn chiếc bát đi lấy đầy mật để dâng lên Phật và chúng tăng hay không? Vì thiện tâm đó, nên khi chết nó đã được chuyển kiếp làm người, và vì người đó thành tâm, nên bây giờ bất cứ lúc nào cũng có thể có được mật.” Nghe Phật nói xong, chúng tăng lại hỏi: “Thưa Phật, vậy kiếp trước của Mật Thăng vì lí do gì lại đầu thai làm khỉ ạ?” Lúc này có rất nhiều đệ tử đều vây quanh Phật, Phật nhìn một lượt các chúng tăng, chậm rãi nói: “Mật Thăng bị đày thành kiếp khỉ, là việc của 500 năm trước, đó là khi Phật Ca Diệp Như Lai còn tại thế. Khi đó có một vị sư trẻ tuổi, tình cờ trông thấy một vị sư khác nhảy qua một con suối nhỏ, liền cười nói trông bộ dạng sư kia cứ như con khỉ, do đó đã phạm vào tội ác khẩu và bị đày làm kiếp khỉ. Sau đó vị sư đó đã nhận ra tội lỗi của mình, đã sám hối nên không bị đày xuống địa ngục chịu tội nhưng vẫn phải bị đọa làm kiếp khỉ. Cũng vì cái kết duyên đó, con khỉ mới có thể gặp được Phật, kiếp này mới nhanh chóng thành chính quả như vậy.” Nghe Phật nói xong, chư tăng đều đã hiểu ra: Chỉ một câu nói ác khẩu, cũng có thể gây nên nghiệp chướng quả báo sau này. Qua mẩu chuyện trên chúng ta thấy rõ quả báo của khẩu nghiệp nặng như thế nào. Chỉ một lời nói ác trong mấy giây mà phải chịu quả báo đau khổ nơi ác đạo trong nhiều đời nhiều kiếp. Vì vậy chúng hãy cẩn thận lời nói của mình. Chúng ta nói thì phải nói lời hay ý đẹp, nói những điều lợi ích. Nếu không nói được những điều tốt đẹp thì nên im lặng để có thời gian tự quán xét, chứ tuyệt đối không nói những lời xấu ác để khỏi mang họa vào thân. Điều xấu mình tạo tác có thể không ai biết nhưng Trời đất biết, luật nhân quả sẽ minh định không một mãi mai. Đức Phật dạy “Nói năng như Chánh pháp, im lặng như Chánh pháp” là vậy. Dân gian cũng có câu ca dao rất hay: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Kính thưa quý vị, Trong mười điều bất thiện mà nhà Phật dạy thì đã có đến bốn điều thuộc về cái miệng, có thể kể ra như sau: “ nói dối, nói thêu dệt, nói hai chiều, nói lời ác). 1‐ Nói dối là bất thiện thì chúng ta nên nói lời trung thực, vì nói dối hoài sẽ thành thói quen, mà thường nói dối thì dần sẽ có hành động sai, tạo nên nghiệp xấu… Hậu quả nghiêm trọng đôi khi cũng từ việc nói dối. Nhất sự bất tín, vạn sự bất tin, sống mà không ai tin mình thì thật là thãm họa cho cuộc đời của mình. 2‐ Nói thêu dệt là nói thêm bớt, nghe câu chuyện ở đây xong đi kể cho người khác nghe, mà thường khi kể lại thì hay thêm chút ít gia vị để tăng phần hấp dẫn, không còn giữ được sự thật ban đầu gây nên dư luận thị phi, hiểu lầm không đáng có. Là người đạo đức, tu hành, khi nói ra bất cứ điều gì đều là lời nói chân thật, đạo đức, khế hợp với ý đạo nhằm đem lại an vui cho bản thân và mọi người. 3‐ Nói hai chiều là nói hai lưỡi, như đến người này rồi lại nói xấu người kia, rồi đến người kia lại nói xấu người này. Mới khen người ta đó quay lưng đi liền nói xấu người này với người khác, làm cho mọi người hiểu lầm nhau, vô tình gây chia rẻ tình bạn, tình gia đình. Là người đạo đức, tu hành, chúng ta cần phải dùng những lời nói đạo đức để hóa giải mọi sự mâu thuẩn giửa nhau và giúp nhau sáng suốt dứt bỏ hành động tạo đau khổ cho nhau, để không vướng vào nghiệp báo oan gia qua nhiều kiếp. 4‐ Nói lời ác là nói lời không đẹp nhục mạ làm tổn thương người khác, tâm ác thì nói ác rồi làm ác, thân khẩu ý đều ác thì con đường đi xuống không còn xa. Là người đạo đức, người tu hành, khi nói ra điều gì, chúng ta luôn nói những lời dịu dàng, từ ái hợp với đạo lý, thì mới có thể dung hòa với mọi người sống trong an vui, hạnh phúc. Tạo hóa sinh ra con người có hai lổ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức lắm rồi nên chúng ta hãy nhân vốn phước báu này mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo tu cái miệng là điều rất cần thiết vì cái miệng có thể đem đến công đức vô lượng nhưng cũng tạo nên cái nghiệp nhiều đời không dứt. Cái miệng cũng có nhiều cái lợi: dùng để ăn uống, nuôi dưỡng cơ thể, giúp thân thể khỏe mạnh để làm việc nuôi sống bản thân và giúp ích người khác. Nhưng cũng cái miệng cũng rất tai hại: do ăn uống không điều độ, do ham ăn cầu kỳ, thích ăn những món ngon vật lạ mà vô tình mang vào mình những mầm bệnh, tự làm khổ mình và cho những người chung quanh. Cái miệng cũng được dùng để nói năng giao tiếp trong hằng ngày, tạo mối thâm tình, giao hảo hài hòa, thông hiểu lẫn nhau, dùng để thuyết giảng, tụng niệm, dạy học, truyền kiến thức và những điều lợi ích đến được nhiều người. Một lời nói ra phải giúp cho nhiều người thông hiểu, an lạc, lợi ích thì chúng ta không tiếc lời và phước đức cũng rất vô biên, nhưng rất phải cẩn thận trong từng lời nói ra khi phải nói ra những lời khiến người khác phải khổ đau, thiệt hại, thì chúng ta sẽ phải gặt hái những điều tương ứng. Tạo phước đức cả một đời, nhưng chỉ cần một lời ác ý với người khác là tiêu tan trong giây phút. Nhất là chúng ta muốn tu hành được tinh tấn và thành tựu thì phải tránh những chuyện thị phi, vì thị phi mất rất nhiều thời gian một cách vô ích, mà lại gây tạo rất nhiều nghiệp khẩu, oan trái. Chỉ có khẩu đức mới có thể giải hóa được khẩu nghiệp đã tạo ra. Thường thì một số người khi dùng lời lẽ không hay làm tổn thương người khác đều biện lý do là vì ngay thẳng: “Tôi rất thẳng thắn, có sao nói vậy”. Vì thế giới này vốn không hoàn mỹ nên khi muốn nói đến thiếu sót của người khác thì phải cẩn thận, nếu chưa thấu rỏ vấn đề thì tốt nhất đừng tuỳ tiện nói ra. Đa số chúng ta có cái thói quen nghe người nào nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai, thứ ba, thì liền phải tìm cho ra manh mối để rồi nổi sân si phiền não, đó là điều mà người có tu tập nên tránh bị lôi cuốn theo mà tạo khẩu nghiệp đáng tiếc. Sự bình tâm sẽ giúp cho người tu vượt lên trên thị phi vì những lời thị phi sẽ chỉ ảnh hưởng được những ai hời hợt qua loa đánh giá vấn đề từ cửa miệng; những người sâu sắc, bình tỉnh, có tri thức thì biết nhìn sâu nhìn rộng và chỉ có nhận xét khi đã thẩm định kĩ càng. Thế nên, nếu ta đúng thì hãy giữ vững sự kiên định của tâm thức thì sẽ vượt qua được thị phi. Theo Phật giáo, khẩu nghiệp là một trong những nghiệp nặng nề nhất mà một người có thể tạo ra. Vết thương bạn gây ra trên thân thể người khác còn có ngày lành, còn vết thương gây ra do lời nói thì chẳng biết khi nào mới lành lặn được. Với những người vốn có tính cách bộc trực, muốn “nói thẳng nói thật” – tức là bản chất là có “tâm tốt”, nhưng để lời nói của mình không gieo nhân xấu, nên tự cân nhắc những điều sau đây: 1. Nói có đúng lúc, đúng nơi không? 2. Nói có đúng sự thật không? 3. Nói có tốt cho người nghe không? 4. Nói có đi cùng thái độ hòa nhã không? 5. Nói có xuất phát từ tâm ý tốt, từ lòng vị tha không? Việc thường xuyên tự vấn lấy mình trước khi “nói thẳng nói thật” sẽ giúp chính người nói kiểm soát cơn giận, bởi luyện khẩu cũng chính là điều tâm. Tuy nhiên, ranh giới giữa việc ưa “nói thẳng, nói thật” với hay “nói lời thô bạo, có ác ý” lại rất mong manh, nếu không tỉnh giác có thể khiến chúng ta sa vào ác khẩu lúc nào không hay. Bậc tu hành là người biết vì người khác mà vị tha, không hành xử theo cảm xúc thông thường và thấu tỏ mọi quy luật nhân quả báo ứng trong vũ trụ. Đức Khổng Tử là bậc đại trí biết tùy thời mà xử hợp đạo lý, dùng lẽ Một mà thông suốt tất cả. Ngài cho rằng người quân tử ở trong thiên hạ không chủ trương phải thế này hay không phải thế khác, chỉ hợp nghĩa thì làm. Còn người bình thường thì thích tranh luận hơn thua vì chỉ muốn hơn nhau một chút khẩu khí. Kính thưa quý vị, Nhớ đến một lời dạy của người xưa: “Lùi một bước biển rộng trời trong”, cũng như câu: “ Vong nộ tắc công, quán lý tắc thuận”, thì quả đúng như vậy, đôi khi vì tranh đấu giành được điều mà mình cho là lẽ phải, nhưng điều mất đi có lẽ còn quan trọng hơn. Và nếu chúng ta biết tự quán xét, biết nhường nhịn và lắng nghe thì có lẽ chúng ta sẽ học hỏi được nhiều điều hơn. Hãy luôn luôn phân rõ sự tình nặng nhẹ. Hơn hết là biết nhìn lại và chỉnh sửa tâm ý của chính mình. Đừng gắng sức tranh giành, rồi sau có hối hận thì cũng đã muộn! Trong tất cả vấn đề thì chữ cẩn trọng rất là trọng yếu, bất luận điều gì chưa rõ, thì không nên vội phán đoán và hành xử thô lỗ, hãy tìm hiểu kỹ sự việc, rất có thể nguyên nhân đó ở chính bản thân mình, khi hiểu được vấn đề thì hãy cùng nhau bàn bạc để giải quyết để đạt đến chổ hòa. Nếu không, sai một niệm, sái một câu, có thể sẽ hỏng cã một đời, hỏng cã một đại sự… Điều này thật sự rất đáng để chúng ta suy ngẩm. Xưa không biết thì đã đành, giờ biết Khẩu Nghiệp thế nào rồi thì sám hối, nhận lỗi và sửa sai, đùng bao giờ tái phạm nữa. Nên nói lời dễ nghe, lời hay, lời có ích cho mọi người, nói lời vui vẻ hòa nhã, nói lời gắn kết yêu thương, nói lời chân thật… Giữ cho Ý trong sạch, Thân trong sạch thì Khẩu cũng trong sạch. Nhân lành ắt quà lành. Khẩu nghiệp ắt được chuyển hóa. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy: Trong buổi Hạ ngươn này, Phật Tiên vẫn có trên không trung bao trùm mọi hướng trần gian và dùng điển lực của mình ứng vào tâm thiện mỗi người nơi trần thế để cảnh tỉnh hoặc độ dẫn, hoặc cứu rỗi người đời trong cơn sảy sàng, con Phật, Phật rước; con ma, ma bắt là đây. Mỗi một người trong thế gian, khi lòng được an định, tâm được hướng thượng sẽ tiếp nhận được luồng thanh điển ấy. Nói ra những lời vàng ngọc, tỉnh thế ngộ chơn, có khi chính mình mà mình cũng không biết đó là lời điển của chư Tiên, Phật. Trái lại không phải là hàng thiện lương, đã có sẵn tư tưởng xấu, tâm tà, tánh độc, thì đó là miếng đất tốt cho ma vương, ác quỉ, dụng võ gieo rắc tai họa cho nhân gian và cho chính bản thân của người ấy. Vì việc hệ trọng như vậy, nên đầu mùa xuân nầy, Bần Tăng dặn dò chư đạo hữu, phải luôn luôn tập lòng thanh tịnh, tư tưởng thanh cao hướng thượng, hằng nghĩ điều đạo đức, hằng nói lời đạo đức, bác ái, vị tha, hằng làm điều đạo đức giúp đời cứu chúng, nhứt là phải cẩn hạnh, cẩn ngôn để hiểu câu họa tùng khẩu xuất. Bài học này thiết nghĩ cũng liên quan ít nhiều trong mổi chúng ta, những người đã chọn con đường tu tập cho cuộc đời còn lại của mình. Nhưng khi còn là thân phàm thì trong chúng ta vẫn còn nhiều uẩn khuất trong suy nghĩ mỗi khi đến với nhau trong các đạo sự. Cái tiểu ngã nhỏ nhoi của mổi chúng ta vẫn đôi khi xuất hiện không đúng lúc mà gây ra bất đồng đáng tiếc. Phải chăng chính ý niệm ban đầu của mổi chúng ta đã lệch đi chổ Trung đạo mà chúng ta vô tình tự làm khổ mình và làm khổ lẫn nhau để rồi tạo tác nên khẩu nghiệp. Cái ý niệm phát xuất từ chổ Trung này mà ta tạm gọi là trung niệm sẽ là chất liệu để tạo nên Khẩu đức đến khi xuất khẩu thì vào mỗi trường hợp đều được chánh đáng, thì gọi là hòa. Đã hòa tất nhiên sẽ đặng yên ổn, vui vẻ, thì còn có trở ngại nào mà không đặng thông suốt. Trong Trung Dung nói “Hòa là con đường suốt, chung cho cả thiên hạ”. Chỉ có hòa mới có thễ đưa cá nhân và cả thế giới đạt đến cứu cánh của Đại Đạo. Khẩu đức không thể một sớm một chiều mà chúng ta có thể có mà mổi chúng ta phải trải qua tu tập và thử thách thì mới mong vươn tới đễ có thể làm tròn nghĩa lớn với Ơn trên và các bậc tiền bối. Ơn trên luôn dạy người môn sanh phải chuyên tâm lo tu ba nghiệp thân, khẩu, ý để chế hóa những tư tưởng xấu, tánh độc, tâm tà, là những chủng tử xấu đã ăn sâu vào tâm thức chúng ta. Phép tu không ngoài giữ tâm chánh niệm, giữ ý thiện lành để tu cái nghiệp khẩu, tránh cái nghiệp thân. Nói năng không cẩn trọng, thiếu chánh niệm sẽ mang họa vào mình, cái họa trước mắt có thể là bị phản ứng của người khác như phỉ báng, chê cười, bị xa lánh, … Xa hơn là khẩu nghiệp phải mang theo và phải trả nhiều đời nhiều kiếp, nguy hại không cùng. Người xưa cũng có dạy: “ Khẩu khai thần khí tán. Thiệt động thị phi sanh”, tức là mở miệng nhiều lời sẽ hao tỗn thần khí, lưỡi động thường nói chuyện phải trái, hơn thua, đẹp xấu, khen chê...để rồi phải tranh đấu, đấu tranh gây bao đau khổ, phiền não. Cũng có câu “Cái lưỡi không có xương nhưng nó đủ cứng để sát thương người khác”. Nhưng cái lưởi biết tu thì sẽ tiếp được Ơn điển của Phật Tiên mới tạo nên khẩu đức có đủ sức mạnh cảm hóa được chúng sanh, mang hạnh phúc an vui đến mọi người. Kính thưa quý vị, Lá trà nếu đủ thời gian tẩm ướp thì sẽ có thể tỏa ra mùi hương thơm ngát, sưởi ấm lòng người. Người tu tập biết huân tập bình tâm định ý thì khẩu đức sẽ là nguồn nước thanh lương xóa tan mọi phiền nảo, giải hóa mọi nghiệp chướng vậy. Rất lòng thành tín. Rút gọn
Ngày 19 tháng 2 Kỷ Dậu
(05 - 4 - 1969) [… … …] TÁI CẦU THI TRẦN HƯNG ĐẠO để mấy lời khuyên, Gắng chí lập công ớ các hiền. Gánh Đạo phải còn nhiều khó nhọc, Biết rồi đừng chấp cũng đừng thiên. Chào chư liệt vị. BÀI Bản Thánh biết biết nhiều các đệ, Biết tâm trường thực tế ưu tư. Khó khăn cũng chẳng chối từ, Nấu nung gan óc bấy chừ lập công. Cho trọn chữ đạo đồng thân tín, Cho vẹn câu nhứt lịnh thi hành. Tu thân trọn đạo làm lành, Đương vi sứ mạng hoàn thành công phu. Đứng trước cảnh ám mù loạn lạc, Cuộc bể dâu đổ nát rối bời. Toan phương cứu chữa bịnh đời, Nương theo Quyền pháp làm người Thiên ân. Minh Lý cũng một phần trọng nhiệm, Phận nữ nam kiểm điểm đương đầu. Tu cho chứng được phép mầu, Học cho rõ lý thâm sâu độ người. Xem thêm
Nhịn vui sướng phần đời vật chất, Gắng tham cầu lẽ thật tình thương. Cùng nhau xúm xít lên đường, Quên thân chẳng quản đoạn trường khó khăn. Tre đã tàn thì măng phải mọc, Trương cánh cao hồng hộc từ đây. Trên xanh trông cậy có Thầy, Dưới cùng quần chúng hiệp vầy đoàn viên. Người có chức, có quyền, có vị, Phải khiêm cung khắc kỷ, thành nhân. Đương vi trọng trách nặng phần, Phải chiều, phải chuộng, phải gần, phải nghe. Nghe đại chúng, đừng che lỗi quấy, Nghe ngóng thường mới thấy rộng xa. Việc lành khuyên chớ bỏ qua, Người mà chỉ trích thì ta sửa liền. Trải tâm can cho tuyền chúng bạn, Theo ý chung làm sáng Đạo nhà. Việc làm thì phải thiết tha, Cho người noi dấu, cho ta tỏ bày, Đạo Minh Lý tương lai phải ráng, Bước đầu sao cho đáng cho nên. Thành công gốc ở chí bền, Ở lòng giác ngộ, ở nền nghĩa nhân. Muốn đến xa thì gần là trước, Chí bốn phương do bước ban đầu. Hòa người sớm phải thân nhau, Thân yêu nội bộ thì sau rộng ngoài. Chứng đến Thánh, mới thay được Thánh, Trị yên nhà, mới lãnh trị dân. Kỷ cương gốc ở tu thân, Tề gia trị quốc là phần tiếp theo. Người Minh Lý còn nghèo công đức, Đạo Tam Tông hiện thực nớt non. Dưới trên lớn nhỏ chưa tròn, Có khi tranh chấp dò đon nghi ngờ. Nên sứ mạng còn chờ nhứt trí, Nên pháp quyền đương vị chưa minh. Làm sao Thánh thể thành hình, Làm sao nam nữ quên tình tư riêng. Để cho thấy Thiêng Liêng hiển hích, Để cho người thỏa thích kính tin. Cho người có chỗ dựa vin, Có nơi đặt trọn muôn nghìn tâm tư. Nay đến lúc thuyền từ mở đõi, Trương buồm loan ra khỏi bến mê. Mênh mông biển rộng tư bề, Lái lèo vững hướng mà về cảnh thanh. Một: Khuyên để lòng thành tu học, Tu cho tròn cực nhọc đừng lơi. Tu sao cảm động thấu Trời, Không còn phàm tục, ra người thanh cao. Hai: Khuyên chớ mảy hào nghĩ quấy, Lòng đương trong lại dậy đục ra. Sống chung huynh đệ một nhà, Thương yêu trợ đỡ, thuận hòa dưới trên. Ba: Xây đắp móng nền giáo pháp, Cộng lực chung đóng góp cho thành. Đã là Minh Lý môn sanh, Nên hư danh nghĩa có mình ở trong. Bốn: Xúm xít làm xong sứ mạng, Chia nhau lo, tính toán với nhau. Nam như nữ, trước như sau, Mỗi người mỗi việc, việc nào cũng xong. Năm: Chỉ biết phân công gắng việc, Nhín giờ chơi chung quyết ở lòng. Việc nhà đơn giản vừa xong, Để lo việc Đạo, việc công từ rày. Sáu: Thiên ân tỏ bày chí hướng, Cho mọi người tin tưởng vào ta. Tâm tư quảng đại hải hà, Khát khao trông được Ma Ha tươi nhuần. Bảy: Giáo hội tuần tuần nhi tiến, Mỗi ngày thêm hiển hiện đẹp xinh. Phải đây là nước thanh bình, Phải đây là chỗ gởi mình yên thân. Tám: Chỉnh tu đặt phần trọng trách, Cho những người tư cách đoan nghi. Quyền hành ban bố một khi, Dời non lấp bể, khó gì ở đâu. Chín: Nhắm vào nhu cầu cấp bách, Chỉnh cơ quan đặc trách các phần. Mối giềng điều khiển Thiên ân, Ngoại giao, nội vụ thiện dân tá phò. Mười: Ổn định, gay go được ổn, Ngăn cơ nguy xáo trộn nội tình. Cậy quyền tối thượng Thánh linh, Phá tan xâm lược tày đình họa chung. THI Chung vai gánh lấy Đạo Trời ban, Để được thành công cách nhẹ nhàng, Đầu nhỏ biết đâu sau lớn mạnh, Bắt tay xây dựng một cơ quan. Đây Bản Thánh để lòng nhủ khuyên toàn đạo nam cũng như nữ, người tại gia cũng như người nhập tự, những gì đã qua nên cho qua. Những gì sắp đến nên cùng nhau lo đến, nghĩa là việc quấy, việc trái, việc đáng ngờ đáng trách, thì nên cho qua. Ở đời ai còn mang xác thịt, dầu là nhân hiền nhưng đôi lúc vọng tà quật khởi, nên nghĩ bậy, làm sai, rồi sau đó họ lại ăn năn hối tiếc. Muốn sao từ đây là giai đoạn mới, giai đoạn được bắt đầu để chỉnh tu, để phân đặt quyền hành, để lần hồi gọt rửa những nhơ bợn còn đôi chút dính theo người tu. Nhưng các hiền phải rộng lượng, mọi người không ai giống ý ai, song vì đạo, ai cũng như một con tim đỏ. Như việc nhỏ là việc thường đụng chạm, ví như Chơn Tâm và Chánh Pháp, Chơn với Chánh, Tâm với Pháp là một, mà cũng không một được, thì người xử sự nghĩ sao cho phải. Chơn Tâm là kẻ nhiều năm có công xây đắp vào Thánh Hội; điều đó ai cũng chứng được, song tính tình nóng nảy, có đôi lúc làm khó làm rầy, nhưng không lẽ vì đó mà bỏ rơi. Còn như Chánh Pháp là người ham tu mộ đạo, mới vào đây để công quả, cũng nên nhờ sức lửa mới rèn được thép gang, nhờ xát chà mới thành thân, trở nên trong sáng. Không bậc Chí nhơn nào thành tựu mà không ở trong lò thử thách để trở thành danh phận. Vậy người Quyền pháp luôn luôn cân nhắc công bình, theo Bản Thánh được nhiều lần nghe cầu nguyện than van, nhưng Bản Thánh xử sự cũng thể nhơn tình và xét tiền công, mà cần thúc giục cho lò lửa thiêng để rèn gan trí sĩ, cười ... cười! Un đúc cho các bậc tu hành. Vậy nên phải nhớ rằng “Ngọc bất trác, bất thành khí”. Bản Thánh đương chờ chỉ dụ Lão Tổ ban cho, để sắp đặt cơ cấu quyền hành, chỉnh đốn nội bộ, phát triển đường tu học, lập công cho toàn đạo. Bản Thánh muốn chư vị trong ban Bình nghị đặt hết tâm chí nghiên cứu một chương trình về nội vụ cũng như ngoại giao, làm cách nào được phân minh trật tự mà hân hoan thỏa thuận tất cả cho mọi người về quyền hành cũng tâm thức, nhắm theo nhu cầu cấp bách cho giai đoạn hiện hành, đừng để một vết tích nào cho ai phải nghi ngờ và bất mãn, rồi đi đến chỗ coi thường quyền pháp. Quyền hành phải minh định, tài thượng phải phân minh, dưới trên phải trật tự, nam nữ phải định vị rõ ràng; chỗ ở, chỗ làm, chỗ giao tiếp được minh định, việc quản trù, việc công nghệ, việc hành chánh, việc luật pháp, đâu đó phải được phân quyền, cũng không nên giao hẳn luật lệ ở người hành pháp. Người hành pháp quản trị thì quản bác tất cả mà không giữ một phần nào. Ý Bản Thánh nói đây chắc các hiền rõ được, nên nghiên cứu một chương trình chung và kế hoạch đặc trách cho mỗi ngành, ngành nào lo đôn đốc thực thi phận sự của ngành ấy, song song với các ngành mà điều hòa hỗ tương đồng tiến. Về ngành lương lo phần thực dụng ăn sắm ở chùa, ngành giáo lý lo giảng giải, soạn thảo, tu chỉnh thơ viện, ngành học phác họa kế hoạch hướng dẫn nhà trường, hướng dẫn đạo tâm, định kỳ hoặc tổ chức các cuộc thi, để biết qua trình độ, ngành tài chánh là một ngành quan trọng mọi người thường để tâm, thường vì đó khởi sanh lòng nghi kỵ, cần được kế hoạch khoa học làm cho minh bạch và phân định theo kế toán. Tư dưỡng, phát động tinh thần xây dựng mạnh mẽ, đôn đốc toàn bộ. Nữ giới được đặt trụ sở, qui định thời gian, chị em tập làm việc cho nhau, mỗi người có phận sự chia lo, phải có một chương trình, nghĩa là mỗi ngành có một bản dự trù kế hoạch xúc tiến cho ngành mình, làm sao không dẫm chưn nhau, không lấn át nhau, không lùi không trệ. Rồi Bản Thánh sẽ chờ chỉ dụ mà qui định một đường lối tiến chung. ... ... ... Thăng * Ngọc bất trác bất thành khí - Nhân bất học bất tri lý (Hòn ngọc thô kia nếu chẳng được mài giũa thì cũng chẳng thành món đồ trân quý được, con người ta không học qua thầy hay bạn tốt, qua nghịch cảnh của đường đời thì chẳng thể hiểu đạo lý làm người). * Tửu trung bất ngữ chân quân tử, tài thượng phân minh đại trượng phu. Rượu say không nói là quân tử, tiền của phân minh ấy trượng phu. Rút gọn
Ngày 16 tháng 11 năm Ất Tỵ
(8-12-1965) ĐÔNG chấn chuyển thông tỉnh mộng trần, PHƯƠNG tu sám hối sớm canh tân. LÃO khuyên nam nữ quày chơn lại, TỔ tổ truyền tâm, xuất chí nhơn. Bần Đạo chào chư môn sanh nam nữ, thành tâm nghe dạy (Cắm cây nhang lại - Nhớ cẩn thận - Không được, cắm lại). Hôm nay, Bần Đạo đến để chứng lễ sám hối của chư môn sanh và ban phước huệ cho mỗi hiền đồ, sớm hoạch đắc chơn lý, mà làm tròn bổn phận của quyền pháp đã trao gắn ở mỗi hiền đồ. Nhận thấy lễ sám hối đã được kết quả 20%. Tuy không trọn vẹn, nhưng bước đầu khơi nguồn xẻ rạch rồi, cũng lần hồi ngọn nước từ tâm sẽ khơi rộng lạch nguồn, mà tuôn chảy vượt qua những thác gành trở ngại. Một phần lớn trong cuộc lễ sám hối còn thờ ơ, chưa thiết tha đau đớn cho tội lỗi mà tự thân, khẩu, ý của mình đã gây nhiều ngày, nhiều kiếp. Nhơn cơ hội hồng ân chảy đến, mà không cố gắng gột tẩy lòng phàm, thì thiệt là uổng biết dường nào! Xem thêm
Các đệ tử chưa nhận được những lỗi lầm mình đã gây ra. Có nhiều mối oan gia trái chủ buộc ràng, không để cho thân mình tự do, nên mỗi ngày loanh quanh trong xó hẹp lòng trần. Nếu ngày nào các đệ tử nhận được nghiệp chướng buộc ràng, làm trở ngại cho tâm hồn giải thoát, mà đau buồn, xấu hổ, thì ngày ấy đã tiến sâu một đôi khoảng vào đường thanh tịnh. Nhắc lại một chuyện: Ngày xưa, có một đạo sĩ tham thiền, đứng trước bao nhiêu cảnh thử thách quyến rũ, mà lòng không lay chuyển. Vị quan đại thần kia được nghe tiếng, mời người đi coi hát xướng. Người cũng đi, nhưng rốt cùng vị đại thần hỏi lại những thú vui linh hoạt trong hí trường, thì Người nói không thấy, không nghe gì, lạ thay! Vị đại thần không tin được. Để chứng minh bằng một cách cụ thể lòng thành thật của mình, Người bảo vị đại thần: Muốn biết rõ lòng tôi không dối trá, ngoa ngôn, thì cho tôi một người tù tử hình. Rồi quan cứ tổ chức các cuộc vui ly kỳ, để tôi đem người tử hình đó thí nghiệm. Ngày ấy, vị đại thần tổ chức một cuộc vui linh động. Vị tu sĩ kia bảo người tử hình: Ngươi bưng chén nước nầy, từ đây đi đến đằng kia, mà không chao đổ, thì ta sẽ xin án ngươi được tha bổng. Người tù vui mừng chắc sẽ thoát được cái chết bên lưng, bằng lòng bưng chén nước đi ngang qua đám trò múa rối, đủ đờn hát ca xang, đủ cách cuốn lôi quyến rũ. Khán giả say sưa, tiếng cười, tiếng vỗ tay vang dậy, mà người tù chăm chỉ bưng đi một mạch, đến nơi không chao lắc.
Phải chăng người tù đó muốn sao cho mình khỏi chết, khỏi bị hành hình, lấy đó làm mục đích, nên còn vui gì, biết gì ngoài cái thân nầy, ngoài cái chén nước nầy! Ôi! Có phải người tù thấy được cái tội lỗi ghê gớm của mình, chỉ mong cầu thoát khỏi là hạnh phúc hơn hết chăng? Cũng vậy đó, vì các hiền đồ chưa thấy được mình bị tội tử hình như gã tù kia, mà chưa có lòng ăn năn sợ sệt, cho nên thiếu sự chủ tâm, thiếu lòng thiết tha vào đường sám hối, để giải phóng cho thân, giải thoát cho linh hồn. Nếu các đệ tử nhận thấy được lòng mình là một kho tội lỗi, thì ai đâu không hết sức van lạy cầu xin! Các mối oan trái đã sâu, thắt chặt giữa trò với con vợ trò, cha mẹ trò, anh chị em trò, người ở và kẻ quen biết của trò. Cái ổ tội lỗi đó gây ra từ trong gia đình, gia tộc, rồi mới đến làng nước, quê hương. Vì vậy mà từ xưa nay kẻ thù oán của trò, kẻ vay mượn của trò, là con, là chồng, là vợ, là cha mẹ, anh em, họ hàng, bậu bạn. Rồi đến đoàn thể và kẻ chung quanh, mà mối nhân duyên đó cứ kéo níu nhau, từ kiếp xa xăm quá khứ đến ngày nay, rồi lôi dắt mãi cho đến kiếp sau và nhiều kiếp nữa. Cái dây oan trái đó không đoạn cắt được, thì mãi cứ chằng chịt, mà đưa nhau vào nẻo luân hồi. Ở đời mạt kiếp nầy, ai là người thì không ai khỏi lỗi, nhích chơn, hả miệng đã gây nên tội lỗi rồi, cần gì phải hành động? Liếc trừng một cái, xủ mặt một khi, đã gieo vào lòng mình một hay nhiều hạt giống nhân quả, đã phóng vòng dây đến người, rồi sẽ báo trả với nhau. Hôm nay, các hiền đồ được Ơn Trời mở lượng từ bi, được tiếng chuông giác tỉnh mai chiều. Nếu ngọn thác nguy hiểm kia đã kéo các trò dừng bước, mà không chịu đứng lại, thì cái chết đã đành! Sau nầy, đừng trách Thần Thánh không thương, Phật Trời không độ! Lễ sám hối là một thang thuốc khử độc diệt trùng, chữa bệnh trầm kha cho các đệ tử. Nếu không ráng mà uống, không nhận là hay, thì Phật Tiên cũng ôm trán mà than. Ôi! Nước mắt vì thương trò chảy xuống, cũng cam lấy lòng buồn, chớ biết sao mà cứu được? Các trò ráng, ráng đi! Thuốc có đắng mới dã tật, lời thật phải mích lòng. Nhưng không dùng lời thật, thuốc đắng nầy, ôi! Làm sao cứu được các trò? Chẳng những sau nầy các trò bị khiển trách, vì tội lỗi không biết ăn năn. Mà cho đến kẻ chịu trách nhiệm dìu dắt các trò là Thần, Thánh, Tiên, Phật, cũng xấu hổ, vì bất tài bất lực, bị Cha Trời quở trách, bởi Người phó thác để độ đám con cái của Người. Nào khác chi kẻ đi chăn chiên mà để chiên đói, chiên nhớp, chiên ghẻ và sài, chiên bị lạc mất đi, chiên bị cọp beo bắt thịt, thì sao khỏi bị chủ la rầy? Ôi! Thần Tiên đến với các trò, nào khác kẻ chăn chiên, thì làm sao khỏi buồn, khỏi khổ? Phải chi dễ dàng mạng thế mạng, thân thế thân, cũng không ngại. Ngặt đâu phải cần thế! Mà cần ở tình thương của Thượng Đế, sự sống ở nơi trò. Ôi! Bất đắc dĩ, hôm nay cũng phải cạn lời. Dầu các hiền đồ có cảm thông hay chăng, cũng làm lấy bổn phận, như mật rót vào tai, các hiền đồ cũng nên thương mình, mà thương giùm cho Tiên Phật ! (Đọc . . .) (Điển Ký vì quá cảm xúc những lời Thánh giáo, nên nghẹn ngào không đọc được). Thôi không đọc được thì thôi. Đây Bần Đạo nói qua về chương lý giải này là trăm sự khó. Một phần lớn là người đồng chưa ý thức được tổ chức Minh Lý. Hai là sự kiện thâm vi đạo pháp, không dễ đặt lời. Ba là các hiền đồ thiếu lòng thanh tịnh tập trung. Cho nên Đức Ngọc Đế cũng lo, mà Trần Hưng Đạo cũng thấy nhiều phần khó được trọn vẹn. Nhưng dầu sao cũng cố gắng với nhau, để tương quan trên sự tiếp nhận: cốt là giúp cho đồng tử trọn lấy điển quang. Thôi, Bần Đạo nhường Cơ cho HƯNG ĐẠO. Các hiền đem bình trấn điển, rồi nghỉ một chút, sẽ tái cầu. Hiền nào mệt thì được nghỉ. Nhưng cần đóng góp với nhau một vài phần công phu lý giải. (Ngài làm phép trong Ngọc bình). Bần Đạo chào. Thăng (12g25) Rút gọn
Ngày 1 tháng 11 năm Bính Ngọ
(12-12-1966) THÁI hư một khí gốc sanh thành, ẤT giáp dễ gì biết được danh. CHƠN lý dương dương đầy vũ trụ, NHƠN tình hiểm hóc khó phân minh. Bần Đạo chào chư Thiên ân, chư đạo tâm nam nữ. Nhơn dịp ghé lại đàn để ban trợ điển lành cho toàn đạo. Gốc được vững chắc thì ngọn mới nở nang, sung nẫm, mà rồi hoa quả được kết nên nhiều. Của quí này nhờ công phu vun tưới, cộng với thời tiết, mà trở nên trái ngọt, bông thơm, để cùng nhau chung hưởng. Ngoài ra, chia cho mọi người được nếm mùi vị, để rồi người người cũng biết là quí mà trồng lấy, đâu đâu cũng được kết quả như mình, thì xét ra đâu phải riêng ai mà được. Dầu thời tiết của trời có thuận, song không có người trồng cấy, chăm nom vun bón, thì làm gì có quả ngon bông quí. Trái lại, có người biết lo, mà không có trời, cũng khó thâu gặt kết quả. Vì vậy, bất cứ là ai, làm một việc gì cũng đều có tương quan mật thiết vô cùng. Nên kẻ hiện tiền biết lo làm điều lành, lánh sự dữ, thì đến khi lâm chung, sẽ được ban thưởng công trình. Hôm nay chư đệ tử có lòng muốn vời Minh Truyền lâm cơ, để trò chuyện cùng nhau trên tình đồng đạo: người khuất mặt, kẻ hiện tiền, đôi bên tương ngộ. Đó phải chăng cái tình xưa nghĩa cũ, tuy là cách nhau, song ở lòng mỗi người còn lưu niệm nhớ nhung. Tình ấy mà xưa nay đã quấn quít nhau, đã trở thành một nền đạo di truyền trong nòi giống, rất thiêng liêng. Nên kẻ mất, người còn, tuy không thấy nhau, chớ luôn luôn gần nhau như trong gang tấc. Xem thêm
Bần Đạo hôm nay giúp điển cho Minh Truyền, để đặt lại vấn đề hữu bằng tương hệ. (Đọc) Chư đệ tử một vài phần nơi đây có những mối phân vân, mà hôm nay Bần Đạo đến, để gỡ cho những gút mắc được suốt thông, thì lòng phân vân trở nên minh bạch. Minh Truyền ngày sống cũng như vạn người sống. Lẽ tất nhiên, đã là nguời thì có tâm tư, có tình cảm. Tâm tình phối ngẫu, mà sanh ra có phải có trái, chỗ đồng chỗ dị. Khác nhau, đồng dị không ở tánh bản nhiên, mà ở tình do Hậu thiên kết cấu. Song tình có nhiều mối, mà nảy sanh có sáng có mờ, có thân có sơ, có rộng có hẹp. Rộng hẹp do ở người đã kết cấu hoặc lành hay dữ mà ra. Nên dị mà đồng, đồng mà dị, cũng chỉ là tình, thì khỏi cần bàn thêm. Đã nói trong vạn trùng thiên hạ, không ai giống ai, là vì cái đó. Cái đó đã gây nên sóng gió mịt mù, mà cũng cái đó đã tạo nên cho đời quang minh, hạnh phúc. Tình thì có ghét thương, lấy bỏ, song ghét thương đâu phải là bậy. Bậy ở người ghét không nhằm lẽ, thương chẳng đúng đường. Nhưng ở đời ai chịu cha mình ăn cướp, cứ nói mình là phải, dầu sai muôn vạn lần, cũng không hề nhận được sai. Ôi! Sao mê muội quá vậy! Đã nói người có tâm trí, thì tất nhiên có sự phán đoán. Lẽ nào không nhận cái quấy là quấy, cái phải là phải! Song nhận thì có nhận, nhưng vì cái sự nhận đó nó lệch đi một bên, nên chỉ thấy mình, mình là bản ngã. Bản ngã nào cũng ưng cho mình hơn, mình phải, mình no, mình ấm, mình có con khôn vợ đẹp, dầu có hại cho ai cũng trối thây thiên hạ, vì cái che đó là cái vô minh. Vô minh chẳng những ở kẻ ngu, kẻ hèn, mà cho chí đến bậc thượng nhơn, đại trí cũng vô minh như dĩ (vô minh mà thôi), càng cao thì vô minh càng thiện xảo. Nhưng phần nhiều kẻ trên cho kẻ dưới là khờ, chớ chưa hề thấy kẻ dưới cho người trên là ngốc. Song dầu sao mặc lòng, đã nói có tâm tư, tất nhiên phải có tình cảm. Tình cảm hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc trái, hoặc phải, do sự tiến bộ hay thối lui của tinh thần bên trong, thì các đệ tử cũng nên suy nghĩ. Minh Truyền đã được phong Thánh, nhiều nơi có lâm đàn dạy đạo. Trái lại, nơi này là cội rễ của sự phát sanh, mà như tuồng thanh tịnh. Hay lắm! Đúng lắm! Đã nói là tình, đã nói là tâm, căn cứ vào tình, thì lại thấy tình là thiên biến vạn hóa. Còn căn cứ vào tâm, thì tịch nhiên thường trụ. Tịch nhiên là đoan nghê của Chơn Lý, gốc sự thật và lẽ phải. Các hiền đồ nên phăng lại mối đầu, hay phải dò theo vạn trùng biến hóa? Bần Đạo khuyên chư hiền đồ giữ thái độ tịch nhiên bất khả tư nghị là hay hơn cả. (Đọc) Vậy Bần Đạo từ đây ban nhiều ơn cho mỗi đệ tử, dầu nam hay nữ, cũng được nhận ơn huệ từ Trời đổ xuống, không riêng cho một ai. Nhưng ơn huệ khác gì đám mưa xuân, mà có hứng được nước ngọt, chứa lại dành cho nóng khát của trời hè hay không là do người biết lo xa hay không để ý. Mà sự công bình đó xét lại, kẻ thì nhiều, người thì ít, cũng có kẻ chẳng được giọt nào, là vì đồ chứa bé hay to, hoặc hứng hay không, nên nghĩ cho kỹ. Bần Đạo nhượng cơ Minh Truyền tiếp điển, chư hiền đồ thanh tịnh mà rước người. Bần Đạo Thăng TIẾP ĐIỂN MINH bạch nên người mới mến thân, TRUYỀN cho ai nấy một tinh thần. ĐẠO Trời rộng rãi dung muôn vật, SĨ tử cùng nhau lãnh lấy phần. Tệ Sĩ chào chư đạo trưởng, chư đạo tâm thân mến. Kính mời quí đạo trưởng, quí đạo tâm an tọa. Rất sung sướng được ngày này! Chư đạo hữu thiết đàn để giữa chúng ta gặp nhau, thật là một kỷ niệm vô cùng thâm thiết. Tệ Sĩ không sao quên được cái tình sâu xa, cái nghĩa tương hệ sống đời, mà lúc hiện tiền đã may duyên gặp Đạo, nhờ Đạo mà giao thiệp đó đây. Bởi vậy mà sự tương quan giữa tình đồng đạo, đã cho nhiều bài học hay ho. Xét lại mình còn lắm sai lầm, nhưng tình đời nghĩa đạo đôi bên khéo chắp mà se săn, lại hay tha thứ. Quí báu thay là Đạo! Kính mến thay là Đạo! Nếu sống giữa đời mà không có Đạo để làm trung gian, thì tránh sao khỏi đụng chạm nhau, trách phiền nhau, mà gây nên khó khăn muôn thuở. Không sao quên được khi chén cơm, chén thuốc của đạo đồng! Không quên được những kẻ xa, người gần đi lại, tới lui viếng thăm, nhắc nhở! Không quên được lòng cao cả của bực đạo cao đức rộng hay thứ tha, mà hay an ủi! Tóm lại, không quên được ơn Thầy, ơn bạn! Nhờ bạn mà yên vững trên bước đời chông gai, nhờ Thầy mà phá được mây mù trong khoảng đường tăm tối. Thầy bạn đã là ruột gan, mà thân tộc họ hàng cũng là tay chơn, nhờ đó đỡ cho mình biết mấy! Hôm nay, cũng như những ngày đau yếu và lúc chung qui, được tiếp nhận một nguồn an ủi. Lúc còn, lúc mất, đã thấy nhau đông đúc lạ thường, khuyến khích cho tâm hồn Tệ Sĩ còn phải cố gắng nhiều, để đáp lại thạnh tình của toàn đạo. Tệ sĩ hôm nay ghé về đây để tỏ ít lời tâm sự. Nói ghé về là nói hiện ra ở ngòi Cơ, ở bàn đàn, chớ đâu phải ở đâu mà ghé. Luôn luôn Tệ Sĩ hằng sát cánh nhau với đồng đạo, để phò trì Chánh pháp, để giúp sức cho huynh đệ trong giờ giấc (T.), trong việc làm và khi đi ra, hầu bòn mót một ít công để vá đắp lại những chỗ rạn nứt, hỏng hư, những ngày còn mang xác thịt, thì tình dài ý vắn để cảm thông và thành thật gởi đến anh chị em xa gần với tấm lòng biết ơn của Tệ Sĩ. Đường đời mù mịt, cũng không một ai tài chi mà dám tự hào là suốt thông, chưa từng vấp ngã. Tệ Sĩ cũng như mọi người, hạnh phước là biết tự trỗi lên trong khi phải té. Thì chúng ta nhờ đuốc thần soi dẫn, nhờ đồng đạo cộng sức mà tiến lên. Vậy Tệ Sĩ có bài thi để kỷ niệm ngày này, được gởi đến những tình tri giao, tri kỷ. BÀI Đường đời mờ mịt gai chông, Nhờ Thầy, nhờ bạn, khai thông dễ dàng. Trải qua mà được bình an, Lòng tôi ghi nhớ đạo tràng gần xa. Nhớ hồi gặp phải phong ba, Nhờ người lèo lái, vượt qua dễ dàng. Nhớ hồi cực khổ, gian nan, Nhờ Trời giúp đỡ, tính toan lẹ làng. Nhớ khi sống với đạo tràng, Khi vui, khi khổ, chung bàn sớt chia. Nhờ người thế giới bên kia, Âm phò mặc hộ, mà lìa nghiệp duyên. Hôm nay, liễu đạo về Tiên, Lòng hằng ghi tạc (mối) tương liên ngày còn. Hôm nay, Minh Lý được tròn, Pháp quyền được tỏ, lòng son được bày. Công trình đạo hữu xưa nay, Đã từng chịu đựng, đắng cay tu hành. Bảng Trời, ai cũng rạng danh, Ân oai sứ mạng, Trời dành trao ban. Nay mai, mối chính mở mang, Thành hình trọn vẹn, huy hoàng biết bao! Mỗi ngày, tâm đức mỗi trau, Đường tu tiến mãi, mà vào cung Tiên. Mấy lời kính tặng chư hiền, Công phu hoằng hóa, hoàn tuyền từ đây. (Đọc) Giấy vắn, tình dài, không gì hơn là anh em biết thương nhau, mà tha thứ, giúp đỡ nhau, là quí hơn tất cả. Đây cũng khuyên đạo trưởng Minh Thiện, gắng nhiều để hoàn thành sự nghiệp cho Minh Lý, mà cũng hoàn thành công phu tu học của đạo tràng. Minh Lý đã trải qua nhiều khó khăn nhờ có sự trì thủ của đạo trưởng và có lòng nhẫn nhục, nên thuyền đạo mới được ghé bến một cách dễ dàng. Còn mọi sự nói chung, mong anh chị em đạo hữu tiếp tay cùng Minh Thiện để chia lo sứ mạng quyền pháp nơi nhà đạo của mình. Tệ Sĩ và các Thánh Thiên đồ mãi đeo đuổi cùng anh em đến tận mục đích.
Sự vật thì biến đổi vô thường, mà tâm là tịch tịnh. Tịch là nguồn sinh của vạn hữu, tịnh là mối đầu của muôn tượng, muôn pháp. Nếu không dụng tâm mà trị vật, thì bị vật mãi đảo điên. Nên muốn nghĩa tử nhớ lại lời xưa, về chung hiệp với nơi đây, để trước bồi căn cho bản thể, sau giúp đạo mở mang. Nhiêu đó, tự xét. Tệ Sĩ làm phiền cũng quá nhiều thì giờ. Tệ Sĩ chào chư đạo trưởng… Rút gọn
Thế đạo nơi tâm gắng giữ gìn, Khó khăn cũng nguyện một lòng tin. Cơ đồ sự nghiệp chung xây đấp, MINH LÝ nay mai được hiện hình. Hôm nay, đợt tu công phu tu tập ôn luyện để hoàn tất chương trình của chư đạo tâm được ƠN TRÊN chọn vào mật thất. Vào mật thất là một bước tu vượt đẳng mà xưa nay MINH LÝ chưa ai nghĩ đến. Nếu tu mà không lấy tâm làm chuẩn xác thì không hề chứng ngộ. Bỡi vậy nên Đức CHÍ TÔN mới sai các bậc Đại Tiên đến để hộ mạng trợ duyên cho chư đạo tâm đạt đến công phu Trung Nhứt, công phu tối thượng trong môn yếu Đại Thừa. Nếu không “chuyên tâm nhứt xứ” thì tâm phân tán, dong ruổi với trần duyên, mà trần căn là mối loạn che mờ tự tánh, không cho người hành giả thấy được bản giác Chơn Tâm. Chẳng những lấp khuất nguyên thể mà còn tạo nghiệp lôi cuốn tự ngả quanh quẩn trong nẽo luân hồi. Nên “chuyên tâm nhứt xứ” là khiến tâm trở về yên nghĩ, không còn động loạn, dẹp được tướng duyên của vọng thức. “Chuyên tâm nhứt xứ” là làm cho tâm nhứt tâm, tâm qui hoàn nguyên thể.Nhứt tâm là tâm được khế đồng cùng Đạo, tâm không đối tượng, tâm nhứt nguyên. Đã nhứt nguyên thì nhứt thể cùng vạn pháp vạn duyên. Tâm hiệp với Đạo thì tất cả nhứt như, bình đẳng, không hai, không khác, nên không có đối đải sanh nhị tâm, thì dầu đối cảnh xúc chạm với tiền trần, hòa hợp giữa vạn vật, mà không đắm mê vướng mắc, nên tự tại giải thoát, ngày tháng tự do, sống như ngày nào chung lộn mà chưa hề phân cách, vật là vật, tâm là tâm, tâm không trước vật, vật không nhiểm tâm. Như thế tâm được làm chủ hoàn toàn, dầu sống cảnh ngộ nào cũng thung dung, chẳng gì làm cho lay chuyển, buồn vui vô cớ. Nên sự chuyên nhứt tâm là khiến cho bảy tình, sáu thức được hoàn nguyên lại tự thể, không cần chế phục mà tự chúng qui thuận, không dụng tâm ngăn cấm, chống cự với căn trần, mà căn trần chẳng còn hí lộng. Vì vậy mà luyện tâm chuyên nhứt là môn đốn ngộ Đại thừa, không khó nhọc mà thành quả lớn vậy. Song các đạo tâm có giác ngộ tự phủi buông bỏ cái danh lợi, ân ái tầm thường để cầu chứng cái diệu tâm làm chủ cả Kiền Khôn đại địa? Nếu chưa giác ngộ về đường sanh tử thì làm sao nhập Thánh siêu phàm . Nếu không giác ngộ thì mãi cứ nuối tiếc của đời, lấy khôn khéo vụng về của tâm thức cho là vinh, mà tâm thức là giặc lòng, người đời gọi đó là con, nên mấy ai dám từ bỏ ! Ngày nào chư đạo tâm chưa mạnh mẻ bước thẳng vào “Tỳ Lô”, nhập “hải ấn”, thì ngày đó các đạo tâm còn nô lệ cho nghiệp căn. Mà Bần Đạo thấy chư hành giả chưa chịu ngồi yên ở nhà giác ngộ, chốc chốc ra, chốc chốc vào, thoạt đứng, thoạt đi, không thấy đó là nguồn hạnh phúc đời đời sẽ đến cho mình….. PHẬT nói : “ 7 ngày tâm không loạn thì liền được vào An lạc quốc Di Đà; mà 7 ngày niệm danh hiệu Di ĐÀ mà còn được thế , vì sao? Vì chỉ có chuyên tâm nhớ Phật Di ĐÀ, ngoài ra không còn biết chi hơn nữa. …..Nếu chư hành giả ý thức mà thực nghiệm thì tự mình là Thánh đồng với vạn hóa thần linh, mà còn làm cho quyền pháp MINH LÝ hiển đạt, sự nghiệp MINH LÝ bao la. Vậy môn nhập “Tỳ Lô hải ấn” là môn chấp Trung thủ Nhứt, còn đâu hơn nữa !... ĐỨC VĂN THÙ BỒ TÁT 24 tháng 4, Quý Hợi (9/6/83) Mồng 1 tháng 3 năm Nhâm Tuất
(25-3-1982) BÁC NHÃ tâm khai được mấy người? THIỀN phòng vận dụng đã đầy vơi. SƯ đồ mật nhiệm ai thâm hiểu? Giáng giáng thăng thăng phải ứng thời. Hôm nay, Bần Tăng thể lòng đạo sự lâm đàn để lời nhắc bảo chư Thiên ân luôn luôn y hành quyền pháp. Quyền pháp là kim chỉ nam, phải theo đó mà tu, mà hành. Bỏ nó thì lạc hướng, sai đường, từ chỗ siêu vi sa nơi sắc tướng. Vì vậy mà người Thiên ân và đạo hữu nên tiểu tâm mới còn trong ơn cứu độ trong giai đoạn quyền pháp bước sang tinh yếu của Đạo. Sự giác ngộ tu hành của mỗi người (là) được nhận thấy vị trí của mình đương đứng trong đẳng thứ nào, để cho thấy mức độ quyền pháp đến đâu. Nên đàn cơ cũng vì đó và cũng vì hoàn cảnh bên ngoài phải được giảm thiểu tối đa. Nhưng đã là hồng ân thì mỗi năm cũng đặc biệt cho đạo hữu một vài kỳ gọi là đàn ban ơn điểm hóa. Còn chỉ dành cho các khóa mật phòng, các kỳ tu hội. Nói thế, chắc các hiền hiểu ý Thánh cơ, thì nên nghiêm chỉnh giữ tôn nghiêm cho quyền pháp được bền vững. Nghĩa là từ đây trở đi, các đàn cơ dành cho thanh tịnh giới; dành cho chư chức sắc đương hành quyền xử vị; dành cho những cơ vi biến động trong ngoài. Nên Thánh ý dạy những lời thâm uyên ẩn áo về bí pháp tâm truyền, đặc biệt cho những người phát tâm cầu pháp. Xem thêm
Bần Tăng cũng thường nhắc đi nhắc lại chư hiền đệ muội Thiên ân: Học cho chính, cho thâm, đừng nên học nhiều mà không nắm được yếu chỉ. Hơn nữa, những Thánh huấn ban ra mà học cũng chưa thâm nghĩa nhập thần. Đàn cơ cũng không nên thiết lập những khi chưa phải cần thiết, làm phiền đến Thánh Tiên. Đôi khi Ơn Trên đến mà Hội Thánh thiếu lễ tiếp nghinh, thiếu phần tâm đức. Thần Tiên lúc nào cũng từ bi, nhưng đối với người quyền pháp luôn luôn có sự tôn kính tuyệt đối, lễ nghi hiến cúng đầy đủ, trừ phi cẩn cấp Ơn Trên chuyển đàn thì đó là sự bất ngờ, chúng ta có thiếu sót cũng không lỗi. … … … Đây Bần Tăng nhắc lại chư Thiên ân về sứ mạng của mình, chính cốt ở nơi lòng thanh tịnh giải thoát. Có giải thoát được mọi danh sắc mới không bị nô lệ duyên trần, có thanh tịnh được mới phát Bồ Đề tâm mà cùng Trời làm một. Nên người Thiên ân ý thức được quyền pháp nơi mình, phải nâng mình lên cho ngang với địa vị thánh thiện, thì công việc hoằng thâm giáo pháp mới không bị sai lầm, mà còn làm cho địa vị của Hội Thánh được tôn vinh, làm cho phẩm cách Thiên ân được quí trọng; danh nghĩa của Hội Thánh, uy đức của Thiên ân được lan tỏa xa gần, gây nhiều ảnh hưởng nhiếp hóa quần sanh, đạo Trời trùng hưng, cơ phục sinh mới hiển lộ ở lòng quần chúng. Muốn làm được bao nhiêu việc đó, cốt ở: Trí thức siêu phàm; Đạo đức tột bực; Tài lực hùng dũng. Ba điều đó, Phật giáo gọi: Bi, Trí, Dũng; Nho giáo gọi: Nhân, Trí, Dũng. Có Nhân là đạo đức, mà không Trí thì đạo đức khô khan, chết nguội. Có Trí là huệ, mà không đủ đạo đức cũng gây loạn, làm tàn hại lẫn nhau. Có “đạo đức” và “trí thức” mà thiếu “dũng cảm” cũng chẳng thành công, cũng không nên việc cho mình thực hiện. Nên sức mạnh là công cụ để chiến thắng mọi khó khăn ở tâm nghiệp, ở chướng cảnh. Người giác ngộ thấy được đạo là phương cứu cánh mà không có dũng lực thì không thắng nổi nghiệp chướng, không trừ dẹp được tâm dục, không ngăn được tình cảm riêng tư, không dám buông tay mà độc lập, không thể làm được những việc mà người khác cản ngăn. Không gan góc mãnh liệt thì không vượt qua nổi thiên nguy vạn khổ và vào chỗ quyền uy, gươm đạn để cứu người. Chúng ta phần đông thiếu sức mạnh để làm Thánh, để nên Đạo. Cái vụn vặt nhỏ nhen, những thứ ăn quà ngoài bữa, tập quán chơi bời, thói quen không sao rứt bỏ nổi thì không làm sao bóp chết ý thức triền miên trong thân tâm trí não. Sức mạnh mà có là nhờ ở gom thần chỉ niệm, tập trung tư tưởng, ít nghe, ít nói, ít thấy, ít ăn ngủ; chăm chăm chiều sớm giữ đừng phóng tâm, giữ tâm y hành thánh pháp. Định trụ được nhiều ngày, tinh thần được chuyên nhứt, thì sức mạnh hét lên cũng làm cho đá bay nhà đổ, sức mạnh có thể khiến được nước chảy ngược, mặt đất rung rinh. Sức mạnh của định lực sai sử được ngũ lôi vạn thần, muốn mưa thì có mưa, muốn gió thì có gió, … muốn kẻ đui được sáng, kẻ què được lành, kẻ chết được sống lại, … Cái quyền lực của sức mạnh nơi người đâu phải nhiêu đó là đủ vĩ đại, mà còn khiến cho loạn thành trị, nguy ra an, thay đời đổi cảnh. Sức mạnh nhờ ở định tâm, nhờ ở thiền quán, nhờ tu tập nhiều ngày, nhờ có trợ duyên bên trong bên ngoài. Nó là “nguyên tử hạch tâm” của khoa học mà họ đương nghĩ sẽ làm cho thế giới trở thành hoàng kim, nhưng vì họ thiếu đạo đức, thiếu trí Bác Nhã mà hóa ra cơ tận diệt đến cho đời. Hôm nay đây, Bần Tăng khuyên chư đạo tâm nên giữ giới để ngăn phòng vọng tâm, để chế kềm vọng ý. Tâm đã chế, ý đã kềm thì lòng được yên. Yên trong yên ngoài thì thể tâm được định. Định thì sanh Huệ. Định huệ có rồi thì vọng ý dục tâm tự mất, định lực giải trừ, vãn hồi sức mạnh do đó mà ra. Nên cốt vào mật thất là tăng huy sức mạnh của tâm, hiển hiện sự sáng suốt và đạo đức nơi lòng. Bởi vậy, vào mật phòng rất cần cho Thiên ân sớm thành công, làm tròn sứ mạng. … … … Nói chung, chư mật thất thiền viên cũng khá khen. Mới một vài thất cũng như một vài năm tu học của nhiều người. Khá khen, nhưng sức mạnh và trí sáng đó còn ở bên ngoài, như Minh Cường: “Tri nhơn giả, trí; Tự tri giả, minh. Thắng nhơn giả, lực; Tự thắng giả, cường”, mà đây còn lực, còn trí. Phải đi vào các thất 14 ngày sắp đến, các hiền nghĩ sao? … … … Khi đã làm thì cũng đừng nghĩ đến sức, đến vị. Mọi việc đã xong, tất cả hiến dâng, tất cả cúng dường cho chúng sanh pháp giới. Nói là thế, khi tình chí đã hoàn về gốc thì sức khỏe tự tăng, tinh thần tự túc. Về khóa Xuân phân năm nay, tinh thần tịnh viên có phần sâu hơn, thâm nhập căn đề đạo pháp ba phần mười hơn mỗi năm qua. Cũng đáng mừng cho Minh Lý Thiên ân tinh thần tự giác. … … … Thôi, Bần Tăng chào chư thiên ân, chư đạo tâm. - Khai Ngộ bạch: Pháp môn tu tịnh của Minh Lý xưa nay chưa dạy phải nhịn ăn trong khóa tu. Nay có đạo hữu muốn nhập thất xin không ăn, chỉ uống nước. Xin Ngài chỉ dạy điều ấy có chấp nhận được không? - Miễn làm như thế nào mà giữ còn cái tự nhiên ở trong tâm thanh tịnh. Không ăn cũng là một việc phải đến. Chưa đến, đừng để tinh huyết kém, sức khỏe yếu, con ngựa không đủ sức đưa mình đến nơi. Mà ai cũng phải cần đến nơi cứu cánh cho mình, cho Đạo, cho chung quanh. Nếu nửa đường sức khỏe làm trở ngại thì phải chuyển sanh để hoàn tất là việc bất dĩ mà thôi. Song Tường Minh, Diệu Chơn Không, Diệu Chơn Chơn, đó là việc thường làm, cũng không hại. Song cùng nhau nhứt trí một chương trình là hay. … … … Thăng 22g40 Rút gọn
TN ngày 11/6/1969
Trần Hưng Đạo. Bản Thánh chào chư thiên ân, chư đạo tâm nam nữ. THI : Ngọn đuốc từ bi dẩn lối đời, Con thuyền Bác Nhã độ trần vơi. Pháp quyền thiên mạng chung nhau giử, Mọi việc do ta cũng có Trời. Bản Thánh hôm nay để mấy lời dặn bảo chư thiên ân quyền pháp, cùng toàn thể nam nữ đạo tâm, bổn phận làm một tín đồ trong Giáo Hội Minh Lý : phải nhận được trọng trách của mình, phải làm sao cho xứng đáng một người chơn tu, đạo đức, hầu mới sáng danh nền tân giáo lý. đừng vì một quyền lợi riêng tư mà nội bộ gây nên tai tiếng, miệng đời mỉa mai bình phẩm, thì nền chánh pháp tối thượng nhiệm mầu cũng không cách nào làm cho thiên hạ tín nhiệm, thì sự cãm hoá người đời khó góp lấy gì để mua chuộc cái tai hại bỡi chính mình tạo nên. Các hiền khá nhận chân cho kỷ. Đừng tưởng cá nhân hay số ít không liên lụy để vở cả một tổ chức được. Ngụ đời thường nói : Một con sầu làm rầu nồi canh, thì há không cẩn thận lắm sao ? Bỡi vậy, người thiên ân hay kẻ tín hữu muốn thi thố một việc làm, trước khi đo đắn, nghỉ suy chính chắn từ tấc từ li, luôn luôn nằm lòng những điều luật, cương lỉnh của nền đạo và giử đúng lời thề. Xem thêm
Dầu nghiệp duyên chưa thể cho phép tạo được con người bản lỉnh đạo hạnh cao siêu, cũng giử còn thuần túy một tín đồ. Dầu chưa tạo được điều kiện làm nở mặt cho đời, rạng danh cho đạo, cũng chớ gây nên tai ác di hại về sau. Bỡi vậy, trách nhiệm trọng hại biết bao, chồng chất đôi vai của người hướng đạo, giấu kín ở lòng toàn đạo, chờ có cơ hội đem tài đức cứu thế độ nhơn. Trước khi tự thấy mình còn non yếu, chưa đủ bôn nam tẩu bắc, thì nên đóng cửa tu học, cùng nhau bồi dưỡng nguyên khí bên trong cho hàm súc. Ai nấy cũng nuôi lớn chí mình, chờ cơ hội là tung chơn rảo bước cứu đời, làm sao cho cuộc sống nhơn loại quân bình, không còn để người khóc kẻ cười, bên no phía đói. Xã hội được thanh bình, còn phải nhắm thẳng vào trọng tâm con người, là phải giải thoát linh hồn. Đó là then chốt của nền đạo học. Muốn xua quân xuất trận, trước phải biết người biết mình, mà cốt là kiểm điểm hàng ngủ có được nhứt tề hay chưa? Mặc dù binh hùng tướng hổ, xấp ngàn địch thủ, mà quân sỉ chưa nhứt tề, thì phải rút lui ngay. Nếu ỷ mạnh, thế nào cũng đem mồi cho địch. Cũng vậy đó, trên thiên ân, dưới đạo hữu, toàn bộ bất nhứt, phân vân, thiếu tin, thiếu kỉnh, thì nền đạo học đó sớm chầy cũng tan vở, mà cá nhân mỗi người sẽ lảnh lấy sự trừng phạt gớm ghê. Bỡi vậy nên nền đạo cốt là giử trọn niềm tin, lấy luật pháp làm cương kỷ răn đe, lấy mình khép thân vào đó, để chế ngự long tham lam, sân hận, si mê, dẹp được kiêu khí ngạo mạn, mới mong đi đến lợi kỷ lợi tha. Minh Lý trải mấy năm được quyền pháp trao ban, chương trình vạch sẳn, một lối công phu để toàn đạo nương đó mà tạo nên một giáo hội lành mạnh, gồm cả phước huệ đồng tu, thiên nhơn hiệp phát. Thần Thánh mỏi miệng ráo lời, thế mà dòm lại ở đâu còn đó. Nếu dụng ân chắc chắn chầy sớm cũng lờn, bằng phải tác oai, sẽ có ít nhiều người oán. Dầu sao, quyền tối hậu phải ở tay Trời, dầu được dầu không, quyết phải lái con thuyền đi đúng hướng. Hôm nay, Bản Thánh chỉ ước mong sao mỗi năm có một đợt tịnh tu dài hạn, hay một tháng phải dành dự đôi ngày. Mỗi người trong đoàn thể nền đạo Minh Lý, từ trên đến dưới rán thu xếp gọn, gát mọi sự ra ngoài, để rồi ngồi lại, bình tỉnh xét hành vi tạo tác của mình, đã có gì đi ngược đường tu, phạm vào luật pháp, gây nên cho bạn bè phiền trách, mất tin, gây nên cho tổ chức khó khăn lộn xộn. Cố gắng chú tâm đào xới ở lòng mình, tìm lại lầm lổi, lần lần thấy được rõ ràng, mau mau bước lại Thiên bàn đốt nhang khẩn vái, tự tâm sám hối. Ngặt vì có người làm chẳng phải, mà không bao giờ thấy được tai hại ấy do mình, mà cứ trách bâng quơ tại người nầy, kẻ nọ. Đó phải chăng chưa để phút nhẹ nhàng hơi thở, bình tình đào lại ở tiềm thức để thấy được tội ác, mà tự khắc chế ngay. Xưa kia vua Thang trông người đói rét, tự trách phạt mình, đã xô họ vào cảnh bần hàn, thì nay, chư hướng đạo há không học được ít nhiều, để sáng danh quyền pháp hay sao? Nền đạo Minh Lý ra đời, chư đạo hữu vào tu chắc cũng nhận thấy chổ quan trọng, là tự đưa mình vào rèn luyện cho trở nên con người phàm hoá thánh, dở hoá hay, tật nguyền hoá trở nên lành mạnh. Thế là cửa Minh Lý là lò cừ nun đúc cho con người thuần nhứt, con người khâm sai sứ mạng, con người mới, để xây dựng cuộc đời mới. Lẻ tất nhiên, một mảnh sắt nào đã thảy vào lò, phải bị sự nun đốt cho mềm dẻo, để uốn nắn thành một dụng cụ hữu dụng cho đời. Không phải vào cửa Minh Lý là tự do ưng cầm búa để bổ vào thanh sắt, mà muốn vậy, trước phải học nghề rèn. Cười!... Hôm nay, Bản Thánh, được lịnh đi vận hoá cho cuộc thanh bình đất nước, không còn dịp mỗi tuần ghé lại dạy khuyên. Nên đây cũng là lời thật mạnh nói trái tai, nhưng bổn phận vì thương nhau, nên không nề hà quanh co vô ích. Bản Thánh được đi, thấy hân hoan, là nơi Minh Lý nầy hai việc đáng lo mà đã giải quyết được : Một, là bên ngoài thời thế dầu sao cũng bảo đảm cho lảnh vực giáo hội an ninh, toàn đạo ung dung trong ân Thượng Đế . Hai, là nội bộ tạm được bình an, khí hanh thông lần chổi dậy. Chắc là đạo hữu sớm chiều nôn nóng đón hồng ân, chờ ngày khai cơ giáo đạo. …Đức Đạo Tổ cũng gởi đến cho Hội Thánh một minh triết thánh ân, cho toàn thể nam nữ môn sanh sống trong phước huệ vô cùng của Đạo, Bản Thánh sẽ có kỳ chuyển sau. Bản Thánh ban phát ơn lành cùng toàn đạo. Chào chư thiên ân, chư đạo tâm nam nữ. Rút gọn
THÁNH NGÔN
Mồng 5 tháng 8 năm Quý Sửu (1-9-1973) VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU chào chư Thiên ân sứ mạng, chào chư liệt vị nam nữ. Giờ này Bản Nương vâng lịnh Từ Mẫu đến dạy về Lễ Vô Cực Từ Tôn Hội Yến Bàn Đào. Đức Mẹ sẽ ngự đến để ban ơn cho con cái của Đức Mẹ vào đêm Trung Thu Rằm tháng Tám. Nhân đây, Bản Nương cũng giải đáp một vài đạo sự cùng chư liệt vị hiện diện đàn hôm nay. Mời tất cả đồng an tọa. Này chư liệt vị! Về sử liệu Thánh Đản xưa kia, ngày 18 tháng 7 là ngày lễ Đức Diêu Trì Kim Mẫu mà hiện nay Minh Lý Thánh Hội còn noi theo cúng kính. Đến khi Đức Thượng Đế lâm phàm tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, thì ngày Lễ Vô Cực Từ Tôn được thiết vào đêm Rằm tháng Tám. Tuy ngày tháng có khác nhưng nguyên lý vẫn một, duy chỉ có tùy thời kỳ mà giáo hóa, tùy cơ duyên mà phổ độ. Về hình thức cũng như tổ chức, trước dụng sự để vào lý, sau dụng lý mà hóa sự. Vì thế nên đêm thiết lễ có Hội Yến Bàn Đào ban trao bí pháp, tựa vào đó còn có quà nhi đồng, công tác từ thiện, ủy lạo, … Xem thêm
Dù đã trải qua bốn mươi bảy mùa thu, Bản Nương nhận thấy chư liệt vị cũng như mọi người đều chưa giải đáp với niềm tin trong danh từ Hội Yến Bàn Đào ban trao bí pháp. Rồi bao nhiêu dấu hỏi - Ai đã được sống nghìn năm khi dự Hội Yến Bàn Đào? Và ai được ban trao bí pháp? Mặc dù có người được tràng sinh từ khi có Hội Yến Bàn Đào, và cũng có lắm người được ban trao bí pháp. Thế tại sao? Nếu người đời chưa thoát ra khỏi cái tháp ngà riêng rẽ, chưa khoát bức vô minh, thì làm sao suy luận nổi bí pháp nhiệm mầu của Tạo Hóa. Dù cho có được hưởng Hội Yến Bàn Đào cũng không thấm cái hương vị tràng sinh, có ban trao bí pháp cũng hóa thành công cụ riêng tư trong kho tàng ích kỷ. Chỉ những người có tâm pháp nhứt như mới thấu triệt huyền vi hoán chuyển ấy. Bản Nương để đôi lời, chư liệt vị xem mà suy gẫm, tu học hành đạo, sẽ được một niềm tin chính thực. Bản Nương xin thi hành Sắc lịnh Từ Mẫu và nhiệm vụ Tam Trấn phó giao, cho vời Thập Nhị Nữ Đồ vào chánh điện. Các em an tọa. Chị rất hân hoan trước đạo tâm dũng mãnh của các em trong nhiệm vụ liên giao vừa rồi. Những tiến trình trong thời gian ngắn, Chị đã thu hoạch tất cả và đệ trình, chờ được ân phê. Nơi đây, Chị bảo cho các em những điều sau đây để các em thi hành sứ mạng cho trọn vẹn. Này các em! Đại lễ hiến dâng Đức Mẹ không nhứt thiết phải tổ chức linh đình. Đức Mẹ chỉ muốn cho Nữ phái kết hợp tinh thần đồng nhứt cứu thế kỳ ba, dù ở đâu, nơi nào, Tòa Thánh, Hội Thánh, Thánh Thất, Thánh Tịnh đều có một sự liên quan với nhau trên phương diện tu thân hành đạo độ đời. Nữ phái là một thực lực hữu hiệu trong việc từ thiện xã hội. Người tu hành có đem được tình thương cho mọi người mọi kẻ, có tạo một niềm tin cho thực lực cứu cánh, thì mới tận độ họ về nhân bản, đạo pháp và tâm linh. Hai điểm trên nếu được thực hành đúng mức thì quyền pháp Đại Đạo sẽ mở rộng, do đó những người Thiên phong chức sắc hoàn thành sứ mạng to tát Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Bản Nương ban ơn cho Hồng Mai được nghỉ. Hãy cố gắng, trò cùng Thanh Thủy tịnh dưỡng nhiều hơn, hành sự từ từ cho đến kỳ Trung Thu sẽ tiến bộ nhiều hơn. Hồng Mai an tọa định thần … (Hoàng Mai (HM) và Thanh Thủy (TT) xuất khẩu truyền) (HM) Đại Hội vừa qua, các em đã ý thức được điều đó, dù chưa thâu lượm được kết quả như mong muốn, nhưng cũng trắc nghiệm thêm về nhơn tâm thế đạo. Các em sẽ gặt hái được kết quả hữu hiệu hơn sau này. Chị đại khái mấy điều sau: 1. Chiếu tinh thần phiên họp, thừa lịnh Trên, Chị chấp thuận dự án chương trình lễ Trung Thu trên nguyên tắc và được thêm vào đàn cơ đêm 14 trước giờ Hội Yến Bàn Đào. 2. Về địa điểm, y lịnh Đức Bồ Tát, thiết lập tại Văn Phòng Nữ Chung Hòa. 3. (TT) Để thể hiện tình thương Vô Cực, Nữ Chung Hòa đối phó với mọi việc sẽ đến cho kết quả đúng theo biên bản hội nghị cho năm này. 4. (HM) Về phần đại lễ hiến dâng, toàn thể Nữ phái mỗi nơi đều trương cao cờ đạo cứu khổ vạn linh, đó là đại lễ hiến dâng Đức Mẹ trong kỳ lễ Trung Thu Quí Sửu này. Các em Thập Nhị Nữ Đồ và các em Nữ phái Minh Lý cùng chung lo với Nữ Chung Hòa để tạo lần công quả độ đời sau bao nhiêu năm tu học. Này các em! Các em đã học: THI BÀI Khôn là thuận, thuận tùng thiên lý, Đức Kiền Nguyên tạo thỉ khai sanh. (TT) Khôn Nguyên thừa tiếp hoàn thành, Theo Trời hoằng hóa đại hành Đạo Khôn. (HM) Thế thì: Tài với đức bảo tồn ý chí, Ý chí nên cương vị mới nên. (TT) Nguyên, Hanh nhờ ở chính bền, Vi nhân trọn đạo, vững bền trì tu. Các em nhớ không, lời dạy của Thiên Tôn? (HM) Đường trách nhiệm công phu cố gắng, Gánh nhân sanh đặt nặng đôi vai. (TT) Làm sao sáng đức rỡ tài, Để cho thiên hạ trông ngay vào mình. (HM) Các em ôi! Ngoài thế sự bất bình bao nỗi, Trong đạo mầu sớm tối luyện trau. Nền Cao Đài mới vững cao, Muốn nên Bồ Tát, phải vào trần ai. (TT) Sau đây Chị dạy chung các em Nữ phái về việc từ thiện xã hội. Các em hãy đoàn kết thực lực với nhau trong bốn thành phần Đức Chí Tôn đã dạy hồi Thiền Sư Bác Nhã còn tại thế. Có như vậy, việc làm mới hữu hiệu hơn. (HM) Đành rằng các em vẫn làm trong phạm vi của các em, nhưng từng gáo nước không tưới tắt được núi lửa, dù ít nhiều tùy hoàn cảnh phương tiện mỗi nơi. Danh từ thế nào cũng được. Các em có thể tự tạo một danh từ khác cũng tốt. Điều quan trọng nhất là việc làm. Các em đừng ngại, đức tin sẽ giúp các em thành công. Kỳ lễ Vía HÀ TIÊN CÔ đến đây, các em Nữ Chung Hòa hãy dự gọi là để tri ân người hướng đạo. (HM) Nhân đây Bản Nương cũng để lời khuyên chư Thiên ân chấp trì quyền pháp Minh Lý Thánh Hội cũng như Cơ Quan, nên lưu ý: Một Hội Thánh được thành lập, một Cơ Quan được xây dựng, Đức Chí Tôn và chư Phật Tiên giáng dạy, Đức Thánh HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG tận tâm dịch sách, viết kinh, mong được số người nòng cốt hướng đạo Thiên ân (HM) giữa cõi đời ly loạn này. Công phu đạo nghiệp của Bác Nhã Thiền Sư, chư liệt vị phải làm gì để xứng đáng … Hiện giờ tu học đã có kinh sách đạo thơ, bồi công lập đức phương tiện chung riêng sẵn có, trên có bộ phận Thông công đầy đủ Thiên ân điển lực, dưới có bạn lữ đồng hành. Bản Nương tưởng lại chư liệt vị được đầy đủ ân huệ trong thời kỳ này. Hãy giữ lấy và đáp đền cho xứng đáng. THI BÀI (HM) Người sứ mạng Cao Đài cứu thế, Người Tam Tông thực thể đạo mầu. Cảnh đời còn lắm khổ đau, (TT) Tu thì phải học, học sau mới hành. Chư liệt vị an tọa. (HM) Nhân đây Bản Nương cũng để lời khuyên chư quan khách hiện diện đàn nay: (TT) Cảnh khổ nạn nhơn sanh dai dẳng, Phước Trời cho riêng đặng thân an. (HM) Chung tay xây đắp Đạo vàng, Tế nhơn độ chúng vẹn toàn tương lai. Ngọc Kiều bình lại đoạn Thi bài: … … (TT) Trước khi tạm biệt, Chị để lời khen ngợi tinh thần tu học của các em Nữ phái. Đó là (HM) nấc thang để các em tiến lên trên đường tu công lập quả. Chị biết các em mệt lắm. Các em hãy cố gắng, Chị sẽ hộ trì các em. Cuối cùng, Bản Nương xin cảm ơn chư Thiên ân liệt vị đã giúp Bản Nương hành tròn sứ mạng hôm nay. Huệ Chơn! Hiền đệ hãy ráng tịnh dưỡng để hành sự đàn Trung Thu tới đây. Bản Nương xin chào chung tất cả chư Thiên ân liệt vị. Chị giã từ các em Nữ phái. Chị hồi cung chầu lịnh Mẹ. Rút gọn
Ứng phó với biển đổi khí hậu là mệnh lệnh của lương tâm Minh Lý Đạo là một nền Tân pháp được Thượng Đế khai sáng tại Việt Nam vào năm 1924. Minh Lý Đạo lấy mục đích tu hành để TỰ ĐỘ và ĐỘ THA (Tự hoàn thiện chính mình và phụng sự cho nhơn quần xã hội). Chúng tôi nhận thức rằng: Cải thiện và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đang là mục tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới. Trong nỗ lực tìm giải pháp nhằm hạn chế tối đa sự ảnh hưởng của suy thái môi trường toàn cầu, trong đó có việc thực hiện “CƠ CHẾ PHÁT TRIỂN SẠCH” thì CON NGƯỜI, dù muốn hay không muốn, CÓ VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH TRONG SUỐT CUỘC HÀNH TRÌNH, CON NGƯỜI vẫn phải chấp nhận một cứu cánh là tiến hóa tới mục đích cao thượng, tiến hóa đến sự giải thoát con người, để đạt đến sự an lạc hằng thường. Việc đáng để cho con người ghi nhận và thực thi trước tiên là công cuộc minh triết con người trong vũ pháp Đạo Học. Minh Triết có hoàn hảo, mới mong đạt đến ngôi vị tối thượng hạnh phúc, cho thế hệ hiện sinh và giải cứu cho thế hệ tương lai. Cứu môi trường sống đang trong nguy cơ bị hủy diệt là CỨU CHÍNH MÌNH. Đó là một SỨ MẠNG cao cả không chỉ có thể thực hiện bằng một cá thể hay một tập thể, một tổ chức chánh phủ mà là một công việc trọng đại của của cả NHÂN LOẠI không phân biệt sắc tộc, quốc gia, tín ngưỡng. Mục đích của thế hệ hiện tại là gầy dựng hạnh phúc chân thật cho đời người ngày nay. Mục đích đối với quá khứ là giải quyết, thanh toán món vay mượn, nợ nần còn lưu dấu. Mục đích nhằm hướng về tương lai là đặt mình một nền tảng giải thoát cho con người, tạo lập một nấc thang tiến hóa sau kiếp nhơn sinh hiện tại. Lành mạnh hóa môi trường sống, chung tay ứng phó với biển đổi khi hậu là mệnh lệnh của lương tâm nhân loại! Hãy cùng hành động từ một trái tim chân thành ngay từ hôm nay vì lợi ích sinh tồn của nhân loại ngày mai! BQT MLĐ THI :
ÂU ta lui tới cõi trần mê, MINH đức trau tria sớm trở về. CHÁNH khí hàm dung quyền pháp trọn, Mừng chào đạo hữu nhẹ đường dê. Thân mến chào chư đạo đệ, đạo muội thành tâm tiếp đón Hưng Đạo Đại Vương. Bản huynh hộ điển. Tiếp điển: HƯNG khởi niềm tin đợi pháp quyền, ĐẠO trời chuyển vận cuộc qui nguyên. ĐẠI hùng, đại lực qua cơn khảo, VƯƠNG bá mà chi chác não phiền. Bản Thánh chào chư liệt thiên ân nam nữ. Hôm nay bản thánh thừa lịnh truyền đạt cùng chư thiên ân đợt tu Đông chí, chư thiên ân nam nữ tịch Khai, tịch Tường, chư vị nào chưa dự đợt đầu, chủ trì thông báo cho những vị còn lại, ngày mồng 6 tiếp theo đợt này, liên tục cho đến kỹ niệm Định Pháp Bác Nhã Thiền Sư để tòan Đạo hiến dâng lòng thanh tịnh làm của lễ mừng Người và mừng ngày kỹ niệm Khai Đạo. Xem thêm
Những vị thiên ân còn vướng mắc việc đời, cũng thể theo hoàn cảnh tùy nghi mà nhập tịnh, không bắt buộc đủ bốn thời, nhưng phải dọn mình trong sạch, những giờ thiền tịnh phải dâng hiến trọn mình, bất cứ những ai ở trong hòan cảnh nàocũng phải có mặt, trừ những người ly khai hàng ngũ hay bị cầm giữ. Chư thiên ân cố gắng hết mình, cố gắng nhiều, cố gắng thêm đễ vượt qua thời gian 7, 8 năm nữa là một chu tuần 60 năm của Minh Lý Đạo Khai qua đợt I. Từ đây cho đến năm Giáp Tý sắp đến, cũng còn gặp nhiều khó khăn; trong khó khăn mà tu được, quyền pháp giữ được, hàng ngũ vững chắc thì khó khăn thành công mới được ưu thắng. Từ xưa nay các bậc chơn hiền thánh thiện cũng như vĩ nhân hào kiệt được ghi lại trong sử sách cho người đời truyền tụng, không phải họ bước trên đường bình thản mà phải dẫm qua nhiều quanh co nguy hiễm, chiến thắng mọi trở ngại, thành công một cách vẻ vang. Người đời không ai làm được thì thiên ân quyền pháp còn vượt cao khỏi mọi thử thách, dám cắt đứt những đoạn ruột ái ân danh lợi không ngần ngại, mà còn băng xa ngoài lãnh vực phàm tình, huyền đồng cùng tạo hóa. Đạo Minh Lý ra đời không phải ngẫu nhiên, mà chịu một sứ mạng, cũng như các sứ mạng những thời kỳ cựu giáo : Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Kitô giáo trải qua mấy ngàn đời mà thiên hạ khắp trời mãi mãi sùng cao tôn ngưỡng là nhờ các bậc tổ sư tâm đức dị thường, rộng bằng trời, bằng bể, sáng suốt như mặt trời mặt trăng, bịnh gì có thuốc đó. Chư môn đệ kế tiếp nhau quảng bá ngày một rộng sâu, nhiều đệ tử tài đức mỗi ngày mỗi vun đắp, tô điểm mới còn mới thêm, thì chúng ta mới ra đời 53 năm còn trong thời kỳ chuẩn bị, chờ đón một hồng ân. Hồng ân đến đây không phải cậy ở sức, ở tài, ở trí, ở quyền lực nào, mà cậy có một chủ tể thiên tâm. Các hiền có tin hay không tin tùy ở chỗ thấy được hoặc chưa thấy được, dễ nhận qua Dịch Lý hay Phật Lý. Tất cả trong vũ trụ bất cứ cõi Trời, cõi người ở đâu, dầu là Thần Thánh cũng chịu trong hai quyền lực của Âm Dương. Quyền lực ấy nắm cả vận mạng của đất trời, không vật nào thóat khỏi, dầu là mảy bụi, bị nó kiềm chế một cách khắc nghiệt. Thuận thì còn, nghịch thì mất. Được dương thì thông, bởi âm thì bế. Nên mỗi một Nguơn là một đại kiếp chia ra 12 Hội, 144 Vận, 4320 Thế, mỗi Thế có 30 năm, 30 Thế một Vận, mỗi Vận 900 năm, 12 Vận thành một Hội, mỗi Hội có 10,800 năm. Tý hội, Sữu hội, Dần cho đến Hợi hội là một cuộc tuần huờn của một Nguơn. Sáu dương, sáu âm, 12 quẻ hội Tý là Phục, sữu Lâm, dần Thái, mẹo Tráng, thin Quải, tị Kiền. Từ một dương trưởng đến 6 dương là thời kỳ quang vinh đại thịnh. Nhưng thịnh không phải là thịnh mãi mà không suy, trưởng không thể trưởng hòai mà chẳng tiêu, nên tỵ hội Kiền dương đại thịnh thì nội tại đã chứa sẳn mầm âm nên qua hội Ngọ thì Kiền hóa Cấu, Mùi âm trưởng thành Độn, Thân âm trưởng lên 3 hào thành Bỉ. Bỉ thì dương tiêu 3 hào đến dậu dương mất thêm một hào, âm trưởng thêm một hào thành Quan, qua Tuất thành Bác, đến Hợi thì âm hoàn tòan thắng thành Khôn. Cũng vậy, nhỏ trong một ngày, trong một năm, luật tiêu trưởng của âm dương cũng giáp vòng từ Tý đến Hợi trong 12 giờ, trong 12 ngày, trong 12 tháng, trong 12 năm… Mỗi năm, tháng, ngày, giờ, thế, vận, hội, nguơn, chỉ khác rộng hay hẹp. Nếu trong một năm bốn mùa Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tang, luật ấy xây vần chuyển tiếp là sự co duỗi của âm dương. Duỗi hết sức rồi co, co hết chỗ cũng phải duỗi, nên tháng 10 là tháng cực âm bế vật, nếu không chuyển qua tháng 11 thì làm gì có Đông chí, nhứt dương sơ phục. Nếu không có nhứt dương sơ phục thì trời đất và vật đều chịu tiêu diệt. Ở trong người cũng như ngoài trời đất, cũng có âm dương tiêu trưởng. Lúc âm cực thì dương sanh. Dương sanh trong người là nhứt tức sanh cơ. Phục là gì? Là phục sinh, phục hồi, phục quyền, phục hưng, phục hòan bản vị. Phục nghĩa là trở lại cái gốc nguyên đầu, là cái Vô Cực vừa máy động, chưa động mà động. Khi máy ấy động, trong động thì hiện hình thành Thái Cực, động sanh dương, tịnh sanh âm; động tịnh này là nguyên khí lưu hành của Thái Cực thì âm dương là nguồn đầu của muôn vật, là cơ biến hóa vạn vật, chịu sự tiêu tức dinh hư. Tu là thoát ngoài cái động tịnh ấy, âm dương ấy. Hai đối cực này ngày nào còn làm chủ mạng sống của người, của vật thì không thể nói là tự do. Cái lý tánh tự tánh gọi là Vô Cực. Vô Cực là chủ tể của âm dương, nên nói dầu làm thiện hay làm ác, tuy có sự tốt xấu, hay dở, khác nhau, nhưng cũng còn kẹt trong vòng nhân quả. Cố công tu, ngộ chứng chỗ nguyên lai tự tánh, chủ được âm dương; chủ được âm dương thì tất nhiên chủ được tất cả, bất cứ vật gì, thứ gì. Mà thứ gì, vật gì, cõi trời cõi người, cũng đều chịu tuân nghe, nhứt thiết không một thứ nào dám xâm phạm. Ví như con sư tử chúa sơn lâm, một tiếng hét, là muôn thú muôn chim nằm rạp cả, hay như loại chim phượng hoàng ỡ đâu đi đâu, dầu đâu đâu thì các loài chim đều theo chầu chực. Vậy nên tu là nhận cho được cái nguyên lý ban đầu cái tự tánh. Cái tự tánh ấy là độc lập, tự do, vượt ngoài không một quyền lực nào ràng buộc câu thúc, cái mà Bác Nhã Thiền Sư gọi là THUNG DUNG tự do, tự tại. nhưng cũng nhớ rằng con người có ba phần báu trọng là TINH, KHÍ, THẦN. TINH, KHÍ, THẦN cũng một khí mà chia ra. Người vì mê mà để tiêu hao nên bịnh hoạn ngu khờ lầm lỗi. thần là con mắt, Khí là lỗ mũi, Tinh là miệng để tượng trưng ba phần quan trọng. Phần tu lấy nước miếng là tân dịch đễ bồi dưỡng cho châu thân mà các hiền tu ít biết, nên coi thường. Như con sò, con nghêu ở ao hồ song biển. Nó biết há miệng đễ hứng ánh sáng mặt trời, bửa bửa ngày ngày mà kết tinh thành ngọc trai. Người ta muốn có ngọc trai cho nhiều để thủ lợi, nên người ta dùng những đá, bắt con sò bỏ vô miệng, để đá ấy ngấm nước miếng sò và ánh sáng mặt trời thành ngọc trai giả. Để biết sự quan trọng trong nước miếng sò, thì nước miếng người còn quan trọng gấp ngàn lần kết nên Mâu Ni Bửu Châu. Tại sao các hiền tu không vận dụng lấy tân dịch ? Con trâu nhìn mặt trời mà có ngưu hoàn là vật báu. Còn mèo nhìn mặt trăng thành linh miêu, thì sự quán tâm của chư hiền là một môn quan hệ. Còn sự hô hấp là một việc rất cần để chế ngự vọng tâm, biến âm ra dương, hóa tình thức làm tứ trí. Nếu không xây ngược máy hà xa thì làm sao Nhâm Đốc tương giao. Nên khi thiền, cần hơi thở điều hòa nhịp nhàng thư sướng, thì tâm thức tự nhiên an tịnh vì hơi thở là khí. Khí là động, động là tình, là thức, là gây sự trở ngại nhứt cho tâm thanh tịnh. Nếu hơi thở đều hòa thì vọng lự hết sanh, mà hơi thở điều hòa cân xứng nhẹ nhàng vào ra thông thì sẽ khí hậu thiên tiếp được khí tiên thiên. Tiên hậu tiếp thông thì chừng đó không cần dùng ngoại tức mà chỉ tự nhiên nội tức lưu hành thì sự định thiền kết quả lớn. Ba phần Tinh, Khí, Thần hôm nay chỉ mượn một vài việc ngoài đễ gây ý thức cho tịnh viên; có dịp Bản Thánh sẽ nói sự lợi ích làm trợ duyên lớn cho công phu thiền định đắc đơn, chứng đạo. Đông Chí năm nay các hiền vào tu kể cũng có phần cố gắng nhiều; phần công phu ấy cũng đáng khen, nhưng khen cho những người Sơ Cơ thọ pháp, còn kẻ thiên ân nếu đã đễ tâm cố gắng phải làm cho kỳ được thì chưa đúng đạo pháp. Đáng ra các hiền không cần nghĩ có một chương trình cố định thời biểu, mà lúc nào cũng giữ cho lòng mình như nhiên, không đợi vào phòng tịnh mới tu, mà luôn luôn nuôi dưỡng cái lòng tự nhiên? Buồn vô ngại, khen không lấy làm sướng, chê không lấy làm hỗ. Nước tràn lửa cháy một bên cũng chẳng lo sợ, trời nghiêng đất lở cũng chẳng động tâm. Vào thiền quên thời gian dầu một giờ, một ngày, một tuần, muốn ngồi lâu hay xã tùy ý. Xưa có người ngồi thiền 6, 7 ngày mà tưởng chừng một đôi giờ, đến đổi bắt cơm lên để đó vào thiền, khi xuất thiền ra, cơm coi mốc lên hàng tấc mà không thấy đói, thấy lâu. Bản thánh ước sao quí hiền say sưa với Đạo, thú thích với thiền, ham mê như gà ấp trứng thì sẽ thấy Đạo là đệ nhứt thần tiên, trong đời không gì sánh kịp. Bây giờ các hiền chưa say sưa luyến mến Đạo mà còn ở trong giai đoạn cố gắng, giai đoạn bổn phận của người thiên ân, cũng không phải các hiền không hết tâm mà chưa được mở cái khiếu Thiên Chơn nên tu tập còn nhiều miễn cưởng. Khi các hiền quay ngược được cho cái máy hà xa hướng về cột sống, nghĩa là cái cốt hô hấp được xây ngược, thì chừng đó trăm người kéo lui cũng không được, dầu gông cùm cũng không thể giữ các hiền lại được. Lòng đạo đã kiên cố thì xá gì nhà cửa riêng tư, cái thân giả tạm, nhưng nên lưu ý các hiền đây là Trời muốn vậy, muốn vậy để cho các hiền tự giác lần hồi, nay mai chánh pháp hiện hình, thần thông hiển lộ, Thánh nhân xuất hiện, Đạo pháp hưng khai thì muôn người, ngàn người ai không tu được ? Thời kỳ này là thời kỳ tuyển chọn nguyên nhơn lập vị, ta nên quyết hai việc : 1. Nếu Đạo không hưng khai được, thế giới này vì cơ giới, vì tội lỗi sẽ tiêu diệt. 2. Bằng Đạo hưng khai thì tất cả đổi ngược. Ráng chờ không lâu sẽ thấy cuộc đời biến chuyễn không thể tưởng tượng được. Bản thánh chào ./. Rút gọn
Tam Tông Miếu Ngày 29 , tháng 10 năm Bính Thìn (19– 12- 1976) 20g 20 T H I : Gíó bấc đêm đông lạnh buốt người, Vưng hồng sưởi ấm khắp nơi nơi. Xuân về còn phải qua bao đoạn, Khóc mướt rồi sau lắm tiếng cười. Bần Đạo chào chư huynh đệ môn trung thanh tịnh nghe dạy. Chư thiên ân đệ muội đã từng trải qua những bước đời buồn vui cười khóc thế sự vô thường gẫ đến người đến ta, ai cũng chung chịu kiếp đồ linh đinh chìm nổi, có có không không, chỉ Đạo là nguồn sống miên trường, chư Thiên ân đệ muội đã từng theo Bần Đạo tu học bao năm ít nhiều cũng nếm được hương vị thâm trầm của Đạo pháp thì nên cố gắng hết tuổi Trời, chung vun đắp nền đạo đức cho vững mạnh để làm nơi y cứ, làm cho con thuyền vượt khỏi chốn bể khổ sông mê. Xem thêm
Hôm nay, đợt tu Đông Chí, chư Thiên ân đệ muội đã dọn mình đón nhận Nhứt dương lai phục ân phước dành cho để trợ trưởng đạo tâm làm tròn nhiệm vụ. Bần Đạo mừng vui được thấy ngày nầy sự tu học có phần tiến triển. Mỗi một khi vượt qua lên một tầng công phu đạo hạnh là một lần chịu thử thách gay go. Nếu thắng được ngoại cảnh mà không thắng được nội tâm thì cũng chưa mấy kết quả. Về môn Huyền Công Bác Nhã năm nay sở dĩ cho tịnh trước ba ngày là vì hoàn cảnh đặc biệt nhứt của giai đoạn gay go nầy. Dầu các Thiên ân đệ muội đạo tâm có kiên cố đến đâu cũng không chủ nổi ý tình bị ngoại giới lung lạc làm phân tâm tinh thần bất định. Nếu muốn đón Nhứt dương sơ phục của ngày Đông Chí đến hằng năm, thì chư Thiên ân đệ muội phải chỉnh tu quyền pháp nơi lòng, khiến cho tâm địa an nhiên mà hòa nhịp cùng thiên địa sanh cơ, nhịp nhàng đồng tiến, nội ngoại tương tùy thì sự kết quả mùa tu mới mong thu lượm. Đó là lý do khác hẳn những năm về trước hoàn cảnh không xáo trộn đổi thay như năm này. Mặc dầu đã lặng lẽ chờ đón Nhứt dương sơ động song cũng coi chừng lòng biến trả đổi thay mà hư việc. Chư thiên ân đệ muội nếu đã giác ngộ trên đường Đạo pháp thì nên buông bỏ mọi sự không đâu làm bận tâm, cởi mở tất cả những gì (ràng buộc tinh thần) làm trở ngại cho bước tu. Cũng nên thung dung tự tại, đừng bám theo qui luật hay một khuôn khổ nào trong thời gian tu, cứ để lòng như nhiên thanh tịnh, sống nhàn, sống khỏe, sống tự do. Tự do nghĩa là không để cho một cớ gì ràng buộc câu thúc ép cưởng tâm tư. Tự do là không còn biết sợ một quyền lực nào, dầu quyền lực ấy của Trời của Thần. Trời Thần sao đủ bẻ gảy, bóp nặn được tâm tự tại như như. Tự do là Thể Đạo, là ngôi Vô cực căn cốt của Đất Trời. Học Đạo, tu Đạo căn cứ vào đó mà hành trì. Theo Dịch lý mà suy ra Vô cực là Tịch, Thái cực là Chiếu. Tịch Chiếu Nhứt như. Tịch không ngoài Chiếu, Chiếu không lìa Tịch. Tịch Chiếu là thể của Tâm. Nếu thiên Định thành mê, thiên Huệ thành loạn, vì Huệ hay biến ra trí mới hay sinh thức nên Huệ không lìa Định thì Huệ mới chơn Huệ. Định không lìa được Huệ thì Định mới chơn Định, mới linh hoát biến thông, hàm dung trải khắp. Nếu Định thâm không Huệ thì có thể thành mê, lạc cảnh ngoan không. Vì vậy mới nói Đạo là sự sống, sự sống hồn nhiên, đầy tràn vũ trụ. Bởi vậy chư Thiên ân đệ muội đợt tu nầy cần nhớ lấy hai chữ THUNG DUNG làm đề mục bước vào thánh cảnh, đừng để cho tâm thân nầy như người sống bằng tình cảm, bằng lý trí, bằng con người máy móc, con người bị tình thức trần căn sử dịch chỉ huy. Tóm lại không nên tỉnh như người thức, không nên mê như người ngủ mà khéo làm sao cho tâm vừa yếu vừa minh, hư mà linh. Hư linh bất muội, dường như nữa tỉnh nữa mê. Nói nữa tỉnh nữa mê cũng không đúng, mà nói như lúc bình minh, như ngày mà không phải ngày, như đêm mà không phải đêm, như nguội mà không lạnh, như ấm mà không nóng, như biết mà không để ý, như ngủ mà không có gì không nghe. Tu tập được như vậy là cùng với thể Vô Cực Thái Cực làm Một. Nếu đắc được khí nầy thì làm chủ được đối tượng âm dương. Nếu chưa được lòng Như Như ấy thì nên chấp Trung để thăng bằng hai đối cực âm dương. Như lúc thiên về động là Dương thì nên xê lịch qua Âm cho quân bình. Nếu thiên về tịnh là Âm thì nghiêng về Dương cho cân đối TRUNG, nghĩa là Tịch Tịch thì dùng pháp “ Chiếu”. Nghĩa là Tịch mà nhiểm “ không” thì dùng pháp “ Chiếu”. Nếu Chiếu mà thiên về trí xét đoán thì nên dùng pháp “Chỉ”, nghĩa là luôn luôn tỉnh ngộ theo dỏi tâm tư, thấy nó đi đường nào thì lấy quẻ cân (Trung) gióng lại cho tâm được thăng bằng. Thăng bằng là Đạo. Tập tu như thế nhiều ngày thì sự huân tập của Chơn như được kết quả. Hể Chơn như tâm hiện lộ một phần thì phiền não chướng tiêu đi một phần. Lộ hai, ba phần thì vô minh lậu cũng tiêu đi hai ba phần. Mỗi ngày mỗi tiến huân tập Chơn như được mãi thì cấu uế tiêu trừ mà chư Thiên ân là hiện thân của Bần Đạo . Bần Đạo được trường thọ hay yểu vong, danh dự quyền pháp được tuyên dương hay mai một, trông vào chư Thiên ân đệ muội đoán biết sự hư nên tất cả. Chư Thiên ân đệ muội thương Đạo, thương Bần Đạo thì ráng thương lấy tự thân. Cái danh dự của Minh Lý, của Bần Tăng, đều trông vào chư Thiên ân đệ muội. Chư Thiên ân đệ muội khi trưởng thành thì cũng phải để cho mọi thử thách thử coi đã được chứng đến mức nào. Vàng cần có lửa mới biết tuổi vàng. Chuông có đánh thử mới biết tiếng trong đục xa gần. Ngựa có chạy đường dài mới hay sức ngựa. Chư Thiên ân đừng phiền trách Thần Tiên lúc nầy ít lo cho mình. Các Thiên ân nên suy gẩm như đứa bé mẹ phải bồng phải dắt, khi nó biết đi biết chạy thì tự nó đùa giởn tự do, cần gì phải dìu phải dẩn. Đợt tu nầy cũng phải gặp một vài khó khăn nhưng rồi cũng ổn. Chư Thiên ân trong hàng Khai Pháp và trong hàng Nữ đồ, đáng ra, lịnh buộc mỗi kỳ Đông Chí phải nhập tịnh đều nhưng ít thấy mùa tu nào đủ trọn. Bần Đạo nếu sanh tiền tu công lập hạnh đủ đầy thì hôm nay mới được cái hân hạnh là chư Thiên ân nhứt nhứt hiện tiền dám làm dám quên thân vì Đạo. Mặc dầu hoàn cảng cầm chưn không cùng đồng tiến lên một lượt thì đợt tu nầy cũng đi lại trợ lực cho khóa tịnh đủ duyên lành nhưng bận chi thì Chủ Trì cũng tìm cách có mặt cùng anh chị em trong một ít giờ, ít ngày trong khóa để cho tinh thần quyền pháp được trọn. Bác Nhã Tịnh Đường bất lực vì tuổi già thiếu cố gắng của KHAI DIỆU, KHAI CHƠN, con thuyền đạo triền nghiên, muốn thăng bằng phải đưa KHAI TÂM thừa hành tịnh pháp mà chưa khởi trình còn đợi ngày nào ? Việc liên tục đôi ba hôm sẽ nhắc chừng chổ sai chổ thiếu trong mùa nầy nên LIÊN HOA nán sau Lễ Kỷ Niệm Khai Đạo sẽ ra tịnh để tiếp Ơn. Thôi. - KHAI SẮC bạch : Thơ của Thánh Tịnh Tam Thanh Bửu Điện. - Hoàn thành khóa nầy sẽ định. Thôi Bần Đạo chào. - KHAI MINH bạch : Bạch Ngài khóa tịnh Hạ Chí rồi Ngài dạy rằng muốn mời một số đạo tâm cầu tìm chơn lý đạo pháp, cầu tu giải thoát để trở nên một Thiên ân lành mạnh . . . thì lập danh sách để Thiêng Liêng chứng. Bạch Ngài đã có hai danh sách Cơ Quan và Minh Lý Thánh Hội, xin thượng lên Ngài dạy. - Có hai phần trở ngại. Một là đôi bên chưa nhứt trí và hoàn cảnh đương ngăn chận bước tiến. Hai, đồng tử trác táng tâm nghiêng về phước thiện, cần đợi quân bình cả hai. Đòi Chủ Trì khi rảnh việc nên có mặt. Bần Đạo chào chư Thiên ân. Sau Đông Chí sẽ lịnh chuyển cơ. Bần Đạo . Thăng 22g15 Rút gọn
Ngày lễ Kỷ-niệm Minh-Lý Đạo Khai, đêm 26, tháng 11, năm Ất-tị. (D.l, 18 tháng chạp năm 1965) Thưa chư sơn thiền-đức, Thưa chư quí ông, chư quí bà, Thưa chư đạo hữu nam nữ, Hôm nay, Minh-Lý môn sanh tề tựu tại Chùa để thiết lễ cúng “Kỷ-niệm Minh-Lý Đạo khai”, nghĩa là: Lễ ghi nhớ ngày đầu tiên, mà Trời Phật đã chánh thức khai mối đạo “MINH-LÝ”. Năm khai đạo Minh-Lý là năm Giáp Tý (Dương-lịch là năm 1924). Từ năm Giáp-Tý cho tới năm nay là năm Ất-tị (1965), đạo Minh-Lý đã trải qua một thời gian là 41 năm, nghĩa là: Kể từ ngày nay, đạo Minh-Lý bước qua năm thứ 42. Mục đích của cuộc hội hiệp hôm nay là cốt để: 1/ Cầu nguyện Thượng-đế ban ơn lành cho tất cả chúng sanh đặng an hưởng thái bình và mối đạo Minh-Lý đặng diên niên trường cửu. 2/ Tỏ lòng biết ơn các đấng Giáo chủ và chư Phật chư Tiên đã dày công lập thành mối đạo và dắt dìu chúng sanh trên con đường giải thoát. 3/ Hội diện đông đủ, mỗi năm một kỳ, tất cả các đạo hữu Minh-Lý để cùng sum hiệp như bửa cúng giổ tổ tiên trong một gia đình và nhắc nhở nhau về những nguyên tắc tu niệm chơn chánh. Lược đồ Hỏa Hậu cũng gọi là Tam Giáo Đồ vì nó chỉ rõ ba tông giáo Nho, Thích, Đạo đồng căn cứ vào một gốc lớn là Đại Đạo. Đại Đạo Hư Vô Nói tới hai chữ Đại Đạo chúng ta cũng nên nhận định cho rõ Đại Đạo là chi ? Đạo là luật thiên nhiên của Trời Đất, vũ trụ. Đó là Chơn-Lý tuyệt đối, vô thượng. Vì Đạo tuyệt đối vô thượng, trên khắp các nơi, không có chi lớn hơn Nó nữa, nên gọi là Đại. Còn nói nhỏ, thì Nó ở trong vi trần, nhỏ hơn mủi kim nhỏ nhứt, nên cũng có thể nói : Không chi nhỏ bằng Nó. Thường tại đây, chúng ta hay lập đi lập lại câu : “Lớn không ngoài, mà nhỏ không trong”, là để chỉ cái thể của Đại Đạo vậy. Đó là màu Trắng ở chính giữa lược đồ. Xem thêm
Trong thi bài chữ Tâm, Ân Sư của chúng tôi là Bác Nhã Thiền Sư giáng dạy từ cuối năm 1974, có lời giải đáp Đạo là gì như sau : Đạo là gì ? Không là gì cả, Chớ cái gì hóa hóa sanh sanh ? Cái không phải, cái vô danh, Không sanh không hóa, hóa sanh muôn loài. Nó ở đâu, trong, ngoài, cho biết, Không ở đâu, kỳ thiệt khắp nơi; Trong ngoài cũng bặt tăm hơi, Hư hư thiệt thiệt, không lời giải phân. Vậy chớ Nó là nhân hay quả ? Không ! Nó trên tất cả đối thù; Huyền huyền, diệu diệu, nhiệm mầu, Theo đuôi chẳng thấy, đón đầu cũng không. Có kẻ nói rằng “Đại Đạo của ông như vậy, còn Đại Đạo của tôi khác hơn của ông”. Hiểu như thế, không đúng, vì có ai biết rõ hết Đại Đạo ? Chỉ nghe được lời giảng dạy của các đấng Giáo-chủ, hiểu được một phần nhỏ nào đó, là may lắm rồi ! Mỗi người nắm được giỏi lắm là một phần nhỏ, nên phần nầy không giống hẳn phần kia. Khác là khác ở chỗ đó, chớ có lẽ nào lại có nhiều Đại Đạo khác nhau ? Mặt khác, nói rằng chúng ta hiểu được một phần nhỏ nào của Đại Đạo hư vô là chẳng phải hiểu ngay vào đó được, vì hư vô là trống không, chẳng thấy có trẩm triệu, có dấu vết nào trong đó cả, thì làm sao mà hiểu biết gì được. Kinh Thanh Tịnh nói : “Đại Đạo vô hình, Đại Đạo vô tình, Đại Đạo vô danh”. Nhưng nếu nói có bấy nhiêu thì như có nói gì đâu, làm sao mà hiểu được : Không có hình tướng, không có tình tự, không có tên gọi, thì làm sao mà hình dung ? Cho nên Kinh lại còn nói tiếp : “Đại Đạo vô hình, sanh dục thiên địa; Đại Đạo vô tình, vận hành nhựt nguyệt ; Đại Đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật ”. Tuy không có hình mà vừa sanh vừa dưỡng Trời Đất; Đại Đạo không có tình mà vần xây mặt trời mặt trăng ; tuy không có tên mà nuôi lớn cả người lẫn vật. Thế thì tuy nói Đại Đạo hư vô là trống không, nhưng kỳ thiệt chẳng phải là trống lổng không lơ, không có vật nào trong đó. Nếu không có Đại Đạo thì không có chi tồn tại được, đủ thấy trong Trời Đất, không có chi chẳng nằm trong lòng Đại Đạo, nên Kinh Phật nói : “Chơn không diệu hữu”, tuy là không mà kỳ thiệt là hữu, cũng như nói “Không tức là Sắc ”. Không và hữu hay là không và sắc có phải là hai phương diện của một linh thể đó chăng ? Nhưng chớ tưởng lầm là không và hữu là hai vật cách biệt nhau. Muốn tìm biết cái không kia, ngoài cái hữu nầy thì chẳng có đường lối nào khác mà tìm biết được. Vậy xin nói ngay về cái hữu của Đại Đạo hay là cái Đạo hữu thể. Đạo hữu thể có hai phần : Tiên-thiên và Hậu-thiên. Phần Tiên-thiên là khí rất tế vi; đó là nguyên thỉ khí. Phần Hậu-thiên là hình khí gần thành hình chất, hay ở trong hình chất. ĐẠI ĐẠO HỮU THỂ 1.- Phần Tiên-thiên : Đó là Nhứt thể tam giác. Tiên nghĩa là trước, Thiên nghĩa là Trời. Có trước Trời Đất, tức là nghĩa câu Đạo Đức Kinh : “Vô danh, thiên địa chi thỉ ”[Đạo không tên (hoặc không biết đặt tên gì) là nguồn đầu sanh ra Trời Đất vậy]. Sanh ra Trời Đất tức phải có trước Trời Đất. Đây có ý nói : Tuy gọi là Đạo Hư Vô, nhưng mà trong sẳn có chủng tử sanh ra Trời Đất. Chủng tử nầy còn tiềm tàng, chưa có dạng hình thấy được. Mà chưa có dạng hình thì biết dựa vào đâu mà đặt tên, nên gọi là Vô danh. Chủng tử phát lúc ban đầu chỉ có một thứ nguyên thỉ khí rất tế vi; khí ấy tức là khí Tiên-thiên. Do khí nầy mà phát sanh vạn vật. Nên Đạo Đức Kinh có câu : “Hữu danh vạn vật chi mẫu ” (Chừng Đạo có tên thì gọi là Mẹ của muôn vật). Theo đây thì trong Đạo Hư vô, lần đầu tiên xuất hiện khí Tiên-thiên, do khí nầy mà phát sanh vạn vật vật. Sanh ra vạn vật, nếu không là Mẹ thì danh gọi là gì khác được ? Đả gọi là Mẹ thì thấy rỏ Đạo đã được nhơn cách hóa rồi. Nói cách khác, lần đầu tiên xuất hiện một vị tối cao, tự hữu nhi hằng hữu, bất sanh bất diệt, tồn trí tồn năng, gồm đủ các đức tánh lành tuyệt đối. Như đã diển tả, chúng ta thấy ngay rằng Đạo Hư Vô và vị Tối cao chẳng phải hai, mà chỉ là hai phương diện của một linh thể, không khác nào lúc ngủ và lúc thức của một thân con người. Con người ngủ là lúc bất giác (inconscient) thân thể vận động sanh sống theo luật thiên nhiên, nên ta có thể gọi thời kỳ bất động nầy là Luật (Loi). Con người thức là lúc giác (conscient) linh tánh chủ trương mọi hành động của thân thể, tức là linh-tánh chủ quyền điều khiển ngoài luật thiên nhiên, nên ta có thể gọi thời kỳ nầy là Đế (Etre supreme). Phân ra hai thời kỳ mà xét theo lý trí, để tìm hiểu cho dễ, chớ nào có hai con người, cũng làm gì có hai thời kỳ. Cũng vậy Đạo Pháp : Luật và Đế chỉ là Một. Cuốn Minh-Lý Chơn Giải của Minh Lý Thánh Hội phát hành có nói về vấn đề nầy như vầy : “Song không phải nhận hiểu theo thế gian : Hiến chương luật tắc (Luật) là bản giấy mà có người cầm quyền (yếu tố thứ hai) lấy đó để giữ nước yên dân. Yếu tố thứ hai đó, người cầm quyền đó là Đế ”. Ý nói : đừng lầm tưởng có hai, tuy rằng không hẳn là một : Phi nhứt, phi dị. Thưa Chư Vị, Đại Đạo Hư Vô tượng trưng như trên đã nói là màu trắng ở chính giữa lược đồ, màu trắng tinh khiết trong sạch. Mà màu trắng cũng như ánh sáng gồm tất cả các màu khác. Đạo hữu thể có hình tướng nên được tượng trưng bằng hình tam giác, tam giác có dạng hình. Luận thì có hai bên mà kỳ thiệt trong lược đồ chỉ có một hình tam giác màu trắng tinh. Xin quí vị chịu khó nhìn lại lược đồ Hỏa hậu, chúng ta nhận ra : Nơi chính giữa có một hình tam giác, trong đó có một vòng tròn, và giữa vòng tròn có một chấm. Hợp lại thành một hình, tượng trưng Đế, hay là Thượng-đế ba ngôi : Ngôi nhứt : vòng tròn gọi là Vô-Cực; Ngôi nhì : chấm giữa vòng tròn, gọi là Thái-Cực; Ngôi ba : hình tam giác, gọi là Hoàng-Cực hay Nhơn-Cực. Đó là Tam-Cực có nghĩa là cao hơn hết, như trong một cái nhà, là đòn dông, vì không có chi cao hơn nó nữa. Chúng ta kiểm lại thấy rằng trước là Đại Đạo Vô-thể (vòng tròn Vô-Cực), kế tiếp Đại Đạo Hữu-thể là đấng tối cao (chấm giữa Thái-Cực) sau rốt, là Hoàng-Cực hay Nhơn-Cực (hình tam giác) Tam Cực tuy phân chia ra ba ngôi riêng rẽ, mà kỳ thiệt chỉ là một thể. Thể đó là Thượng-Đế. Do đó Tam-Cực vẫn bình đẳng, không cao thấp nhỏ lớn, không Cực nào cao hay thấp hơn Cực nào, cũng không Cực nào nhỏ hay lớn hơn Cực nào. Tại Chánh điện Chùa Tam-Tông Miếu, quí vị có nhìn sẽ thấy rõ ràng Đạo Minh-Lý lấy hình tam giác làm đèn lưu ly treo giữa Điện thờ, để tượng trưng thờ Thượng-Đế Ba ngôi. Phía dưới, trên hai bực đầu, có ba bài vị, sắp thành hình tam giác, là : DIÊU TRÌ KIM MẪU (Vô-Cực) NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ HỒNG QUÂN LÃO TỔ (Thái-Cực) (Hoàng-Cực) là Ba vị đại diện cho Thượng-Đế đã dùng Huyền-cơ, một thứ cơ không có bút, mà khai đạo Minh-Lý. Đó là phần Tiên-thiên. 2.- Về phần hậu-thiên : là phần còn lại của lược đồ Hỏa hậu. Trước hết là ba vòng tròn dựa trên hình tam giác cho ta cái cảm giác là từ tam giác mà xuất hiện ra : Một vòng tròn lớn màu vàng, có ghi chữ Ý, một vòng tròn lớn màu đỏ có ghi chữ Trí và một vòng tròn lớn màu xanh có ghi chữ Tình. - Chữ Ý nói đủ chữ là Ý-chí (Volonté) và vòng tròn lớn màu vàng tượng trưng Phật giáo, vì Phật giáo Đại-thừa lấy Ý làm căn bổn. Tuy Phật có dạy lấy tam nghiệp làm quan yếu là Thân, Khẩu và Ý, nhưng hai nghiệp đầu đều tùy theo (Ý) cả. Có phát Ý trước, sau mới động tới Thân và Khẩu. Bát thức Qui Củ Tụng của Thầy Huyền-Trang nói về Ý, theo Duy-thức học, có câu “Động thân, phát ngữ, độc vi tối ” là chỉ về nghĩa nầy. Cho nên lấy Ý tốt hay xấu mà bình phẩm mọi việc, mọi hành động của con người. Ý tốt thì mọi việc làm đều tốt, còn xấu thì việc làm thấy ra có hay cũng là mất giá trị, cũng thành xấu. Vậy Phật giáo ứng với chữ Ý hay là ngôi Nhứt. Chữ Trí nói đủ chữ là Trí Huệ (Sagesse) và vòng tròn lớn màu đỏ bên tả, tượng trưng Nho giáo, vì Nho giáo dạy mở trí làm gốc. Sách Đại Học dạy có tám điều mục là Cách vật, Trí tri, Thành ý, Chánh tâm, Tu thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ. Đành vậy ! Nhưng hai điều mục đầu cách vật và trí tri được xem là căn bổn. Tìm hiểu mọi vật, mở mang sự hiểu biết tới nơi tới chốn, chẳng phải mở trí, thì gọi là gì ? - Vậy Nho giáo ứng với chữ Trí hay là ngôi Nhì. - Chữ Tình nói đủ là tình cảm (sentiment, amour) và vòng tròn lớn màu xanh bên hữu, tượng trưng Đạo giáo, vì Đạo giáo tuy dạy bao hàm mà lấy chữ Tình làm cốt yếu. Có bài thơ nói về vấn đề nầy như sau : Nhơn tình nông hậu, Đạo tình vi, Đạo dụng nhơn tình, thế khởi tri ? Khống hữu nhơn tình vô Đạo dụng; Đạo tình năng đắc kỷ đa thì. Nghĩa là : Nhơn tình thô cạn, Đạo tình tinh, Đạo dụng nhơn tình, ai biết nào ? Chẳng có tình người, Đạo không dùng được; Đạo tình mà đặng, có bao lâu ? Ai hiểu đặng chữ Đạo tình là gì mà biết dùng nó thì sẽ mau thành Đạo. Vậy Đạo giáo ứng với chữ Tình (tức Đạo tình) hay Ngôi ba. - Đây nói về sở trường của mỗi giáo, chớ không phải nói : mỗi giáo chỉ biết có một mặt nói trên đó mà thôi. Ta nên để ý : ở trong vòng tròn lớn, có xen hai khoảnh nhỏ hình như nửa múi quít hai màu hiệp lại thành màu khác nữa. Như trong vòng tròn lớn màu vàng là Thích giáo có phụ hai khoảnh nhỏ màu đỏ và màu xanh ý nói Thích giáo có một chỗ cao luận đặc biệt hơn làm sở trường là “Chủ Ý”. Vòng tròn lớn màu xanh cũng vậy trong tinh thần Đạo giáo có một chỗ cao luận làm sở trường là “Luyện Tình”. Vòng tròn lớn màu đỏ là Nho giáo có một chỗ cao luận đặc biệt hơn làm sở trường là “Mở Trí”. Còn hai phần phụ thuộc tượng trưng hai chỗ sở trường của hai giáo kia tuy cũng có luận đến nhưng không đặng giải rộng như hai giáo kia. Theo tâm lý học, cái tâm của ta có ba phương diện là Trí, Tình, Ý. Nhưng ba phương diện cũng tượng trưng cho ba đức tánh, có một đức tánh mạnh hơn khi ta hành động, tức là sở trường của mỗi giáo đó. Dầu ba phương diện của cái tâm phát biểu rõ rệt cho mấy đi nữa, nghĩa là có phân biệt đến đâu cũng còn giữ một gốc luôn luôn, không phải gián cách, biệt lập. Nhờ đó nếu ta nội tỉnh, tự giác tự ngộ thì cũng có thể tìm phương trở về căn bổn, là ngôi Viên-Nhứt. Như đã nói ngoài ba vòng tròn lớn, còn có sáu hình nửa múi quít : Mỗi vòng tròn lớn toàn màu lại có hai hình nửa múi quít nhỏ khác màu. Ba vòng tròn lớn hiệp lại như trong lược đồ cho thấy sáu hình nửa múi quít nhỏ tượng trưng sáu đức: Thông, Minh, Nhân, Trí, Hùng, Lược. Bề Trên có giải nghĩa sơ lược như sau đây : Thông : Chẳng phải nghe nhiều mà gọi rằng Thông. Nghe rồi còn phải thực hành, kiến cơ nhi tác, tuỳ cơ ứng biến, nương theo thời thế mà giúp cho đời. Minh : Chẳng phải biết nhiều mà gọi rằng Minh. Nên phân biệt chỗ lợi hại, giúp người hiền tài thất vận, trợ kẻ ít học nên thân, ráng làm tròn phận sự đối với gia đình xã hội. Nhân : Chẳng phải ăn chay mà đủ gọi là Nhân. Giúp người an vui, mở lòng từ bi quảng đại cứu vớt chúng sanh hoạn nạn, đói khổ, không cố chấp thù xưa, v.v. Trí : Chẳng phải tránh hết mọi việc thế gian, mà gọi là Trí. Trí là có độ lượng rộng rãi, phòng ngừa hậu hoạn có thể xảy ra. Hùng : Chẳng phải ráng cãi cho hùng hồn mà gọi là Hùng. Hùng là tinh tiến, không vì khó nhọc mà lười biếng, không vì hoạn nạn mà giải đải. Lược : Chẳng phải khéo cầu an, tránh mỗi việc đều sợ liên lụy, mà gọi là Lược. Lược là mỗi việc làm đều có phương pháp sắp đặt, tiên liệu thứ tự trước sau, để đạt tới thành công. Theo Phật giáo Đại Thừa, sáu khoản nầy có thể đối chiếu với Lục Độ : Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Bác-nhã, ứng với ba thân : Pháp, Báo, Ứng. Theo Đạo giáo, có thể gọi là lục đức như nói trên nói đó, ứng với Tam thanh : Ngọc, Thượng, và Thái. Theo Nho giáo, sáu khoản nầy có thể gọi là Lục hạp (sáu hướng : Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới) ứng với Tam thể : Mạng, Tánh, Lý. Lại nữa, chúng ta còn nhận thấy có các vành đen làm cho các màu vàng, xanh, đỏ hiển lộ rõ ràng hơn. Kế đó lại có ba chia từ vòng tròn nhỏ chính giữa mà đi ra. Ba cái chia đó rất ngay thẳng tượng trưng sứ mạng công bình, ngay thẳng giữ mức trung lập, để biện biệt phân minh những điều phải, quấy, không thiên bên nầy không ngã bên kia, không kết liên với phe nầy phái nọ mà phải đứng giữa để minh lý mà thôi. Nhìn lại lược đồ Hỏa Hậu, chúng ta thấy một vòng đen tròn (màu đen thuộc âm) ở vào giữa. Bổn đạo Minh-Lý y theo màu biểu hiệu đó mà mặc đạo phục. Có kẻ hỏi : Thuần dương mới là chánh. Đã nói Minh-Lý là chánh đạo, sao lại thuộc âm ? Đáp : bề ngoài sắc đen là âm, mà bên trong sắc trắng là dương. Luận theo Tiên thiên, sắc đen là thủy thuộc dương, nghĩa là trong âm có dương. Theo Hà-đồ đó là các số 1- 6. Còn ngoài cái vòng tròn sắc đen là màu trắng. Trắng thuộc dương mà luận về Tiên thiên sắc trắng thuộc âm, tức là trong dương có âm. Đó thuộc các số 4 – 9 của Hà-đồ. Ba cái vòng tròn xanh, đỏ, vàng, thuộc hậu thiên càng mở rộng ra chừng nào, thì ba cái chia đen càng kéo dài thêm mãi. Ba cái chia đen, như đã thấy, tượng trưng cho Đại Đạo Tiên Thiên gồm Minh-Lý Đạo. Kinh Đại-Đạo có ghi : Thêm Minh-Lý lãnh phần truyền Đạo, Ban sám kinh, khuyên bảo tu hành; . . . . . . . và Vì chưng lắm cuộc phong trào, Mấy chi (chi phái có 5) sợ khó, hiệp vào một nơi. Thầy phải sửa cơ Trời khai đạo, Nên truyền cho Đạo Tổ giáng trần; Lập chi Minh-Lý khuyến dân, Truyền ban kinh, luật hồng ân cứu đời. Cơ Trời về mặt Đạo có sắp đặt sẳn trong lược đồ Hỏa Hậu nầy. Để ý nghiên cứu suy nghĩ kỹ thì sẽ thấy rõ. Phận sự của Đạo Minh-Lý rất phân minh mà Minh-Lý môn sanh chúng tôi hằng suy xét và thiết tưởng chúng ta xét rõ rồi, ai ai cũng phải tin theo đó mà ráng lo làm phận sự cho tròn. Khi ban cái lược đồ nầy, đức Khổng Thánh có dạy rằng : “Bởi các người học Đạo chẳng tới, nên làm hư Đại Đạo. Lược đồ chỉ cho chư nhu biết rằng Nho, Thích, Đạo chỉ có một gốc mà thôi ”. Y như trong bài Khai Kinh của đạo Minh-Lý có những câu sau đây : Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy, Gốc bởi lòng làm phải làm lành; Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành, Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn. Phép Tiên Đạo tu chơn dưỡng tánh, Một cội sanh ba nhánh in nhau. “Đạo Tổ có dạy làm một bài giảng góp hết ý tứ trong các Thánh Ngôn để làm nêu dẫn đường cho các đạo hữu Minh-Lý Đạo. Minh-Lý môn sanh khá vưng theo lời Bề Trên mà hành động cho đúng Thiên cơ, mới mong Đạo Minh-Lý đi đến kết quả tốt đẹp, đạt mục phiêu dĩ định ”. Đó là lời dạy của Ân Sư chúng tôi là Bác Nhã Thiền Sư cho môn sanh Minh Lý. Thưa chư vị, Trên đây, Tam Giáo Đồ của Minh-Lý Đạo đã được lược giải từ trong đến ngoài, đầy đủ không sót khoảng nào. Chúng ta cần suy nghĩ thêm về phần đạo lý, rộng rãi thâm sâu, không biết đâu mà lường. Ai trong chúng ta cũng cần tìm hiểu, tự mình phát huy sáng kiến theo trình độ học hỏi, tùy mức giác ngộ của mình, để mà góp công đức vào sự hoằng khai Đại Đạo. Học hỏi, tìm tòi hiểu rõ, hiểu vững chắc hầu đặt tất lòng tin nơi Chánh Đạo, để rồi tuân lịnh Bề-trên đã dạy, cho hợp với Thiên cơ. Như chẳng hạn, đã gọi là lược đồ Hỏa Hậu, thì ngoài Tam Giáo Đồ đã giải, còn có những nghĩa khác, mà một trong các nghĩa đó cần ghi lại sau đây, âu cũng là theo chương trình tu học của Ân Sư chúng tôi đã vạch ra. Trước hết minh định nghĩa hai chữ Hỏa Hậu . Chữ Hỏa có nghĩa là lửa; Hậu là thời hậu, giờ khắc. Hiệp lại, hai chữ có nghĩa là giờ khắc dùng lửa. Theo phép luyện Đạo, mỗi giai đoạn đều khác nhau chớ không phải dùng một phương pháp cố định mà tu hoài. Chẳng khác nào một người học trò đi học, ban sơ ngồi lớp dưới, rồi sau lần lần lên lớp trên, mỗi lớp đều có tiến bộ. Đạo Minh-Lý có 5 lớp học : Dự bị, Sơ cơ, Ngoại dược, Nội đơn và Thần hóa; mà ba lớp sau mới là quan trọng, nên hành giả cũng phải theo thứ tự mỗi lớp mà học tiến lần lần cho đến quả vị cứu cánh. Đây là “Nghĩa cấp đẳng”. Lại trong mỗi lớp, mỗi ngày học hỏi đều có thời biểu, nghĩa là có bản nhứt định các môn học, ngày giờ nào học môn chi, hay là lúc nào nghỉ giải trí. Đây xin lấy một việc nấu cơm mà ví dụ : Người nấu cơm phải biết lúc nào nên chụm lửa hỏa hào, lúc nào nên bớt lửa, lúc nào nên tắt lửa để lửa than. Nếu chụm lửa không đúng phép , thì cơm sình, khét, hoặc bị khô cháy. Về phép tu luyện cũng thế. Mỗi đoạn công phu phải dùng lửa cho hợp pháp, cho đúng kỳ, đừng thái quá hay bất cập, thì Đơn mới thành tựu. Nếu sai một mảy lông thì trật sai ngàn dặm. Cho nên Đơn Kinh có câu : “Luyện Đơn toàn bằng Hỏa Hậu thành công ”. Nghĩa là người luyện Đơn đặng thành công, là nhờ biết Hỏa Hậu và y theo đó mà tu. Nghĩa nầy có thể gọi là “nghĩa phanh luyện ”. Nghĩa cấp đẳng và nghĩa phanh luyện rất tỉ mỉ, ai có học lớp Huyền-công mới hiểu biết được. Về cái “nghĩa qui nguyên ” là nghĩa thứ ba, đức Khổng Thánh có dạy : “phàm con người muốn trở về quê cũ, trước phải biết mình do nơi đàng nào xuống đây, thì phải theo đàng đó mà về, mới khỏi lạc lối. ” Nói cho đủ chữ, nghĩa nầy cũng gọi là : “Phản bổn hườn nguyên “. Nghĩa “Qui nguyên ” mới là mục đích chánh của Đạo Minh-Lý. Nói cách khác thì Minh-Lý môn sanh chúng tôi phải biết có cái Đạo đi ra và cái Đạo trở về. Con người đi ra, mê nhứt tâm mà thành vọng thức, sanh ra bảy tình sáu dục. Qui thất tình lục dục trở về, lập thành ba yếu tố tinh thần đơn giản hơn là Trí, Tình, Ý, tượng trưng trên lược đồ Hỏa Hậu bằng ba vòng tròn lớn đó. Làm được việc đó, là khởi sự quày đầu tỉnh ngộ, chọn đường Đạo mà đi, thay vì buông lung tâm tánh, như từ trước tới nay. Đức Khổng Thánh có dạy thêm cũng về lược đồ Hỏa Hậu nầy : “Chúng ta vì vong thân phóng khí càng ngày càng đi xa căn bản, nên phải chịu đọa lạc. Nay gặp cái họa đồ nầy thì khá noi phương pháp của Đạo mà tìm phăng trở về gốc xưa vị cũ. Gốc xưa vị cũ ở đâu ? – Đó là một điểm trong vòng tròn nhỏ, ở chính giữa họa đồ, tức là Thượng Đế ”. Vậy thì từ ba vòng tròn màu Đỏ, Xanh, Vàng Hậu Thiên : Trí, Tình, Ý, chúng ta tu luyện để thực hiện ba việc chuyển y : Chuyển Trí tri của cách vật hiểu theo Châu-Hi, trở về Trí lương tri, hay là Huệ Trí mà cũng gọi là Chơn Trí nữa; chuyển Tình thường nhơn, thăng hoa đi đến đại bi tâm, hay tâm vũ trụ cũng gọi là Thiên Địa chi tâm; chuyển Ý “Tội vi khôi ” trở thành “Công vi thủ ” thì do Ý mà trở về Tánh. Lúc bấy giờ Tâm và Tánh chẳng khác, cùng Trí như nhau, tức là cái Đạo trở về phản bổn hườn nguyên, tượng trưng trong lược đồ Hỏa Hậu bằng ba vòng tròn lớn, màu khác nhau, là cái Nhiều, đa tạp, thiên hình vạn tượng, ứng dụng vô biên, qui về tam giác hình màu trắng là cái Một nguyên thể, lớn không ngoài mà nhỏ không trong, Nhứt Thể tinh tuyền. Kính thưa chư vị, Chúng tôi vừa kính hầu quý vị về ý nghĩa của lược đồ Hỏa Hậu của Đạo Minh Lý. Rất mong tất cả chúng ta đồng nhận thức ý nghĩa thâm sâu và suy nghĩ thêm về Lược Đồ Hỏa Hậu để ứng dụng và phối hợp cùng nhau giữa Minh Lý và Cao Đài trên đường hành đạo. Rút gọn
|
Blog's author
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |