CHƯƠNG THỨ NHỨT T H I : KHAI cơ giáo pháp yếu tâm truyền, MÔN học huyền công quả Phật, Tiên. BÁC bửu kim đơn thành huệ mạng, NHÃ Minh-Lý Đạo ngộ cơ huyền. B À I : 1 - Minh-Lý Đạo khai môn Bác-Nhã, Để cứu đời diệt phá vô minh. Vô minh tạo nghiệp tử sinh, Luân hồi thọ lãnh khổ hình triền miên. 2 - Mười hai đoạn nhân duyên quấn chặt, Huyễn hóa trò mê hoặc cuốn lôi. Ái ân danh lợi làm mồi, Nhử câu phỉnh gạt bao hồi đảo điên. Xem thêm
3 - Lửa loạn tưởng não phiền bốc cháy, Toàn thân là bộ máy không hồn. Người đời chớ nói dạy khôn, Chẳng qua nghiệp chướng độc tôn hoành hành. 4 - Nhơn, Ngã tướng, Chúng sanh, Thọ giả, Chấp có “Ta” che cả Bản-lai. Mạng căn tự chúng an bài, Mất còn, vinh nhục, không ngoài thức tâm. 5 - Tâm bị động, gây lầm tác họa, Tâm mất quyền hậu quả chẳng khinh. Chớ trêu đổ vỡ bất bình, Loạn luân, trái đạo, nhơn tình bán mua. 6 - Tình mặn lạt trò đùa đổi chác, Túi khôn dường thùng rác chứa đầy. Trí tài ruồi bọ bu vây, Anh hùng sự nghiệp đông tây những gì ? 7 - Dầu rộng lớn chu vi được mấy ? Cũng nằm trong cạm bẫy vô minh. Nhả tơ tự trói lấy mình, Biết khôn phá kén tung hình bay ra. 8 - Đời tóm lại chính là giấc mộng, Khéo mỉa mai trào lộng phỉnh phờ. Có gì giả tạm mà mơ, Mênh mông biển khổ, bến bờ là đâu ? 9 - Chỗ giải thoát hồi đầu thức tỉnh, Dừng bước đời, tâm định thần an. Nội thân khí phách lai hoàn, Thăm dò tự tánh ẩn tàng nơi nao. 10 - Nó ngon giấc trải bao thế kỷ, Nên vô minh lý trí tung hoành. Nổi chìm liên tiếp tử sanh, Hãm trong hỏa ngục thiết thành nào hay. 11 - Mau đánh thức chuyển lay nó dậy, Vươn mình là bẻ gãy xiềng gông. Ào ào xô núi, lấp sông, Đoạn lìa nghiệp chướng như không, dễ dàng. 12 - Chỉ Địa-Ngục rã tan thành giá, Khiến quỷ ma cảm hóa như không. Mới hay Bác-Nhã thần công, Quên rằng nó Chủ nhơn ông của mình. 13 - Lâu nay mãi theo hình bắt bóng, Ngỡ tin trò ảo vọng làm tâm. Uổng công đi lạc bước lầm, Khát khao hạnh phúc, hỏi tầm được chưa ? 14 - Đâu ở ngoài, dầm mưa dãi nắng, Đâu có xa, lội lặn sông ngàn. Phật người mới ở Tây phang, Phật ta chính tại tâm can của mình. 15 - Chúng sanh vì vô minh lầm lạc, Quên chủ mình là Bác-Nhã tâm. Nghĩ sai, hành động sai lầm, Vạn pháp duy thức là mầm vô minh. 16 - Thức phóng ra thiên hình vạn trạng, Bày đủ trò, rồi gán đủ tên, Tinh thô, vi hiển, dưới trên, Sanh lòng ưa ghét, trở nên thân thù. 17 - Sáu cửa thức tiếp thu phân biệt, Tiếng, vị, mùi, bày liệt sắc hình. Niệm nhô, tư tưởng vọng sanh, Gây nên xáo trộn tâm tình ngây ngô. 18 - Ham muốn mà nhào vô chết sống, Lấp bao giờ lổ hổng cho đầy. Lòng tham ngày một lủng quầy, Voi càng cựa quậy, sình lầy lún thêm. 19 - Gốc vọng thức, ưng thèm mãi mãi, Được thì mừng, trái lại sân si; Cống cao, ngạo mạn, hoài nghi, Nới to Địa-Ngục Thiết-Vi nơi lòng. 20 - Trốn tránh đâu khỏi vòng thức giác, Quyền lực này to tát gớm ghê. Quản cai trời đất bốn bề, Ngoài tâm Bác-Nhã, nó hề sợ ai. 21 - Mau giải thoát triển khai Bác-Nhã, Mới đủ quyền cao cả vạn năng. Giặc lòng tự khắc chế ngăn, Hố sâu tội lỗi lấp bằng lại ngay. 22 - Bác-Nhã hiện, loạn xoay thành trị, Bác-Nhã khai, ma quỷ không còn. Hết lầm nhận giặc làm con, Việc chi chi cũng vuông tròn hanh thông. 23 - Trời, Đất, Người, huyền đồng một mối, Tinh khí thần thành khối kết thai. Mạng ta, ta tự an bài, Sanh đau già chết, vượt ngoài âm dương. 24 - Bác-Nhã là thần phương diệu pháp, Thường chiếu soi khắp giáp Ta-bà. Đất trời còn có ngày qua, Bồ-Đề tâm ấy một tòa cố kiên. 25 - Bác-Nhã ví con thuyền tế độ, Cứu vớt người biển khổ trầm luân. Ví như nguyên khí đầu xuân, Sanh sôi nẩy nở, thấm nhuần vạn linh. 26 - Ví hoàn thuốc hồi sinh cải tử, Ví không gian chứa trữ bao hàm. Địa bàn kim chỉ về Nam, Trước nay nhứt định không làm sao sai. 27 - Pháp nầy xưa Như-Lai chứng ngộ, Nối tiếp nhau chư Tổ đắc truyền. Hằng sa Bồ Tát, Thánh Hiền, Cũng đều nhập diệu đăng Tiên siêu phàm. 28 - Lão quán tâm, nhiếp Tam qui Nhứt, Nho tồn tâm, tiến đức tu nhân. Phục kỳ bản, phản kỳ chân, Trị tâm, trị thế, trị thân chẳng lầm. 29 - Khử dục vọng thì tâm tịnh lặng, Lòng trống không thần đặng khinh thanh. Khi mà niệm lự dứt sanh, An vui thông sướng tự thành, tự minh. 30 - Huyền diệu ấy do mình mình biết, Thấm đạo rồi, thâm thiết độ thân. Bỏ buông danh lợi hồng trần, Đoạn duyên giản sự để gần Phật Tiên. 31 - Hồi phục lại chơn nguyên khí chất, Tồn dưỡng sinh bịnh tật tiêu trừ. Quân bình bất túc, hữu dư, Tiết lao diệt dục, khuy hư bổ hàn. 32 - Khi nhận thấy thân an thể kiện, Vào mật đường, ngồi luyện khí công. Vệ dinh huyết dịch lưu thông, Tứ chi bách thể huyền đồng ôn nhu. 33 - Thần kinh hệ quân khu nhạy cảm, Thấy ngại ngăn tăng giảm khí cơ. Công phu phải lúc đúng giờ, Điều tâm, điều tức, cho thơ thới lòng. 34 - Muốn khỏi bị thần vong khí tán, Hư kỳ tâm hà hoạn phòng xa. Hư tâm, thần dữ khí hòa, Sen trồng trong lửa thật là bửu linh. 35 - Thân bất động, tinh tình điều tịch, Tinh dữ tình khắng khít nhứt gia. Ý đại định, hiệp ba nhà, Tam nguyên hỗn nhứt mới là đắc chơn. 36 - Tinh hóa khí do thân bất động, Khí hóa thần bởi trống lòng ưu. Ý thuần, thần mới huờn hư, Tam gia tương kiến, đảnh lư luyện hoàn. 37 - Hồn tại can, tinh tàng tại thận, Thần tại tâm, phách ẩn phế đường. Ý nơi tỳ thổ trung ương, Định ngôi an vị mỗi phương đành rành. 38 - Giữ quan ải thủ thành phòng giặc, Mũi miệng và tai mắt bốn phương. Sáu căn cửa đóng cho thường, Trối ngoài thinh, sắc, vị, hương, pháp trần. 39 - Lưỡi chay, tâm dữ thần nhất xứ, Mắt chay, can tồn trữ hồn linh. Tai chay, thận khố tàng tinh, Mũi chay, phách trữ lưu đình phế cung. 40 - Kim, mộc, thủy, hỏa chung về Thổ, Thanh tịnh rồi Tứ tổ qui gia. Mắt, tai, mũi, lưỡi vô tà, Tinh thần, hồn phách một nhà tụ đơn. 41 - Hành giả nên tiến hơn bước nữa, Được không không mới rửa sạch tâm. Chớ thiên, chớ chấp, chớ lầm, Hư hư, thiệt thiệt, diệu thâm vô cùng. 42 - Trí thức mở, tình lòng dấy động, Dục vọng sanh, mạng sống ngắn thêm. Tinh đầy, lậu tiết khó kềm, Thần mạnh lo giữ như kem giờ giờ. 43 - Luyện lọc thải tinh dơ huyết xấu, Vá đấp nơi tiết lậu hư hao. Rấp ngăn các lối ra vào, Giữ bền giới định, chấn rào quỷ ma. 44 - Chưa thanh tịnh phải gia công nữa, Rủi hư hao, sửa chữa bổ bồi. Riu riu giữ lửa đáy nồi, Cho tinh hóa khí, khí hồi hóa tinh. 45 - Khí sanh huyết, huyết sanh lại khí, Lẫn sanh nhau, thử bỉ có nhau. Thiếu trong, bổ mượn ngoài vào, Khảm dư chiết Khảm, điền hào trống Li. 46 - Hoàn lại đủ không khuy, không khuyết, Khí là hư mà huyết là đầy. Kiền khôn định vị từ đây, Âm dương tánh mạng, phần nầy truyền tâm. 47 - Còn nhiều pháp diệu thâm tự hiểu, Khi vào thiền nhập diệu liền thông. Hỏi lòng có Bác-Nhã ông ? Là thầy, là chủ, chánh tông chơn truyền. 48 - Tu chứng đạt Tam nguyên Nhứt thể, Phật ba thân, Thượng Đế ba ngôi. Tổng danh Bác-Nhã đây rồi, Trí tuệ, giải thoát và ngôi Niết-Bàn. 49 - Giải thoát làm nấc thang định huệ, Định càng nhiều thì huệ càng tăng. Ngày tu giải thoát càng hăng, Tam tâm lóng dịu, sáu căn lắng chìm. 50 - Niết-Bàn thể ngày thêm vắng lặng, Trí huệ tâm ngày đặng sáng soi. Nghiệp do vi tế đều lòi, Tảo thanh ma quỷ, giống nòi tiêu tan. 51 - Pháp thân là Niết-Bàn Vô-Cực, Ứng hóa thân Thái-Nhứt Ngọc-Kinh. Báo thân Hoàng-Cực bửu linh, Nguyên thần, Nguyên khí, Nguyên tinh đạo Trời./. Tham chiếu TN của Đức HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG (ngày 22/6, 26/6, 28/6, và 5/7/1972) Rút gọn
Vertical Divider
|
BNTĐ Ngày21 , tháng 11 năm Mậu Ngọ (201278)
BÁC NHÃ tại “ Không Môn”, THIỀN quán phá mê lầm. SƯ thừa ơn Thánh giáo, Giáng nhập thế tâm tôn. BÁC NHÃ TỊNH ĐƯỜNG là nơi chư thiên ân và đạo hữu đặt mình gội tâm phàm tục, hầu thánh hóa để cùng đồng nhứt với tự thể pháp giới linh không. Mỗi năm, đến mùa “ Đông chí” là ngày chư thiên ân đón nhận điển lành, nhịp nhàng cùng máy Tạo tấn nhứt dương, tái tạo cơ mầu. Xem thêm
Hôm nay BẦN TĂNG nhắc lại bao nhiêu Thánh dụ đã chỉ định cho Thánh Hội và chư thiên ân MINH LÝ chúng ta phải tư tư thiết thiết tâm niệm từng giờ, làm sao mỗi người, ai nấy trong chúng ta phát tâm tu học, chứng được quyền pháp sứ mạng nơi mình, để hoàn thành trọng trách hiển hiện thánh tâm, mới khỏi phụ hồng ân, mà lòng Trời Phật từ bi hằng lân mẫn trông vào chổ “ nhứt tâm” đương hành sứ mạng sau nầy. BẦN TĂNG không giờ phút nào chẳng lưu tâm đến chư đạo hữu, mong thấy một ngày ai nấy được tỏ ngộ; nên không quản khó khăn gì mà chẳng cùng chư thiên ân chỉ bày môn đạo “ Nhứt thừa mâu ni tịch tịnh”. Xét lại guồng máy thiên ân, cơ cấu Thánh Hội, còn lắm trục trặc, vì chỗ tâm địa chưa được triển khai, bồ đề tự tánh chưa phát, thì cũng khó tiếp trọn hồng ân. Chư thiên ân cũng thường học Thánh dụ quyền pháp sứ mạng đặc biệt của mình, là cốt làm cho hiển hiện Thánh tâm, để hoàn thành cơ cấu tổ chức guồng máy Chánh pháp, bằng đồng nhứt trật tự lưu thông đường hướng, không ngoài tôn chỉ mục đích qui về thấy Tánh. Chư thiên ân đã liên miên học tập Thánh pháp mà chưa thấy được Thánh tâm, cũng vì còn nặng chút tình đời. Nên tu có tu mà không nhập diệu. Nói đến Tâm là nói đến cội nguồn. Mà muốn trở lại cội nguồn thì phải thấy cho được Tâm. Tâm ấy như thế nào ? cũng đã học, đã tu. Nhưng chơn giả còn đang lẫn lộn, thì khác nào vàng lẫn với đồng. Không phân biệt rõ ràng thì suốt kiếp tu hành không sao chứng được. Mà hể phân biệt thì kẹt vào đối tượng, cũng khó thoát khỏi mê lầm. Hôm nay, BẦN TĂNG nói sơ cho chư thiên ân suy gẩm : “ TÂM và THỨC”. “ Tâm” thì như như bình đẳng, còn “ Thức” thì vọng đọng phân chia. Muốn kiếm Tâm, không thể rời khỏi Thức mà được. Mà khi đã vào trong biển Thức thì Thức lại làm cho loạn Tâm. Bây giờ phải làm sao đây ? Một khi vọng che Tâm thì toàn Tâm là Thức. Tình người ngăn cửa trí, toàn trí là tình. Bởi nói khi mắt bịnh thì ngàn hoa đốm rối loạn trong hư không; bịnh hết mắt vẫn còn, hoa đốm sạch thì hư không trong. Tình hết thì trí sáng, Thức chuyển thì Tâm hiện. Tóm lại, Tâm là tuyệt đối, ngoài sự đối đải. Người thấy được Tâm thì không bị tình Thức nhiểu loạn, không còn vướng mắc vào mọi sự mọi vật, mà sự vật nào cũng là Tâm. Nên Phật dạy : “ Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy Thức”. Thấy được Tâm, rõ được Thức, thì Thức là Tâm, mà Tâm là Thức; cảnh là Tâm, Tâm là cảnh. Không gì ngoài Tâm mà có, không gì có mà không phải Thức, mà Thức là hư vọng, là huyễn hóa, là không thực. Thấy được Chơn tướng của chư pháp thì danh tướng là như như. Như nói : Chơn thức là Như lai tạng tâm, Như lai tạng bất giác mà có ra hiện thức. Hiện thức là A-lại-da-thức. Trong hiện thức mới có phân biệt sự thức là bảy thức trước. Chơn thức ví như gương, phân biệt sự thức là sự vật hiện trong ánh sáng của gương, thì hiện thức hay phân biệt sự thức cũng là Tâm. Tâm ở trong Thức, Thức ở trong Tâm, thì tự tánh nguyên thanh tịnh không hề biến đổi, dầu luân chuyển trong biển Thức, sanh tử mà không hề sống chết. Vì vậy nói : “ Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy Thức” là nói : Tâm, Ý và Ý thức, là ba cái vọng thức, không phải Tâm, nhưng cũng do Tâm. Vì vậy mà diệt được cái tướng của Thức, nào phải diệt cái thể của Thức. Thể của Thức là Tâm. Bởi nên Tâm biến thành Thức mà người tự chấp lấy Thức làm Tâm mà quên Chơn Tâm, nên kẹt trong duyên vọng sự tướng. Bây giờ nói đơn giản là ai nấy đã tu “ KHÔNG MÔN BÁC NHÔ thì nên thấy sự vật là Tâm mình hiện ra. Đã Tâm mình hiện ra thì nó là mình, thì không nên phân biệt cân đo, lấy bỏ, ghét thương, nên hư. Nên hiểu được như thế thì Tâm mình vắng lặng : Danh tướng là Chơn như, Vọng tưỡng là Chánh trí, mới nói Phiền não là Bồ đề. Để làm chi ? Để cho chúng ta thấy nguyên Tâm là thanh tịnh, vì mê chỗ nguyên Tâm mà thành vọng Thức, mà vọng Thức thì hay phân biệt. Thức đã sanh ra các pháp, mà lại bám theo các pháp làm chỗ nương. Nên khuyên các hiền muốn nhập Chơn Không thì phải thấy Tánh ban đầu là “ Không”. Trở về chỗ Không là thấy được vạn pháp đều hư dối, lòng không chấp trước. Thôi, nói nhiều càng khó hiểu đạt ! Ráng lo trau sửa tâm tình. Đừng chấp có, chấp không, chấp thường, chấp đoạn. Đừng móng tâm thương ghét, được mất, thân sơ. Cứ điềm đạm thung dung. Mỗi lúc tình thức dấy lên thì mau mau chuyển nó trở về nơi vô tư bình đẳng. Cứ như vậy ngày nào giờ nào cũng quán sát, đề phòng mọi vọng đọng, đừng cho nghĩ trái với tự Tâm, xa nơi cội nguồn thanh tịnh. Lo làm sao lòng được bình thản, mắt cứ thấy, tai cứ nghe, miệng cứ nói, mũi cứ ngửi, không không để ý phân biệt, để ý chen vào mọi sự, trợ giúp cho sự sự thêm duyên gây tình mặn lạt. Đó là Tâm bình hạnh trực, đó là Tánh toàn viên.! KHAI SẮC cũng hiểu chỗ năm pháp, ba tự tánh đều ở trong Tâm ý và Ý thức. 5 pháp là : danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như. 3 tự tánh là : biến kế chấp, y tha khởi, viên thành thật. Mê thì Chơn như biến làm Danh, Tướng, Chánh trí biến làm Vọng tưởng. Ngộ thì Vọng tưởng chuyển thành Chánh trí; Danh Tướng trở hiện Chơn như. Ví như NGUYỄN VĂN THỌ là tánh biến kế lúc còn lăn lộn mê đắm trần đời. Khi hồi tâm vào đạo thì nên Thanh Quang là y tha khởi. Khi tu phát bồ đề, chứng nhập viên thành là Khai Tinh. Đó là một ví dụ. KHAI TINH, cũng như KHAI SẮC, KHAI TRỪNG không thể còn tên gì khác, không thể đổi thành Minh hay Tường được. Chữ Minh, chữ Tường, chữ Khai là chỗ đến cội nguồn của nó, thì Viên thành thật cũng vậy. Hôm nay nói chuyện dong dài, nhưng khổ một nỗi là muốn làm sao để hết bộ gan ruột của mình cho chư đệ muội hiểu thấu chỗ cội nguồn; thấy được cội nguồn là thấy được tất cả chỉ một Chơn tâm. Thấy được cội nguồn, thì thấy những cái gì cũng sai khác, chi li, sanh tâm mê vọng. Nhưng làm sao được bằng sự dục tốc nhứt thời ! Mà không được dục tốc nhứt thời thì sứ mạng bao giờ mới hoàn tất ! không nhứt thời chứng nhập thì sao gọi “ ĐẠI THỪA ĐỐN GIÁO KHÔNG MÔN” ! Nhưng không dễ một lời mà suốt vô thỉ vô chung. Không thể một gáo nước rửa sạch duyên nghiệp ba đời. Nhưng ở quyền tối linh, thì cũng có thể khảy móng tay đến nơi tịnh thổ.(1) BÀI 1- Khóa tu “ Đông chí” năm nay, Thiên ân, đạo hữu an bài tịnh tâm. Nhứt dương “ Đông chí” sinh mầm, Lòng tu toàn đạo có tầm rộng sâu. Ngày mai vừng nhựt ngang đầu, Ơn xanh rưới rót pháp mầu mừng vui! ............. Rút gọn
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |