LUẬN VỀ ĐỒNG ĐIỂM CỦA TAM GIÁOBA GIÁO ĐỀU THỜ NGÔI ĐỘC NHỨT
Mặc dầu cách xưng hô có khác nhau.
BA GIÁO ĐỀU CHỦ VỀ TÂM, TÁNH
Trong hiện tượng phải nhìn cho ra bổn thể. BA GIÁO ĐỀU CÓ LUẬN VỀ THIỆN ÁC & HỌA PHƯỚC TRẢ VAY
Xem thêm
A. BA GIÁO ĐỀU THỜ NGÔI ĐỘC NHỨT
Tuy mỗi giáo, luận điệu có khác nhau, mà ngoài danh từ ra, nếu chỉ xét về mặt nguyên lý, thì Tam giáo đồng thờ một căn bổn Độc nhứt và Phổ biến (Principe Unique et Universel), mà ở đây chúng tôi xin gọi tắt là Ngôi Độc Nhứt. I/ Phật giáo thờ Ngôi độc Nhứt này: gọi là Pháp hay Phật. Trước hết, xin chư đọc giả để ý: Chữ Pháp và chữ Phật nói đây, chẳng phải theo nghĩa thông thường, mà lấy nghĩa đệ nhứt, nghĩa tuyệt đối. Nghĩa nầy rất rộng lớn, bao trùm khắp cả kiền khôn thế giới, là căn bổn của toàn cõi vũ trụ bất sanh bất diệt, gồm cả vạn hữu nơi trong, chẳng có một sự vật nào mà lọt ra ngoài giới hạn của chữ Pháp hay là chữ Phật đó. Cuốn “Ấn độ Phật giáo sử lược” có nói rằng : “Giáo đồ của Đại thừa thuyết giáo thường phân ra ba phương diện là : phật, pháp, tăng như vầy : Phật và tăng là người tu, người chứng, còn pháp là cái bị tu, bị chứng. Nếu theo ý nghĩa người tu chứng và cái bị chứng mà luận thứ tự trước sau, thì nó không giống với Phật giáo hồi ban sơ. “Thứ tự ban sơ là Phật, Pháp, Tăng. Ý nói : Trước có Phật, kế Phật thuyết Pháp, rồi sau mới có Tăng là đệ tử nghe pháp. Cho nên theo thứ tự đó thì gọi ba báu của Phật giáo là Phật, Pháp, Tăng. “Nhưng phái Đại thừa nhận rằng : Kiến Pháp (thấy Pháp) mới là trọng yếu hơn. Cho nên trước kể chữ Pháp thông suốt ba đời. Người thừa Pháp nầy mà tu thành Chánh giác, gọi là Phật. Vậy chữ Pháp nầy không phải chữ pháp (kinh luật) của Phật nói ra mà thôi. Vì chữ Pháp nầy đặng mở rộng ý nghĩa, nên cũng gọi là Như thật Pháp, là Chơn như thật Tướng. Phật và Tăng tức là ở trong chữ Pháp đó mà ra. Cho nên nói: “Tiên Pháp nhi hậu Phật, Tăng”. Nghĩa là : Theo Đại thừa, thì trước có Pháp, rồi sau mới có Phật, Tăng”. Cuốn Thiền pháp yếu giải nói : « Sở vị Pháp giả, chư pháp chi tánh. Pháp binh giả vô sanh. Tánh thị vô sanh, tánh giả tất cảnh không. Thị tất cảnh không giả bất khả thuyết giả, thị hà dỉ cố ? « Dĩ ngữ thuyết pháp, pháp trung vô ngữ, ngữ trung vô pháp, ngữ tắc thị cô ngữ tướng, nhứt thiết ngữ ngôn phi ngữ ngôn tướng. Dĩ thị cố kinh thuyết : vô thị, vô thuyết, thị danh Phật pháp ». Nghĩa là : « Chỗ gọi Pháp đây nghĩa là Tánh của các pháp. Pháp tánh là tánh vô sanh. Cái tánh vô sanh rốt cuộc là không, chẳng có thể nói ra được, tại sao ? Lấy lời nói mà thuyết pháp, trong pháp không có lời nói, trong lời nói không có pháp. Lời nói không có tướng nói, hết thảy các lời nói không phải là ngữ ngôn tướng. Vì cớ đó mà kinh nói : Vô thị (không giải bày), vô thuyết (không nói ra), thì gọi là Phật pháp ». Chữ Pháp nầy có nghĩa là vũ trụ định luật, cũng gọi là pháp nhĩ thông thường hiểu là tự nhiên. Phật giáo ít dùng chữ “tự nhiên”, là bởi Phật bác chữ ấy trong kinh Lăng nghiêm, vì sợ người ta hiểu lầm theo nghĩa tự nhiên của ngoại đạo, nên thường dùng chữ Pháp nhĩ. - Vậy Pháp nhĩ là nghĩa gì ? - Phật học đại tự điển giải rằng : Chữ nầy đồng với chữ tự nhĩ, pháp nhiên, thiên nhiên, tự nhiên, nghĩa là không nhờ cậy ai bên ngoài giúp sức mà nên, cái pháp ấy tự nó vận dụng. Tỉ như lửa thì nóng, nước thì ướt vậy. Bộ “Tông viên ký”, cuốn thứ tư , nói : “Pháp nhĩ nghĩa là : Nhĩ là như vậy đó. Ý nói : Chẳng phải do ai cấu tạo, cái pháp ấy tự nó hiện ra như vậy đó, giống như tự nhiên”. Phật nói : “Một niệm qui y, thì chư phật, Bồ tát, đồng thời hộ niệm, khiến cho trừ họa đặng phước “. Phải hiểu lời nầy như vầy : Người hay làm lành, thì mảy hào chẳng bao giờ sai chạy, luật tự nhiên tất phải lấy lành mà đáp lại cho người ấy. Phật nói đây là ngụ ngôn của chữ Pháp. Cũng cuốn “Ấn độ Phật giáo sử lược” nói rằng : “Do quán Như thật Pháp mà người thành đạo làm Phật, là nói về quả vị. Còn vị bồ tát khởi tu là nói về nhân địa. Tuy nhân quả có khác nhau, mà đều phải có người tu chứng”. - Nghĩa chữ Phật ra làm sao ? “Cái quan niệm về Phật đà, ban sơ vốn chỉ là bực đạo sư cõi Người, cõi Trời, tức là chỉ người của Đức Thế Tôn Thích ca. (Phật theo nghĩa nầy gọi là ứng thân, nghĩa là : cũng có thân thể bằng xương thịt như chúng ta vậy). Sau lại định nghĩa là : “Nhứt thiết chư phật, có tướng hảo quang minh, gồm đủ đại dụng tế thế độ sanh”. Theo nghĩa nầy, thì Phật chẳng phải đời nầy lìa phiền não, vào Niết bàn mà thôi, lại về đời quá khứ, kiếp nầy sang kiếp nọ, đã có tu nhân lành rất nhiều rồi. Bởi cớ, kết quả ngày nay là cái công dụng rất lớn đặng thành Đạo lợi sanh. Cuốn “Bổn sanh đàm” (Jâtaka) chuyên thuật các tiền sanh của Phật, đã làm nhiều việc “khổ hạnh nan hành”, để cho người ta tin chắc cái nghĩa nói trên. Đại thừa lại còn giải thích phật thân tiến lên một bực nữa, như sau nầy : “Nếu Phật có đủ vô lượng tướng hảo diệu sắc, bi trí viên mãn, làm lợi ích cho chúng sanh luôn luôn, mới là chơn Phật, thì gọi là Báo thân, hoặc Tha dụng thân. Lại Báo thân là bực thiệt hiện cái Pháp nói trên đó nên cũng có pháp thân. Hoặc nói : Phật tức là Pháp thiệt hiện. Thấy Phật cũng như thấy Pháp, thấy Pháp cũng như thấy Phật vậy. Pháp và Phật hai chữ đã đồng một quan niệm [1]. Còn thân có nghĩa là tích tụ mà thành. Bởi có các pháp tích tụ (hiệp chung lại) nên gọi là Pháp thân [2]. “Vậy thì theo Đại thừa, Phật có đủ ba thân : ứng thân, báo thân, pháp thân. Thế là cái tư tưởng về phật thân đối với Phật giáo hồi ban sơ có phần tiến bộ hơn nhiều”. Cái pháp thân nói sau đây có phải là cái thân đệ nhứt của ngôi Độc nhứt tối cao, tối thượng, bao gồm hết các pháp, trải khắp không gian và thời gian chăng? [3] Vua Trần thái Tông là vua nước Việt Nam đời Trần (1225-1258). Ngài hiểu rõ đạo Phật một cách thấu đáo, có soạn ra bộ sách “Khóa hư”, giảng về nghĩa hư không, khuyến hóa tu hành theo Phật giáo và cuốn “Thiền tông chỉ nam” giải bày đạo lý tu thiền. Trong bài Bạt hậu sách Khóa hư , nhà vua có nói : “Khi nói, khi lặng, khi động, khi tịnh, đều là pháp Phật. “Khi ăn, khi uống, khi ngủ, khi thức, đều là pháp Phật. “Khi đi đại tiện, khi đi tiểu tiện, đều là pháp Phật”. Lời giải: Nghĩa chữ Phật ở đây, tức là chỉ ông Trời, đấng Tạo hóa, hay là Lẽ tự nhiên của vũ trụ. Người ta với vũ trụ đều do ở một cái Lẽ tự nhiên tổng quát tạo thành ra, hay là, ai có ý tôn kính, thì gọi là đấng Tạo hóa gầy dựng muôn loài. Cuốn “Phật học dị giải” của ông Gia phong Trăng có giải chữ Phật như thế nầy:”Chữ Phật nói đây chẳng ra ngoài Chơn lý của vũ trụ . . . Cây liểu xanh, đóa hoa hường, con quạ ré, se sẻ kêu, vốn ban sơ cũng đồng một trạng thái, chẳng có tí gì sai biệt. Cái trạng thái đó tức là Phật vậy.” Chữ Phật nói đây đồng nghĩa với Lẽ tự nhiên nói trên. Cận đại, ông D.T.Suzuki, giáo sư Thiền tông ở Kyoto (Nhựt bổn), viết ra cuốn “Essais sur le Bouddhisme Zen”(nghĩa là: Thử viết về Phật giáo Thiền Tông), có nói rằng : “Phật tánh và Pháp tánh là danh từ của người phái Đại thừa gán cho cái chi không phải là bản ngã, nhưng cũng ở trong bản ngã. Nhờ cái tư tưởng nầy, người phái Đại thừa mới đi tới chỗ ý thức tội lỗi và đồng thời có thể giác ngộ. “Phật tánh là bổn thể của quả Phật. Nếu không có nó, thì người tu không thế nào chứng quả Phật ở thế gian nầy. Vị Phật, mà hiểu một cách khác quan, hay là siêu nhơn cách, thì gọi là Pháp, tức là Luật, Lý, Thật tại vậy. Còn pháp tánh là cốt cán, là rường cột của Pháp. “Phật tánh và Pháp tánh (gọi đủ chữ là Pháp giái tánh) là hai danh từ có thể dùng lẫn nhau, mà người theo Đại thừa là giải cách chứng nghiệm tu hành bằng chữ Phật tánh thường hơn [4] ”. Theo thuyết Phật tánh nói đây, thì Phật “lịch sử” trở nên vị Phật “siêu phàm”, không phải còn là đức Thích Ca Mâu Ni trơn nữa (nghĩa là luận theo cá nhơn phàm tiểu). Từ đây, Ngài là một thị hiện của đức Phật bất diệt, một kiếp ứng thân của Phật tánh vậy. Như thế Ngài không phải còn là một cá tánh bị hạn chế trong không gian và thời gian; phần tinh thần của Ngài tràn đầy ra ngoài thân thể và các quyền năng của Ngài đã tu chứng có ảnh hưởng đến các bạn đồng môn đương phát triển và tiến tu về quả Phật [5] . Ông Bác sĩ Isnard trong xứ ta, vào thời kỳ Pháp thuộc, mà ai ai cũng biết, có viết nhiều sách thuộc về Phật giáo, nói rằng : “Nếu ai tưởng rằng Phật giáo không có cái đệ nhứt Nguyên lý, không có đấng Chí tôn chủ tể thì là không đúng ! Cõi Niết bàn của Phật giáo giống hệt như ngôi Phạm (Brahman, hay là Chơn lý tuyệt đối) của đạo Phệ-đà [6] ”. Nhưng luôn luôn ta phải nhớ rằng vị Chí tôn chủ tể hay là Thượng đế nói đây không có hình có tướng. Nếu hiểu Thượng đế là Chơn lý có hình có tướng là sai. Cho nên Thiền tông là phái hẳn thiệt vô thần, không có Trời, nếu người ta cho rằng Thượng đế là Chơn lý có thể hiểu bằng ý thức. Đây là ý ông muốn chỉ chữ Phật là bổn thể của vũ trụ. Tùy theo phương diện, người ta gọi hoặc Pháp, hoặc Phật. Phật tỉ như vị tổng thống là hồn nước, còn Pháp sánh như một quốc gia là đất nước. Tuy là ta thấy hai bên có khác nhau, kỳ thiệt hai bên đó chỉ là hai phương diện của một đơn vị, một thiệt thể mà thôi. Vì Tổng Thống thay mặt cho quốc gia, cho nên lấy lý mà xét, thì Tổng thống và quốc gia chỉ là một mà thôi. II/ Tiên giáo thờ Ngôi độc Nhứt này gọi là Đạo hay Đức. Đức Lão Tử là tổ của Đạo giáo, có trứ tác nhiều bộ kinh, mà bộ kinh đặng thiên hạ chú ý nhiều nhứt là Đạo Đức kinh. Tuy bộ kinh nầy có 81 chương, mà phần cốt yếu của nó nhốt hết trong chương thứ nhứt, mà tôi xin trọn dẫn ra sau nầy : Đức Lão tử nói : “Cái Đạo, mà nói ra được, là không phải cái Đạo hằng còn (bất diệt). Cái Tên mà kêu gọi được, là không phải cái Tên hằng còn (bất diệt). “Đương lúc không tên, (Đạo) là nguồn đầu (chỗ khởi thỉ phát sanh) của trời đất. (Đạo vốn vô hình, tức là Bổn thể, thì làm sao có tên được ?). Đến khi có tên, (Đạo) là mẹ sanh của muôn vật. (Sau Đạo biểu lộ ra tức là Đức, tức là sự sáng suốt, tánh thiện tuyệt đối của Đạo chớ không phải ngoài Đạo ra, lại riêng có Đức, hai bên đối lập cùng nhau). “Cho nên lòng thường không có thị dục (trống không, thanh tịnh), thì xét thấy chỗ vi diệu của Đạo. Còn lòng thường có thị dục (bị dục xúc động), thì chỉ xét thấy phần hình thức của Đạo mà thôi. “Hai loại nầy đồng một gốc mà ra, nhưng lấy tên khác nhau, đồng gọi là huyền, cái huyền trong cái huyền (nghĩa là tột huyền diệu), là cái cửa của các pháp vi diệu (nghĩa là: cái cửa ra vào của muôn vật)”. - Chữ Đạo nói đây nghĩa là gì ? - Vì cuốn kinh của đức Lão tử trứ tác rất cao kỳ, ra ngoài sự hiểu biết của năm giác quan, của ý thức con người. Ngài không thể dùng nghĩa thông thường của thế gian mà giải rõ được, nên bắt buộc Ngài phải dùng hình dáng một chữ để làm tượng trưng. Muốn chỉ ra cái Nguyên lý Độc Nhứt đời đời bất diệt và khó biết được kia là gốc của muôn vật, Ngài mới lựa một chữ mà theo Nguyên ngữ học, có thể dùng để đặt tên cho cái Nguyên lý đó. Chương XXV của bộ Đạo Đức kinh có nói : “Không biết tên của nó là gì, ta cưỡng đặt là Đạo”. - Chữ Đạo thông thường người ta dùng theo nghĩa : con đường lộ, lẽ phải, giáo lý. Còn đây lấy nghĩa nào ? - Nghĩa của đức Lão tử dùng đây là một nghĩa mới mẻ. Như trên Ngài đã nói: Ta cưỡng đặt tên là Đạo, thì đủ biết nghĩa của nó không giống với các nghĩa kể trên. Cứ theo hình dáng mà xét, chữ Đạo gồm cả hai chữ bộ: “thủ” (首) nghĩa là đầu tiên, khởi đoan, và chữ “xước” ( 辶), nghĩa là vận hành, chủ động. Lấy nghĩa đen, chữ Đạo có nghĩa là : Cơ vận động đầu tiên. Theo nghĩa rộng, chữ Đạo có nghĩa là : Nguyên lý đầu tiên, là Nguyên nhân của các nhân, là Lý tuyệt đối, vô hình, cao cả, là nguồn đầu của trời đất (vô danh, thiên địa chi thỉ). Không có Đạo thì chẳng có chi tồn tại được, nên Đạo là gốc của sự sống tiềm tàng ở trong mọi loài. Cái phần của Đạo phát biểu ra ngoài, bởi có sức bồng bột, vô cùng mãnh liệt bên trong, thì đức Lão tử gọi là Đức (La Vertu). Cái nghĩa thường của chữ đức là: đức hạnh, đức tánh, là nhân nghĩa (les vertus). Đạo Đức kinh gọi chữ Đức (La Vertu) là thượng đức, còn chữ đức (les vertus) là hạ đức, vì nó đã chia ra nhiều mối, mất vẻ hồn nhiên. Cho nên mới nói : “Thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa”. Nghĩa là : “Mất thượng Đức rồi mới có nhân ; mất nhân rồi mới có nghĩa”. Đạo Đức kinh, chương thứ 21, nói: “Cái sức đựng chứa của Đức lớn (trống như hư không), chỉ theo lượng của Đạo (Đạo lớn bao nhiêu thì cái sức đựng chứa bao trùm muôn vật của Đức cũng lớn bấy nhiêu)” [7] . Đạo Đức kinh, chương 51, nói : “Cho nên Đạo sanh nó (nó đây có nghĩa là muôn vật), Đức nuôi nó, làm cho nó lớn, làm cho nó sống, nên hình, chính chắn, tư bổ, chở che nó. Tự mình sanh ra mà không giành làm của riêng mình, tạo nên mà không cậy nhờ vào đó, giúp cho nó lớn mà không làm chủ nó. Đó là huyền Đức (Đức sâu rộng)” [8]. Theo ý đức Lão tử, Đạo chỉ là bổn thể sanh ra muôn vật, còn sự hóa dục và các việc khác đều là công việc của Đức cả. Đức nầy không phải là một vật cụ thể, có hình dáng rõ rệt, có thể dùng giác quan và ý thức mà tìm thấy được. Nó là mạng mạch, là động lực vô hình duy trì sự tồn tại của muôn vật trên cõi vũ trụ. Ông Glasenapp cho chữ Brahma và chữ Đạo đồng có một nghĩa : Ông nói : Brahma cũng như Đao phủ nhận đời sống hiện tượng và như thế, thì nghĩa như hư không. Trái lại, đó là nguyên nhân thứ nhứt của muôn vật tồn tại trên đời, và như thế, thì không phải là hư không, mà là một cái thể siêu việt [9]. Ông Pierre Salet là người phiên dịch bộ Đạo Đức kinh, hiểu rõ ý của Ngài Lão tử, nên trong bài tựa của ông, có nói rằng : “Cái công bình và bất công, cái tốt và cái xấu là những hiện tượng của kẻ phàm phu, không có giá trị chi về phương diện tuyệt đối. Mà, ngoài hiện tượng ấy, có cái Đạo bất sanh bất diệt, là nơi các hiền thánh có thể tìm được chơn lý và chí lạc. Cái đức chơn thiệt, gọi là Đức, trái với các hiện tượng nói trên, là một thứ tinh thần phát xuất, một sức thị hiện của Đạo trong mọi chúng sanh , tỉ như cái cầu để nối dính họ lại với Trời (Đạo)” [10] . Theo cái nghĩa mới mẻ nói đây, chữ Đức chẳng phải rút hẹp, mà còn thêm mở rộng lớn, hơn nữa là có ý nghĩa mầu nhiệm, thánh thần, là mẹ sanh của muôn vật (hữu danh, vạn vật chi mẫu). Vì chữ Đức nầy là Đức của Đạo. Như trên đức Lão tử đã nói : Hễ Đạo lớn bao nhiêu, thì theo đó Đức cũng lớn bấy nhiêu, không có chi so sánh kịp, không có chi lọt ra ngoài. Bởi các lý do đó mà Ngài gọi bộ kinh của Ngài là Đạo Đức kinh. Bộ kinh nầy ghi đủ hai nghĩa của chữ Đạo và chữ Đức, rất là đơn giản. Nghĩa đơn giản nầy cũng như nghĩa chữ “giản dị” trong bộ kinh Dịch [11]. Theo Luật tự nhiên của Tạo hóa, chi chi cũng bắt đầu từ chỗ giản dị đó mà sanh ra. Tỉ như một thân cây lớn, nhánh lá rườm rà, trước chỉ là một hột giống cỏn con. Cho nên con người muốn hiểu được chỗ giản dị đó, thì cũng phải tập tánh vong kỷ, dẹp hết tham dục trong lòng, mới mong có chỗ trống không mà tiếp đón hai chữ Đạo Đức vào lòng. Cái phương pháp tìm hiểu Chơn lý nầy, phải nhờ có sức trực giác thiêng liêng, không giống với các phương pháp tìm tòi sự thật bằng giác quan và ý thức của kẻ thế gian. Thế thì hai chữ Đạo Đức của đức Lão tử, đối với nghĩa thường dùng, có phần tốt đẹp, cao siêu, huyền bí hơn. Ông Bác sĩ L.Wiger, một nhà tu Công giáo, là người phiên dịch cuốn Đạo Đức kinh ra chữ Pháp, hiểu nghĩa hai chữ Đạo, Đức như thế nầy. Trong bài tự ngôn, ông nói : “Một nguyên lý đầu tiên và độc nhứt, ban sơ nó tập trung và đại tinh, tự mình phát xuất, sanh hóa. “Khi cái nguyên lý ấy bất động thì gọi Là Đạo, còn khi cái nguyên lý ấy hoạt động thì gọi là Đức ” [12]. Kẻ thế gian đọc sách Ngài mà chẳng rõ ý tứ của Ngài, lại cho Ngài dùng nghĩa khác thường, rắc rối khó hiểu, là có ý để lòe người ta mà thôi. Thật là một sự hiểu lầm rất đáng tiếc ! Đây chúng tôi xin nói rõ : Đạo là bổn thể, là gốc sanh, tỉ như ngọn lửa đèn ; còn Đức là vô lượng công dụng của Đạo, tỉ như ánh sáng của lửa đèn. Lửa đèn và ánh sáng đều thuộc về cái đèn, thì Đạo và Đức cũng chỉ là hai phương diện của Ngôi Độc Nhứt. III/ Thánh giáo thờ Ngôi độc Nhứt này, gọi là Thiên hay Thượng đế. Trong kinh Thơ và kinh Thi, người Trung Hoa đời cổ thường dùng chữ Thiên hay là Thượng đế mà xưng tụng ngôi Chúa tể kiền khôn thế giới. Như chương Thuấn điển trong kinh Thơ, có câu: “Phiền sài, dĩ cáo Thiên dã. Cáo chi dã, cáo kỷ thọ Nghiêu chi thiền, hành thiên tử chi sự”. Nghĩa là: Vua Thuấn đốt củi để tâu cáo lên Trời rằng : Ngài đã nhận lãnh ngôi báu của vua Nghiêu nhường lại và vâng chịu trách nhiệm thiên tử trị dân từ đây. Cũng trong chương Thuấn điển, có câu : “Tứ loại vu Thượng đế ”, nghĩa là: Bày lễ đặc biệt để cúng Thượng đế. Lời giải thích: “Thượng đế, thiên dã, chí tôn, vô đối”, nghĩa là : Chúa cõi trên, tức là Trời, tột bực cao tôn, chẳng có ngôi thứ hai (vô song). Lại nói thêm rõ rằng : “Tự hình thể nhi ngôn chi, tắc vị chi Thiên, tự chủ tể nhi ngôn chi, tắc vị chi Đế. Kỳ thật nhứt dã ”. Nghĩa là : Nếu nói về mặt hình dáng thì gọi là Thiên (Trời). Nếu nói về ngôi chủ tể thì gọi Đế (Vua). Kỳ thiệt, Thiên hay Thượng đế chỉ là Một. Sách Tánh lý cũng có nói : “Thi Thơ trung phẩm hữu cá chủ tể ý tứ giả giai ngôn đế, hữu cá bao hàm biến phú ý tứ, tắc giai ngôn thiên”. Nghĩa là : “Trong kinh Thi , kinh Thơ phàm có cái ý tứ chủ tể thì đều dùng chữ đế, còn có cái ý tứ bao hàm trải khắp thì đều dùng chữ thiên (Trời)”. Người Trung Hoa trước thờ Thượng Đế, sau lại còn thờ thêm Ngũ đế. Ông Quí Khương Tử có hỏi đức Khổng Tử về Ngũ đế, thì Ngài trả lời rằng : “Thiên hữu ngũ hành : Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, phân thời hóa dục dĩ thành vạn vật, kỳ thần vị chi Ngũ đế ”. Nghĩa là : Trời có ngũ hành, là Nước, lửa, cây, loại kim và đất, tùy theo mùa tiết mà hóa sanh muôn vật. Mỗi hành có một thần, vì có năm thần nên gọi chung là Ngũ đế. Tuy đây nói Ngũ đế sanh hóa, kỳ thiệt cũng là Thượng đế mà thôi, vì Ngũ đế đều do Thượng đế sanh hóa ra. Cho nên nói : Trên Trời có ngũ hành hay sanh hóa muôn vật thì được. Mà nói : Ngũ hành giúp Trời sanh vật, thì thành chia Trời và Ngũ hành ra làm hai. Ngũ hành đối với Trời chỉ như hai tay hai chơn trong thân thể con người, tuy là thấy tứ chi khác nhau, mà cũng cùng chung một hình vóc đó thôi. Những học giả bên Trung hoa bàn cải về vấn đề từ đời Châu cho tới đời Tống, mới là dứt khoát, từ đây mới là không còn thờ Ngũ đế nữa. Về vấn đề thờ Trời, tôi xin biên tóm tắt một ít tư tưởng của đức Khổng tử, là vị giáo chủ của Nho giáo, như sau nầy : Trung dung nói: “Giao xã chi lễ, sở dĩ sự Thượng đế dã ”. Nghĩa là: Lễ tế Trời Đất là để thờ Thượng Đế. Kinh Lễ, trong bài Tăng tử hỏi, có nói : “Giao xã tôn vô nhị thượng”, nghĩa là: Lễ tế Trời đất, tức là Thượng đế cao cả hơn hết, chớ không có ngôi thứ hai nữa. Đây là nói về lễ tế Trời. Luận ngữ nói: “Quân tử úy Thiên mạng ”, nghĩa là: Người quân tử sợ mạng lịnh của Trời. Trung dung nói: “Tự tri nhơn, bất khả dĩ bất tri Thiên ”, nghĩa là: Kẻ nào đã biết con người (vì con người là tiểu thiên địa), thì chẳng thể nào không biết Trời. Đây là nói về sự hiểu biết Trời. Trung dung nói : “Thiên chi sanh vật, tất nhân kỳ tài nhi đốc diên ; cố tài giả bồi chi, khuynh giả phúc chi ”. Nghĩa là : Trời sanh người và vật, do cái tài đức của mỗi người, mỗi vật, mà giúp sức họ. Kẻ nào đứng vững thì Trời vun quén thêm cho, còn kẻ nào ngã xiêu thì Trời lật đổ tuốt. Kinh Lễ, trong bài Ai Công hỏi, có nói: “Vô vi nhi vật thành, thị Thiên đạo dã”. Nghĩa là : Không thấy hoạt động gì mà muôn vật sanh thành, đó là Đạo của Trời vậy. Luận ngữ nói : “Thiên hà ngôn tai !Tứ thời hành diên, bách vật sanh diên. Thiên hà ngôn tai !”, nghĩa là : Trời nào có nói chi! Mà bốn mùa vận xây, muôn vật sanh hóa. Trời nào có nói chi ! Đây là nói về sanh hóa của Trời. Theo như mấy lời dẫn trên, thì tư tưởng của đức Khổng tử về Thiên và Thượng đế, cũng y như người Trung Hoa thuở xưa kia. Cho nên Ngài nói : Ta không có sáng tác cái chi mới, ta chỉ tập đại thành (lập thành có thống hệ) những tư tưởng của các đấng Tiên vương mà thôi. Vậy Tam giáo có phải là đồng thờ một Ngôi Độc nhứt chăng ? Tuy danh từ xưng tụng có khác, mà ý nghĩa Ngôi Độc nhứt không khác. Thích giáo nói: “Vạn pháp qui Nhứt ”. Đạo giáo nói: “Bảo nguơn thủ Nhứt ”. Nho giáo nói: “Chấp trung quán Nhứt”. Mỗi giáo đều có khuynh hướng về với Ngôi Nhứt, tức là một danh từ tĩnh bút của Ngôi Độc nhứt và phổ biến. Như trên đã giải : đó là nguyên lý luôn luôn chỉ ngôi Tạo hóa người vật, chủ tễ vũ trụ tối cao, tối thượng, bất sanh bất diệt, mà ai ai cũng phải tôn kính và phục vụ. B. BA GIÁO ĐỀU CHỦ VỀ TÂM, TÁNH Về mặt giáo lý, tuy mỗi giáo luận điệu có khác nhau, cao thấp bất đồng, nhưng không phải là trái nghịch hẳn nhau. Có nhiều điểm có thể dung hòa nhau, là bởi chỗ chủ trương của ba giáo đồng là trau tâm sửa tánh. § Thánh giáo nói: Tồn tâm dưỡng tánh, hay là Cùng lý tận tánh. § Tiên giáo nói: Tu tâm luyện tánh. § Phật giáo nói : Minh tâm kiến tánh. I/ Tồn tâm dưỡng tánh. Thánh giáo tuy chủ về luân lý, luận về đạo làm người, dạy tam đức, ngũ luân, tam cang, ngũ thường. Nhưng Thánh giáo chẳng phải là không nói đến chỗ cao siêu huyền bí về tâm tánh của con người. Đức Khổng tử nói : “Dư dục vô ngôn ”, nghĩa là : Ta muốn không nói. Kỳ thiệt, ý Ngài chẳng phải là không muốn nói, nhưng Ngài khó tả cái trạng thái của Đạo, là phần siêu hình. Ngài có nói ra được chăng, chỉ là nói về phần công dụng, tức là cái kết quả do giác quan thấy, rờ được mà thôi. Bằng chứng là thầy Tử Cống nói : “Phu tử chi văn chương khả đắc nhi văn dã. Phu tử chi ngôn Tánh dữ Thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã ”, nghĩa là : Đức Phu tử nói về văn chương còn có thể nghe được, chớ nói về Tánh và Thiên đạo thì không thể nào nghe (hiểu). Câu này chỉ rõ đức Khổng tử luận rộng về việc đời theo luân lý, còn ít dạy về Tánh và Thiên đạo (tức là Hình nhi thượng học). Ngài chỉ nói Tánh và Thiên đạo với các học trò cao đệ, chớ đối với hạng học trò khác, từ trung đẳng sắp xuống, dẫu Ngài có nói ra đi nữa, thì họ cũng không đủ sức hiểu giáo lý của Ngài nổi. Cho nên phần đông học giả chỉ rõ Hình nhi hạ học mà thôi (thuộc về thực tế). Lại có một câu nữa trong sách Trung dung như vầy [13] : “Thành (sẳn có trong lòng) là Đạo Trời ; (nếu mất cái lòng Thành sẳn có đó), nay làm cho cái Thành đó trở lại (trí khúc) là đạo người. Thành (sẳn có trong lòng) thì không cố gắng mà nhằm, không suy nghĩ mà đặng, một mực thung dung mà trúng Đạo, đó là bậc Thánh nhơn. Còn làm cho Thành trở lại, thì phải chọn điều lành, mà nắm giữ nó cho chắc, đó là bực Hiền nhơn (phải học hỏi)”. Chữ Thành có nghĩa là : Chơn thật vô vọng, là tánh bổn nhiên Thiên lý, cũng gọi là Lương tri, là Lý tánh, v.v. . . Đủ thấy Nho giáo cũng có phần cao siêu, nhưng ít người đặng biết, sau nầy tới đời Tống, đời Minh, mới có nhiều bậc học giả cao đệ phát huy những chỗ vi ngôn ẩn ý của Thánh nhơn xưa – đó là phần học về Tâm truyền – mới thấy sách truyền bá rộng rãi trong nhơn gian về Hình nhi thượng học. Nho giáo lấy tồn tâm, dưỡng tánh làm chánh mục đích. Thầy Mạnh Tử có nói trong chương Tận tâm Thượng rằng : “Tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tánh, sở dĩ sự Thiên dã”, nghĩa là : “Kẻ học giả hay gìn giữ cái tâm mình (cho minh mẩn), thường nuôi cái tánh mình (cho hoàn toàn), là để thờ Trời vậy ”. Lại giải chữ Tồn tâm là: “Cầu kỳ phóng tâm nhi dĩ hỉ ”, nghĩa là: “Kềm giữ cái tâm mình, đừng để nó phóng túng buông lung, làm các việc bất chánh ”. Có tồn tâm như thế, thì mới nuôi được cái tánh bổn nhiên Thiên lý, cái Lương tri, cái Lý tánh nói trên. Sách Trung dung nói: “Suất tánh chi vị Đạo”, nghĩa là : Noi theo cái tánh đó mà cư xử với đời, mới phải là Đạo vậy. Nho giáo cũng có nói: “Cùng lý tận tánh”, nghĩa là : Phải học hết cái lý ở trong tâm (tâm tức lý), thì mới trọn rõ bổn tánh, mới thiệt hiện bổn tánh được. II/ Tu tâm luyện tánh. Tiên giáo chủ về tâm tánh nhiều hơn, tuy cũng có luận đến việc đời, mà chỉ nói về phần đại khái mà thôi, như các kinh Âm chất, Giác thế, Công quá cách, v.v. . . Lão giáo cho rằng chi chi cũng ở trong gốc Đạo mà ra, thì chỉ có Đạo là chơn thiệt, bền bĩ, đáng tôn quí mà thôi. Còn mọi việc ở đời đều là phù ba, bóng dáng, thấy đó rồi liền mất đó. Cho nên người theo đạo nầy cố giữ thanh tịnh, vô vi để giữ gốc Đạo, chớ không thiết gì với việc đời. Các việc nầy chỉ có gây khổ cho chúng sanh mà thôi. Đạo Tiên lấy “Tu tâm luyện tánh” làm chánh mục đích. Chữ tu nghĩa là : Trau giồi việc xấu cho ra tốt, dữ cho ra lành. Chữ luyện nghĩa là : Đốt rèn bằng lửa, như thợ rèn trui thép cho mềm trở nên cứng, lụt trở nên bén vậy. - Đây là đốt rèn bằng lửa, là nghĩa làm sao ? - Lửa nầy chẳng phải lửa thường đâu ! Lửa nầy là lửa của Nguơn thần, là lửa Tam muội trong tâm người, nhờ Chánh định mà hiện xuất, gọi là Lửa Tạo hóa (Feu Crateur). Trong khoảng trời đất nầy, không có chi là chẳng do nó sanh. Sanh rồi, nó luôn luôn tồn tại ở trong mọi người vật, mà gìn giữ sự sống còn. Hễ nó đi rồi, thì sự sanh sống trong người vật chắc chắn là phải tuyệt hẳn. Cho nên kinh xưa mới có câu : “Hỏa lý tài liên”, nghĩa là trồng sen trong lửa. Đủ thấy lửa thường thì đốt tiêu mọi vật, còn lửa sống nói đây lại nuôi dưỡng muôn vật. Nếu con người chỉ biết tu tâm, theo luân lý thì cái tâm tốt về mặt nầy, nhưng lại sanh xấu về mặt khác. Làm sao có tuyệt hẳn sự xấu được ? Ngoài phép luyện nói đây, thì không có phương pháp nào khác hay hơn nữa. Luyện tánh là đốt hết các thứ xấu xa bên ngoài, để rèn cái chơn tánh cho cứng chắc, cho nó đời đời không còn thay hình đổi dạng, nghĩa là : không còn dời dạc, luân hồi lên xuống nữa. Tỉ như ta đốt cây thành ra than, thì đời đời nó cũng không còn đâm chồi nhảy nhánh nữa. Trong cuốn “Le Feu Créateur ”, ông Van der Lewn có nói : “Nhờ thứ lửa Tạo hóa của Trời ở trong mình ta, nó đốt và đuổi các trần cấu trong bổn tánh ta và giúp ta đổi cái xấu ra tốt, để lần lần lên trên các từng bậc càng ngày càng cao, cho đến chừng nào chỉ còn vàng ròng của Tánh linh mà thôi. [14] Các Kinh Tiên gia như Đạo Đức, Huỳnh Đình, Thanh Tịnh, nói luyện Kim đơn, tức là luyện bổn tánh của mình đó. Nhưng tiếc vì đạo Kim đơn (Alchimie divine) ít truyền cho thế gian, và lại lời dạy rất kín đáo, nên người thế hiểu theo ý kiến phàm phu, cho Kim đơn là thuốc có pha vàng, để phục thực (uống vào) mà cầu trường sanh (sống lâu). Xin xem qua hai bài thơ sau nầy, thì rõ Kim đơn là bổn tánh, chớ không chi khác lạ: Bài thơ chữ Hán Tiên thiên bổn tánh thị Kim đan [15] Bát quái lư trung luyện tác hoàn ; Cử thế mê đồ tầm ngoại dược, Thân xan, vọng tưởng thượng vân đoan. Dịch ra tiếng Việt: Bổn tánh tiên thiên ấy gọi đơn, Trong lò bát quái luyện thành huờn. Người mê tìm thuốc ngoài thân thể, Uống được, trên mây tưởng để chơn. Lại một bài khác : Bổn lai Chơn tánh hiệu Kim đan, Tứ đại vi lư, luyện tác đoàn. Ngộ chi giả, lập tề thánh vức, Mê chi giả, vạn kiếp trầm luân. Dịch: Bổn lai Chơn tánh hiệu Kim đơn, Tứ đại làm lò, luyện hiệp huờn. Kẻ hiểu là người về thánh vức, Người mê muôn kiếp chịu trầm luân. III/ Minh tâm kiến tánh. Cũng như Tiên gia, Phật giáo chủ về tâm tánh. Đó mới là Phật pháp, là Chánh pháp. Kỳ dư như dạy: làm lành bỏ dữ, lễ bái, cúng dường, v.v. .đều là quyền pháp cả. Quyền pháp là các pháp dùng đở tạm thời, hễ thành công rồi, thì pháp đó cũng phải vứt bỏ. Cho nên Phật nói : “Đáo ngạn bất tu chu”, nghĩa là : Dùng thuyền để đưa qua sông. Một khi tới bến, lên bờ rồi, thì đâu còn cần dùng thuyền nữa làm chi. Quyền pháp dùng tạm thời, thì cũng như thế đó. Còn Thật pháp là sự sống của con người, làm sao rời bỏ nó ra ngoài thân thể được ? Phật giáo nhận cái Chơn như Phật tánh là Chơn thiệt. Muôn hình tượng đều do Vọng tâm sanh sanh hóa hóa ra cả, chỉ là bóng vang, huyễn hóa. Người học Phật phải hiểu rõ như thế, rồi tìm trở lại cái gốc xưa, là Chơn như Phật tánh, để thoát ra khỏi vòng sanh tử, tiêu trừ các món phiền não, mới là đặng hưỡng phước lâu dài trên cảnh Niết bàn. Phật giáo lấy cái Chơn như Phật tánh làm gốc, nên công phu tu hành của người học Phật là : “Minh tâm kiến tánh”. - Minh tâm là gì ? - Minh tâm nghĩa là: Dẹp dục vọng, trừ sự mơ ước vu vơ, làm cho cái tâm mình không đặng sáng tỏ. Cái tâm nói đây sanh sanh diệt diệt, động niệm không ngừng, nên phải thành ra mờ tối, không rõ thấu nỗi Chơn lý. Chỉ có tâm thanh tịnh mới rõ được Đạo. Tỉ như bầu trời quang đảng, chẳng chút mây che, thì chi chi cũng thấy dễ dàng. Tỉ như tấm gương lau chùi sạch bụi, trong trẻo, treo cao thì vật nào mà không chiếu rọi. Kiến tánh nghĩa là: Thấy Chơn như bổn tánh nói trên. Chữ thấy nầy chẳng phải thấy bằng con mắt thịt ra ngoài, mà có nghĩa là : Nhờ nội tỉnh, giác ngộ mà bên trong nhận biết bổn tánh. Đó là mình tự biết nhiều ít mà lo tu, chớ không phải tìm biết người hay vật nào khác. Pháp Bửu Đàn Kinh nói rằng : “Người nào kiến tánh, muốn lập (pháp) cũng được, không lập cũng được, lui tới tự do, không chi trở ngại, gặp việc làm ngay, ai hỏi đáp liền, thị hiện hóa thân khắp nơi, mà chẳng lìa tự tánh, tức là đặng tự tại thần thông, du hí tam muội [16], ấy gọi là kiến tánh. Đức Đạt ma tổ sư phái Thiền Tông có nói rằng : “Trực chỉ nhơn tâm, kiến tánh thành Phật”, nghĩa là: Ta chỉ ngay cái tâm con người, hễ biết nó và làm cho nó sáng tỏ lên, thì tự nhiên thấy tánh của mình mà đặng thành Phật. Lại nói trong cuốn Huyết mạch luận: “Nhược dục kiến Phật, tu thị kiến tánh, tánh tức thị Phật”, nghĩa là: nếu muốn thấy Phật, thì phải thấy tánh, vì tánh tức là Phật. Đây là tông chỉ của phái Thiền tông, không chấp văn tự, chỉ cầu tâm truyền, ngoài ba tạng kinh. Trong chương thứ nhứt, chỗ khoảng nói về định nghĩa của hai chữ Minh Lý, chúng tôi chỉ nói tóm tắt : “Lý tức Phật”, hay là nói rõ hơn : “Lý tức thị Phật tánh”, nghĩa là : Chữ Lý nói đây có nghĩa là Phật tánh. Cuốn “Giác quán cang yếu” của ông Ngẩu Ích sa môn Trí Húc trùng thuật, trong bài “Lục tức” thuộc về Viên giáo, có nói: “Lý tức Phật”, nghĩa là Lý tánh không thể nghĩ bàn, là Như lai tạng, chẳng khi nào biến đổi mà tùy theo các duyên, tùy theo các duyên, mà chẳng khi nào biến đổi, mỗi lần đưa ra một pháp, chẳng hề không có đủ pháp giái (nghĩa là: một pháp là toàn cả pháp giái), tâm, phật, và chúng sanh, cả ba đều không sai biệt, ở cõi phàm không bớt, về cõi thánh không thêm. [17] Thế thì chữ Minh Lý không khác nghĩa với chữ Minh tâm kiến tánh. Vì Lý tức là Tánh, Tánh tức là Lý, nên cũng hiệp hai chữ lại mà gọi là Lý tánh (theo kinh Phật) hay là Tánh Lý (theo sách Nho). Bởi cái Lý tánh nầy không thể bàn nghĩ, nên Thánh ngôn của đạo Minh Lý cũng gọi là: “Lý ấy Tánh chơn vô nhị thị”, mà vô nhị thị nghĩa là: không có một lẽ phải thứ hai như thế đó, tức là tuyệt đối vậy. Trong tâm tánh của con người, có hai phần : một phần tuyệt đối, bình đẳng, đồng nhứt với Ngôi Độc Nhứt nói trên, lại không có hình tướng, nên phổ biến khắp nơi, bất sanh bất diệt. Còn một phần khác tương đối, thiên hình vạn trạng, sai biệt với Ngôi Độc Nhứt nói trên, lại phải sanh diệt. Minh tâm kiến tánh, tu tâm luyện tánh, tồn tâm dưỡng tánh, mặc dầu danh từ kêu gọi có khác nhau, mà công phu cũng đều đem tâm tánh từ chỗ hình thức, sanh diệt, trở về chốn vô hình, bất sanh bất diệt, để hiệp cùng ngôi Độc Nhứt [18] . C.BA GIÁO ĐỀU CÓ LUẬN VỀ THIỆN ÁC & HỌA PHƯỚC TRẢ VAY Tuy đồng luận về thiện ác và họa phước trả vay, mà gọi tên thuyết khác nhau, Phật gọi là Nhân quả, Đạo gọi là Cảm ứng, Nho gọi là Báo ứng. I/ Nhân quả của Phật giáo. Nhân quả là tiếng thường dùng, mà cũng có kinh gọi là Nghiệp. Chữ nghiệp nghĩa là: Việc làm, hành động, động lực. - Tại sao Nghiệp cũng có nghĩa là Luật Nhân quả? - Bởi vì mỗi nguyên nhân là hành động, mỗi cái hành động là nguyên nhân. Cái kết quả nào cũng là công hiệu của hành động. Vả lại kết quả cũng tự có động lực, nên đặng xem như một nguyên nhân để sanh ra kết quả mới nữa. Thế thì cái Nghiệp tiếp tục tương sanh, sanh lẫn cùng nhau, thành ra một đoàn động lực. Vì nhân nào sanh quả nấy, chẳng bao giờ sai chạy, cho nên gọi là Luật Nhân quả. Người ta thường tưởng Nghiệp, hay là Luật Nhân quả, là một cái luật chi phối mạng vận của loài người mà thôi. Kỳ thiệt, phạm vi nó rất rộng, nó bao quát trọn hết các động lực của kiền khôn, nó chi phối tất cả sự sanh hóa của muôn vật. Luật Nhân quả có hai nguyên tắc lớn sau nầy: a/ Sự sanh tồn đồng với động lực. b/ Bởi có động lực mà sự sanh tồn (của người và vũ trụ) biến thiên, mới có tiến hóa hay là thối hóa. Cái luật Nhân quả phổ biến nầy, ứng dụng cho nhơn loại, có thể tóm tắt lại như vầy: Mỗi người tự mình tạo nghiệp, đó là một cách vận động riêng của mình. Con người ngày nay ra sao, có gì, con người ngày sau ra sao, có gì, các điều đó đều do nơi sự hành động của ta mà ra cả. Các điều đó chẳng qua là cái kết quả của các việc mà người đã làm, đương làm và sẽ làm, hoặc bằng ý tưởng, hoặc bằng lời nói, hoặc bằng hành vi mà thôi. Nói tắt, cảnh hiện tại của ta là cái quả của hành động quá khứ của ta vậy. Tôi xin lặp lại: Luật Nhân quả là luật phổ biến của vũ trụ, mà ta đem nó ra ứng dụng riêng cho loài người, chớ không phải là cái luật riêng cho loài người mà thôi. Phần tinh vi của luật nầy là bất khả tư nghì, nghĩa là không thể lấy trí phàm mà hiểu trọn được ! Chỉ có hạng người chứng Đạo rồi mới hiểu thấu suốt hết nổi. Phật giáo chia Nghiệp ra làm hai thứ: a) Tư nghiệp b) Tư dĩ nghiệp Tư nghiệp là những việc toan tính trong đầu não, cũng gọi là Ý nghiệp. Tư dĩ nghiệp tức là trong lòng đã quyết định rồi, nên việc làm phát động ra ngoài thân mình (chơn tay) hay là cửa miệng. Ở thân mình thì gọi là Thân nghiệp, còn ở cửa miệng, thì gọi là Khẩu nghiệp. Cho nên cũng có chỗ chia Nghiệp ra làm ba loại, là: Ý nghiệp, Thân nghiệp, và Khẩu nghiệp. Thân nghiệp và Khẩu nghiệp, mỗi nghiệp lại chia ra làm hai thứ nữa: a) Biểu nghiệp, b) Vô biểu nghiệp. Biểu nghiệp , nghĩa là thứ nghiệp biểu lộ ra ngoài. Tỉ như một người dùng hèo mà đánh kẻ khác. Biểu nghiệp nầy phát ra rồi liền mất tích, không còn hiện thấy hình tướng ở ngoài nữa. Đồng thời, nó lại gây thành một cái sức vô hình tiềm ẩn nơi trong thân người, để chiêu cái quả vị lai. Vì nó không biểu lộ ra ngoài, nên gọi là Vô biểu nghiệp. Phàm có gây Nghiệp thiện và ác, thì tất nhiên phải đầu thai chuyển kiếp, luân hồi sanh tử, để mà trả vay cho nhau. Phật tùy cơ cảm và trình độ hiểu biết của chúng sanh mà giải nghĩa chữ Nghiệp, tuy có cao thấp bất đồng, nhưng cũng đều thuộc về chánh pháp cả. Vì phải tùy thính giả, Phật mới có nói ra bốn thuyết sau nầy: a) Nghiệp cảm duyên khởi, hay là Vô minh duyên khởi, b) A-lại-da duyên khởi, hay là Duy thức duyên khởi, c) Chơn như duyên khởi, hay là Như lai tạng duyên khởi, d) Pháp giái duyên khởi, hay là Nhứt thặng duyên khởi. (Thỉnh coi cuốn “Nghiệp” hay là “Luật Nhân quả ” của đạo Minh Lý). - Có kẻ hỏi: Sao Phật chỉ nói có luật, mà không nói có người xử đoán ? - Ở thế gian nầy, hễ có cuốn luật ban hành, thì phải có ông tòa ngồi xử. Nếu có luật, mà không có ông tòa, thì ai là người đứng ra xử? Còn có ông tòa, mà không có luật, thì ông toà mới dựa vào đâu mà xử? Phải, ở cõi thế gian là cảnh tương đối, thì luôn luôn có đủ hai bên, mới là thành sự phân xử. Nếu chỉ có một bên, thì làm sao luật lệ đặng thi hành cho đúng đắn được? Nhưng ở trên cảnh tuyệt đối thì khác hẳn, đâu có nhiều mối lăng xăng. Ông tòa và luật chỉ có một. Vì lẽ đó, chúng tôi đã nói: “Nhứt bổn tán vạn thù” là chỉ trên thế gian, có nhiều mối sai biệt. Còn nói : “Vạn thù qui nhứt bổn” là chỉ cõi Niết bàn bình đẳng không hai của Phật. Chỗ bí yếu là phải rõ : Trong ngôi Độc Nhứt đó có vô lượng tánh công đức, có đức tánh nào mà không sẳn gồm đủ. Ở trên cảnh tuyệt đối, trong luật có sự sáng suốt tức là ông Tòa; mà ông Tòa cũng ở trong luật, không bao giờ phán đoán ra ngoài luật đó. Cũng như trên đã nói: Phật không khác với Pháp, Pháp không khác với Phật. Thì đây, tôi cũng có thể nói ông Tòa không khác với Luật, Luật không khác với ông Tòa. Trên cảnh tuyệt đối, ông Tòa và Luật hai bên hiệp lại, chỉ như có một. Cho nên hễ nói ông Tòa là có Luật trong đó, còn nói Luật là có ông Tòa ở trong đó rồi. Như trên đã kể nhiều thứ duyên khởi, đủ rõ : Phật không phải nói Luật Nhân quả hay là Nghiệp cảm duyên khởi mà thôi. Sau Nghiệp cảm duyên khởi, Phật còn tiếp nói thêm: A-lại-da duyên khởi, Chơn như duyên khởi, Pháp tánh duyên khởi, là để chỉ rõ có luật nhân quả, mà cũng có linh tánh trong đó của loài người, của vũ trụ (đồng nhứt với Thượng đế). Chơn như và Pháp tánh không phải là sự sáng suốt vô cùng, vô tận, không phải là Chơn lý tuyệt đối đó sao ? Luật nhân quả, và vấn đề luân hồi sanh tử là cái luật chung, chẳng phải mới xuất hiện từ khi Phật ra đời. Nó vốn từ xưa đã có trong các kinh của Bàlamôn giáo bên xứ Ấn độ. Nhưng nhờ có Phật, cái luật ấy mới đặng chỉnh đốn và bổ túc thêm hoàn hảo. II/ Cảm ứng của Tiên gia. Chữ Cảm nghĩa là xúc, là động. Lấy cái nầy mà xúc động (chạm đến) cái kia, gọi là Cảm. Người Pháp dịch chữ Cảm là Action (hành động), thì cũng đồng nghĩa với chữ Nghiệp nói trên của Phật giáo. Chữ Ứng nghĩa là một đối, là đáp. Rồi cái kia đối đáp (dội lại) cái nầy gọi là Ứng. Người Pháp dịch chữ Ứng là Réaction (phản động). Cảm đã là hành động (việc người làm), Ứng là phản động, thì ứng phải do cảm, nghĩa là bởi một hành động trước khi, rồi sau mới có sức phản động. Cuốn kinh Cảm ứng của đức Thái Thượng Lão quân khởi đầu như vầy: “Họa phước vô môn, duy nhơn tự triệu; thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình”. Nghĩa là: Điều họa phước không có ngõ nhứt định, chỉ tại người tự vời lấy cho mình; dữ lành hai lẽ báo ứng, tỉ như bóng tùy hình. Cũng như kinh Sám hối của đạo Minh Lý nói: Điều họa phước không hay tìm tới, Tại người vời nên mới theo mình. Cũng như bóng nọ tùy hình, Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn. Chữ Tùy có nghĩa là theo một bên mình chẳng rời, mà cũng có nghĩa là: Chìu sự lớn, nhỏ, nặng, nhẹ nữa. Ý nói: Việc lành việc dữ của mình làm có lớn, có nhỏ, có nặng, có nhẹ, thì sự báo ứng tùy theo đó mà trả vay, tự nhiên có nhiều, có ít, có chậm, có mau, chẳng bao giờ sai chạy. Nghĩa chữ Cảm ứng tương tợ với nghĩa chữ Nhân quả. Nhưng hai thuyết khác nhau ở chỗ: Một đàng nói có Thần minh, người vật đứng ra thi hành luật, còn một đàng nói trả vay, chỉ nhìn có luật là Chơn lý mà thôi, chớ không nhận có Thần hay người đứng ra trung gian trong lúc trả vay đó (Thỉnh coi cuốn Cảm Ứng luận của đạo Minh Lý). Theo Kinh Cảm ứng, thì người làm lành đặng người khác kỉnh trọng mình (Nhơn giai kỉnh chi), nhờ Đạo Trời hộ giúp (Thiên đạo hựu chi), có phước lộc theo bên mình (Phước lộc tùy chi), đặng các tà ma xa lánh (Chúng tà viện chi), đặng các Thần linh phò trì (Thần linh vệ chi) v.v. . . Vì lẽ đó, mà họ có lòng tín ngưỡng nơi Trời, nơi Thần linh. Thiệt tín ngưỡng như thế chẳng phải là quấy, vì tín ngưỡng có hạng đứng chủ trương và thi hành luật công bình trong vũ trụ, tức là tin tưởng có cái luật công bình nầy. Nhưng có kẻ biếng nhác ỷ lại, chẳng chịu ra công mà muốn hưởng, thành ra muốn cho Thần linh làm trái luật công bình ấy, để ban phước cho mình, thiệt là quấy vậy. Người yếu lòng, chưa đủ trí, thì cũng nên cầu khẩn Bề trên mặc khải và giúp sức cho mình theo con đường chánh. Vì Bề Trên chỉ giúp được những người sẳn có lòng như thế đó, chớ không thể giúp cho hạng người ích kỷ, chỉ cầu điều lợi riêng cho một mình mình mà thôi. Trên kia, tôi nói mặc khải, chớ không phải quyết định và giúp sức, chớ không phải làm giùm, vì mỗi người còn giữ cái quyền tự do và chịu trách nhiệm về việc mình làm. Còn người nào có đủ nghị lực, trí hóa mở mang, thì chỉ dùng cái tâm tánh thành thật, cái hành động chánh đáng, mà thi thố mọi việc, như vậy hoài không mỏi, mới là cảm động tới Thần minh, tới Trời. Cái thuyết Cảm ứng của Đạo giáo thiệt không được hoàn mãn đủ lý như thuyết Nhân quả, nhưng có phần thiệt tế hơn, vì chỉ chú trọng về một đời hiện tại, và phần đông chúng sanh cũng dễ hiểu hơn. Nhưng chúng sanh khó tránh khỏi cái lưu tệ của thuyết Cảm ứng về chỗ tin nhảm dị đoan, bùa bèng dưng cúng, vì bởi chỗ lầm lạc nói trên. Theo ý chúng tôi, lỗi tại người, chớ không phải tại thuyết. III/ Báo ứng của Nho giáo. Báo, nghĩa là đền đáp, thưởng phạt. Ứng, là tùy việc mình làm trước mà ứng đáp lại. Nói cho đúng, Nho giáo không có lập thuyết Báo ứng. Nhưng có nhiều tư tưởng thuộc về vấn đề nầy, chẳng phải là không bổ ích, nên xin dẫn ra sau nầy: Đức Khổng tử nói rằng: “Người làm việc lành thì Trời lấy phước mà báo ứng cho họ, người làm việc chẳng lành thì Trời lấy họa mà báo ứng cho”. Từ thần ông nói: “Chứa lành gặp lành, chứa dữ gặp dữ, tử tế xét suy, Trời Đất không lầm”. Lại nói : Hành tàng hư thiệt tự gia tri, Họa phước nhân do cánh vấn thùy ? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì. Nghĩa là: Việc làm dối thiệt tự mình hay, Họa phước do ta lại hỏi ai ? Lành dữ rốt rồi, có báo ứng, Khác nhau là tại sớm hay chầy. Con người một động một tịnh, hễ dối trá là dữ, thành thiệt là lành, tự tâm mình ai cũng thấy được minh bạch. Nếu làm lành thì do đó ta sẽ đặng phước, còn làm dữ thì do đó ta sẽ mắc họa, chẳng cần phải hỏi ai làm chi. Đây là nói các điều họa phước là do tự ta tìm cầu. Vậy mọi việc trước khi làm, ta nên chịu khó xét suy là rõ ngay. Mã-phục-Ba (Mã Viện) nói: “Chung thân hành thiện, thiện du bất túc ; nhứt nhựt hành ác, ác tự hữu dư”. Nghĩa là: Cả đời làm lành mà lành còn chưa đủ, một ngày làm dữ mà dữ lại có thừa. Ý nói: Cái lượng của điều lành là rộng lớn vô cùng, tuy cả đời làm lành, mà lành còn chưa đủ số. Còn cái lượng của điều dữ là nhỏ hẹp mà mau đầy; lại dữ cũng dễ làm, cho nên một ngày làm dữ mà đã thấy dữ có thừa. Đại khái, lành khó làm, mà dữ dễ chứa, cho nên con người phải gắng gổ về chỗ khó, mà phòng ngừa về chỗ dễ. Kinh Dịch nói: “Xuất kỳ ngôn thiện tắc thiên lý chi ngoại ứng chi. Xuất kỳ ngôn bất thiện tắc thiên lý chi ngoại vi chi”. Nghĩa là : Nói lời lành, thì ngoài ngàn dặm có người ưng lòng (vui theo). Nói lời chẳng lành, thì ngoài ngàn dặm có người chống lại (bác đi). Lại Đông Nhạc Thánh Đế có để lời răn: “Trời Đất không tư vị, Thần minh thường thẩm xét, chẳng vì tế hưởng mà giáng phúc, chẳng phải thất lễ mà giáng họa”. Lời sau nầy rất chánh đáng, để cảnh cáo kẻ nào xu phụ Thần minh, cúng tế vái nài, mong đặng Thần minh bỏ luật công bình mà ban phước lành riêng cho một mình mình. Mục đích của Tam giáo là phụng thờ Chơn lý, tức là Trời Phật theo nghĩa rộng rãi, theo Chơn lý mà trau tâm sửa tánh, bỏ dữ theo lành, để càng ngày càng gần gũi với Ngôi Độc Nhứt. Theo ý kiến của chúng tôi, thì Ba giáo chẳng phải khác nhau ở nguyên lý, mà chỉ khác ở danh từ kêu gọi, cách giải thích mà thôi. Ước mong chư hiền nhơn, quân tử tìm xét lẽ chơn thiệt mà theo, nên bỏ qua sự cố chấp hình thức nhỏ nhen, thì có lo chi các tông giáo không đi đến dung hòa lý thuyết, tương thân tương ái. Rồi vì Chơn lý có một, cùng nhau đồng tâm nhứt trí, chung vai đâu cật, để tìm con đường giải thoát chơn chánh. Đặng vậy, nhơn loại hết tư tâm bản ngã, trần gian chắc chắn sẽ đi đến cảnh hòa bình, mà ngũ trược ác thế của chúng ta đây cũng sẽ dứt sự phiền não, hóa thành Tây phương Cực lạc, đặng hưởng phước vô cùng. Sau đây, tôi nhắc lại một bài thơ nói về Tam giáo đồng một thể. Bài thơ nầy do ông Hương Hải thiền sư , đời Hậu Lê, trứ tác. Ông là người Việt Nam tu Phật giáo, mà cũng thông Đạo giáo và Nho giáo nữa. Bài thơ chữ Hán của ông Hương Hải thiền sư : Thành thị du lai, ngụ tự triền, Tùy cơ ứng biến, mỗi thời nhiên. Song chiêu nguyệt đáo, thiền sàng mật, Tòng tiếu phong xuy, tịnh khách miên. Sắc ưởng lâu đài, minh sắc diệu, Thinh truyền chung cỗ, diễn u huyền. Nguyên lai Tam giáo đồng nhứt thể, Nhiệm vận hà tằng ý hữu thiên. Dịch là : Từ chốn phiền ba đến cửa thiền, Tùy thời tùy thế, ứng đương nhiên. Trăng lồng cửa sổ, giường thiền sát, Gió thổi tòng reo, khách tịnh yên. Lóng lánh lầu đài, màu ánh diệu, Nhịp nhàng chuông trống, tiếng u huyền. Vốn xưa Tam giáo cùng đồng thể, Pháo nhỉ nào đâu có ý thiên. Cuốn Bố cáo của đạo Minh Lý lại nói : Lòng lành tỉnh ngộ sớm lo, Tinh chuyên học Đạo, nhỏ to chỉ truyền. Chẳng hay ghét ngỏ ganh hiền, Gặp cơn sai siển, giúp khuyên nhau cùng. là muốn cho người người đều nhìn vào Chơn lý, mà quên hình thức nhỏ nhen, để cùng nhau tương thân tương ái và dìu dắt nhau để trở về Ngôi Độc Nhứt. Rút gọn
|
LUẬN VỀ DỊ ĐIỂM CỦA TAM GIÁOSỞ TRƯỜNG CỦA MỖI GIÁO
MỖI GIÁO ĐẶNG VÍ KHÁC NHAU
CỰC CÔNG CỦA TAM GIÁO
Xem thêm
A. SỞ TRƯỜNG CỦA MỖI GIÁO Tuy Tam giáo đồng thờ ngôi Độc Nhứt và lấy tâm tánh làm căn bổn, nhưng mỗi giáo đều có phần công phu tu hành trổi hơn, tức là có một sở trường riêng biệt. I.- Thích trị tâm, dạy tu tánh, II.- Đạo trị thân, dạy tu mạng, III.- Nho trị thế, dạy luân lý. Xét kỷ lại, ba món là: tâm, thân, thế, không có món nào bỏ ra không trị, thì về đạo Tam giáo cũng vậy, Thánh nhơn không thể bỏ ra mối đạo nào mà chẳng lập [19]. I- Thích trị tâm, dạy tu tánh, Phàm nói tâm, tức là có tánh ở trong đó, vì tánh là chủ tể của tâm. Cuốn Thuật ngữ nói: Tánh tức là Chơn tâm viên minh, là cái tâm mà tự tánh đặng thanh tịnh [20]. Mặc dầu hai chữ nghĩa có khác nhau, nhưng thông thường người ta thường coi như có một nghĩa , nên cũng hiệp hai chữ mà dùng thành chữ đôi: Tâm tánh hay là tánh tâm. Đại khái, Phật giáo cũng tự xưng là Tâm tông, bởi tông chỉ của giáo nầy không ra ngoài cái tâm. Cho nên nói: “Tam giái duy tâm, vạn pháp duy thức”. Nghĩa là: “Ba cõi là: Dục giái, Sắc giái, Vô sắc giái chỉ do cái tâm sanh, muôn pháp là trời đất, người vật, duy tại cái thức biến”. Tâm và thức cũng đồng thuộc về tám Tâm pháp hay là Tâm vương. Tâm là tâm A-lại-da, còn thức là bảy thức đầu: nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, mạt na (Tàu dịch là Ý căn). Các thức sau nầy đều dựa vào A-lại-da mà khởi, nên tâm cũng là gốc sanh ra các thức. Phật giáo có trên 10 tông phái lớn, gồm cả Đại thừa và Tiểu thừa. Nhưng theo ý kiến của chúng tôi, chỉ có ba phái kể ra sau đây có thể đại diện cho tất cả các phái nói trên. 1/ Pháp tướng Duy thức tông Pháp tướng tông cũng gọi là Duy thức tông. Ngày nay, người ta hiệp cả hai tên đó, mà gọi là: “Pháp tướng Duy thức tông”. Giáo nghĩa của tông nầy chú trọng về chỗ minh xác các pháp tướng (chỉ rõ hình tướng của muôn pháp). Nhưng muốn minh xác thì phải dựa vào Duy thức mới chỉ rõ ra được các pháp tướng đó. Cho nên nói Pháp tướng gốc ở Duy thức vậy. Tông nầy căn cứ theo lời dạy trong các kinh như Giải thâm mật, các thứ luận như Du già sư địa, Duy thức tam thập tụng. Cang yếu của tông nầy là “Vạn pháp duy thức”, nghĩa là: “Muôn pháp đều do thức biến”. Muôn pháp tức là những người, vật, sông, núi, các cảnh hiện ra trên đời, cũng gọi là lục trần. Lục căn là: mắt, tai, mủi. miệng, thân, ý, đối với lục trần, mới có sanh ra lục thức. Thức có nghĩa là hay biết, phân biệt. Thức cũng là tâm, mà cái tâm bị Vô minh ô nhiểm, nên sự hay biết kia phải chịu sai lầm, sức hiểu hãy còn cạn cợt. Thức thường nhìn giả tưởng thiệt, lấy giặc làm con, nên phải bị sanh sanh tử tử, luân hồi lục đạo. Rồi cái thức cứ y vào nghiệp của mình gây ra, mà biến ra thiên hình vạn trạng. Người học Duy thức cần phải tập nhìn các hiện tượng, cho đến thấy được các hiện tượng vốn có một bổn thể bình đẳng, không sai biệt. Nếu nghiệp thức của ta chưa cho phép ta thấy được như thế, thì phải ráng nhẫn nại mà đè nén nghiệp thức của mình xuống, lâu lâu tập quen rồi, thì cũng có thể diệt nó được. Đặng như thế, tâm ta mới đặng yên vui, tự tại, mà chẳng còn phiền não, khổ lụy nữa. 2/ Chơn không vô tướng tông Tông này căn cứ ở sách Trung quán luận, Thập nhị môn luận của Long Thọ Bồ Tát và Bách luận của Đề Bà Bồ Tát, nên cũng gọi là “Tam luận tông”. Cốt yếu ở chỗ bàn rộng cái nghĩa “Vô tướng, giai không”. Về sau, có người không những theo ba sách luận kể trên, mà lại còn theo cả sách Đại trí độ luận nữa, giảng về cái nghĩa: “Chơn không diệu hữu”, nên cũng gọi là “Tứ luận tông”. Vì tông nầy chuyên về pháp tánh, nên cũng gọi là Pháp tánh tông, đối với Pháp tướng tông nói trên. Có người nói: Tông nầy có cái lạ là không theo kinh nào của Phật, mà chỉ căn cứ ở ba sách luận của hai vị bồ tát. Theo ý kiến chúng tôi thì tông này cũng dựa vào kinh Bác nhã, để phá chấp danh tướng của phái “Pháp tướng duy thức” nói trên (Coi Bác nhã Tâm kinh). Tông Thiên thai cũng căn cứ vào đây mà lập thuyết “Nhứt tâm tam quán”. 3/ Như lai tạng duyên khởi tông Tông nầy bao gồm cả hai tông Pháp tướng và Pháp tánh nói trên, lấy kinh Lăng dà, Lăng nghiêm, Mật nghiêm và luận khởi tín làm căn bổn. Cuốn Khởi tín luận của Mã Minh Bồ tát toát yếu hết các lý tinh vi của Phật pháp, lập ra thuyết “Nhứt tâm nhị môn”, bao quát hết tông chỉ của Đại thừa Phật giáo. Đạo Minh Lý có xuất bản cuốn “Phật giáo Tâm lý học” là Tâm lý học của Phật giáo Đại thừa, gồm nói đủ cả ba tông nói trên. Ai đọc cuốn Phật giáo Tâm lý học nầy mà thông nghĩa lý, hiểu rộng nghĩa chữ tâm, thì đã biết trên phân nửa giáo lý của Phật giáo rồi. Môn Tâm lý học của Phật Đại thừa chẳng phải hoàn toàn giống với môn Tâm lý học của khoa học bây giờ. Tâm lý học của khoa học bây giờ chủ về tâm Duy thức mà thôi. Còn cái tâm của Phật giáo Đại thừa là tâm tịch diệt, là Chơn tâm không sạch, không dơ, không sanh, không diệt, không thêm, không bớt, như trên đã nói: “Vô tướng, giai không”. Theo phái Như lai tạng tông, cái tâm nầy bao quát tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Muốn rõ nghĩa Phật giáo Đại thừa, thì phải biết cái tâm nầy. Vì muôn vật đều ở trong tâm ta, đều do tâm ta mà phát ra cả. Cho nên nói: “Tam giái đều là hư ngụy, duy bởi cái tâm tạo ra”. Nếu lìa cái tâm ra, thì chẳng còn cảnh giái lục trần nào khác nữa. Vậy thì tâm tức là thiệt thể, muôn vật là hiện tượng. Thiệt thể có một tên khác gọi là Chơn như bất sanh bất diệt, còn hiện tượng là sanh diệt. Cho nên cuốn Đại thừa Khởi tín luận mới chia cái tâm ra làm hai môn: Chơn như môn và Sanh diệt môn. Tiến lên một bực nữa mà xét, cái tâm phải chịu hai ảnh hưởng : sức ô nhiểm và sức tẩy tịnh. Hai bên huân tập (xông ướp) lẫn nhau, sanh nhau chẳng dứt, tức là giải nghĩa câu: “Nhứt thiết duy tâm tạo” (Chỉ có tâm tạo ra tất cả). Huân tập có bốn loại, là: a) Tịnh pháp, gọi là Chơn như, b) Tất cả nhiễm nhân, gọi là Vô minh, c) Vọng tâm, gọi là Nghiệp thức, d) Các vọng cảnh giới, gọi là Lục trần. Chơn như tịnh pháp vốn không có ô nhiễm (nhuốm dơ). Nhưng vì Vô minh huân tập Chơn như, nên Chơn như mới có tướng ô nhiễm. Còn Vô minh nhiễm pháp thiệt không có tịnh nghiệp. Bởi Chơn như huân tập Vô minh, nên mới có tịnh dụng (công dụng tẩy tịnh). Nếu ta dùng Chơn như mà huân tập Vô minh, diệt hết các nhiễm nhân ắt có tịnh dụng, là đặng quả thường trụ Bồ đề Niết bàn. Đó là cái đức huân biến (nhờ sự xông ướp mà biến hóa), bất khả tư nghì. Đây là nói về Chơn như bắt từ bên trong mà xông ướp (nội huân) Vô minh, khiến hành giả phát tâm tu hành, cho trở thành tịnh nghiệp. Con người tự tin nơi tánh mình, biết tâm hay vọng động, nên tu pháp xa lìa vọng cảnh. Bởi biết Như thật không có vọng cảnh, nên dùng đủ phương tiện, khởi hành tùy thuận (nương theo, xuôi theo Bổn tánh), chẳng châp dính, chẳng niệm tưởng. Cho tới lâu ngày, hễ sức huân tập đã mạnh rồi, thì vô minh tự nhiên tiêu diệt. Bởi vô minh đã diệt, tâm không còn dấy động. Bởi tâm không dấy động, vọng cảnh cũng tiêu mất. Vì nhân duyên đều tiêu diệt, tâm tướng hẳn tuyệt dứt, nên gọi là thành Phật, về cõi Niết bàn. Người tu Phật giáo phải do cửa sanh diệt mà vào cửa Chơn như. Đó là phép cứu cánh tu tâm của Phật giáo. Số là cái tâm tướng của chúng sanh không ra ngoài hai con đường mê, giác. Dựa vào Vô minh nên mê. Y theo Chơn như là giác. Trước kia giác rồi mê; đã mê lại trở về giác. Thiệt là cái công dụng của tâm quảng đại, thâm diệu biết mấy ! Duy có phái Như lai tạng tông mới nói ra cái nghĩa nầy đầy đủ. I- Đạo trị thân, dạy luyện mạng 1/ Nghĩa theo các kinh xưa. Phàm nói: Trị thân tức là dạy luyện mạng, vì mạng là sự sanh sống của thân. Cuốn Thái Nhứt Kim Hoa nói: “Khảm Li tức là âm dương, âm dương tức là tánh mạng, tánh mạng tức là thần khí , thần khí tức là thân tâm”. Tuy đây nói các danh từ đó giống nghĩa kỳ thiệt nó có nhiều cấp bực khác nhau (divers degrés de différenciation) chớ không phải hoàn toàn thiệt giống. Vô cực đồ thuyết nói: “Phù Đạo giả, tánh dữ mạng nhi dĩ. Tánh vô sanh dã, mạng hữu sanh dã”. Nghĩa là: Đạo chẳng qua là tánh với mạng mà thôi. Tánh thì không sanh, tức là cũng không diệt. Còn mạng thì có sanh, tức là cũng có diệt. Tánh mạng nói đây tỉ như quẻ Kiền , quẻ Khôn , ở trong Bát quái tiên thiên (Kiền nam, Khôn bắc). Tánh thuộc dương, mạng thuộc âm, ở trong cảnh tiên thiên. Thái cực động sanh dương, tịnh sanh âm. Âm dương đều là một Thái cực biến ra, tuy hiện trạng thấy có khác nhau, mà cũng đồng chung một bổn thể, bổ cứu lẫn nhau, chớ không phải phá hại nhau (complémentaire et non antagoniste). Cho nên mạng ở trong tiên thiên, vì thuận theo tánh luôn luôn, thì cũng đồng một tánh, bởi đó tánh và mạng hiệp nhau, thành như có một. Cuốn Tánh mạng Khuê chỉ và nhiều kinh xưa có chép lời của đức Lữ tổ nói rằng: “Tu mạng bất tu tánh, thử thị tu hành đệ nhứt bịnh. Tu tánh bất tu mạng (có chỗ chép : bất tu đơn), vạn kiếp âm linh nan nhập thánh”. Nghĩa là: Tu mạng mà không tu tánh, đó là cái bịnh thứ nhứt của người tu hành. Còn tu tánh mà chẳng tu mạng (tu đơn), thì muôn kiếp tánh vẫn còn thuộc âm, không vào được cõi Thánh ! Tánh mạng nói đây tỉ như quẻ Khảm , quẻ Li ở trong Bát quái hậu thiên (Li nam, Khảm bắc). Trước kia, tánh là quẻ Kiền thuộc dương, mạng là quẻ Khôn thuộc âm. Nay vì ngọn gió bất chánh thổi đến, quẻ Kiền mất hào dương ở giữa, hào nầy nhập vào giữa quẻ Khôn, biến quẻ Khôn ra quẻ Khảm thuộc dương. Còn quẻ Khôn mất hào âm ở giữa, hào nầy nhập vào giữa quẻ Kiền, biến quẻ Kiền ra quẻ Li thuộc âm. Một hào Kiền dương đã lọt vào trong Khôn âm, thì tánh bị phược triền trong đó biến mạng thành khí. Quẻ Khảm chỉ có một hào dương ở giữa, hai hào âm bao ngoài, nên tuy là thuộc dương mà kỳ thiệt là âm trung hữu dương, nên gọi là chơn dương [21]. Còn quẻ Kiền bị một hào âm của quẻ Khôn lọt vào giữa, nên biến tánh ra thần. Quẻ Li chỉ có một hào âm ở giữa, hai hào dương bao ngoài, nên tuy là thuộc âm, mà kỳ thiệt dương trung hữu âm, nên gọi là Chơn âm [22]. Cho nên trước nói : Tánh mạng tức là thần khí, thần khí tức là thân tâm. Tới đây, tánh mạng biến ra thần khí, không còn là tánh mạng nữa. Thần khí lại biến ra thân tâm. Nếu ta không tu khí huờn lại mạng, thần huờn lại tánh ý như ở ngôi tiên thiên xưa, thì cái tánh kia bị kềm hảm, lao lung, bề ngoài mất cả sự sáng suốt tự nhiên của nó. Tỉ như một hòn ngọc tốt, bị rơi vào bồn nước đục, thì cũng khó mà chói lọi ra xa. Cho nên Tiên gia mới có công phu tu mạng, là gạn đục lóng trong cốt để giải thoát cho cái tánh kia. Vì cớ đó, phải tu cả tánh và mạng: trước tu mạng, rồi sau tu tánh. Bởi tu mạng là bước đầu, nên Đạo giáo chú ý về tu mạng trước hết, nên người ta thường nói : Đạo giáo trị mạng. Vì tánh lọt trong âm khí, bị âm khí á quyền. Nếu không đánh tan nổi âm khí, thì tánh không làm sao vượt lên cao được. Tánh tuy bị kềm hảm, chớ có lúc khí yên tịnh, nó cũng phát biểu ít nhiều ra ngoài. Vậy công phu của hành giả tu theo Đạo giáo là phải thừa mấy lúc đó, mà xé tan lần lần cái màn khí hắc ám, cho đến khi tánh của mình đặng hoàn toàn giải thoát, mà trở về ngôi cũ trong Bát quái tiên thiên. Tới đây tiến lên có một từng công phu tu tánh để huờn về Nhứt khí Vô cực , rồi sau một từng công phu chót nữa để liểu tánh, phục qui ư Hư vô, nghĩa là hiệp Một với Đạo. Học Đạo không có chi lớn hơn hai chữ tánh mạng, mà người thế không rõ cái thuyết tánh mạng nầy đã lâu rồi. - Sao gọi là tánh ? - Tánh là Chơn như lúc ban sơ, một Hư linh sáng rở [23]. - Sao gọi là mạng ? - Mạng là khí tiên thiên rất tinh vi, một nguơn khí nhân ôn (tức là khí xung hòa, có sức sanh sanh hóa hóa vô cùng) [24] . Trong cuốn “Hoàng Cực hạp tịch Tiên kinh”, chương thứ ba, ông Doãn Chơn Nhơn có nói: Thần ở Thiên cốc (Nê huờn) thì trong sạch (trạm nhiên), lặng lẽ (tịch nhiên), tức là Chơn tánh. Còn khí ở trong Thần lư (Khí hải), nhân ôn mà không động thở, tức là Chơn mạng. Theo tiên thiên, tánh là dương, mạng là âm. Còn theo hậu thiên, thần là âm, khí là dương. Đó là hai yếu tố, phải song tu mới là thành Đạo. Kinh Dịch nói: “Một âm một dương (diệu hiệp), gọi là Đạo”, cũng là lấy nghĩa đó. Tỉ như hai khinh khí và một dưỡng khí hiệp lại (H2O), thì thành ra nước vậy. Theo cuốn “Thanh nham tăng lục” của Vương Y, Đạo giáo chia ra hai phái: Phái Nam tông chủ về tánh, phái Bắc tông chủ về mạng. Rồi cũng cuốn ấy giải: Chủ tánh là do phục thực tu luyện, để bảo dưỡng Chơn tánh của ta. Còn chủ mạng là dùng phù chú bùa bèng mà đặng diên mạng, tức là sống lâu. Cách tu mạng mà giải nghĩa như thế, là sai lầm biết mấy ! Nếu Bắc tông giải nghĩa chữ mạng như thế, thì sao ông Vương trùng Dương là người trứ danh hơn hết trong phái ấy, mười ngày trước khi mất, lại nói với đệ tử là Mã đơn Dương rằng: “Học Đạo không chi khác, chỉ biết dưỡng khí, tâm dịch đi xuống, thận khí vượt lên, cả hai tới tì nguyên, hiệp lại chẳng tán, thì đơn tự nhiên kết tụ [25]”. Đến sau hai phái Nam và Bắc điều hòa cùng nhau mà thành ra thuyết “Tánh mạng song tu”, hiện giờ lưu hành nhiều xứ ở trần thế, nhứt là bên Trung Hoa và ở xứ Việt Nam ta. Thuyết ấy cũng gọi là: “Tánh mạng chủ chỉ tịnh thuyết”. Đủ thấy Đạo giáo chẳng phải là không có lý thuyết tu tánh. Nhưng Đạo giáo chủ về công phu tu mạng trước hết. Lại vì hai chữ tánh mạng dính với nhau rất mật thiết, nên cần biết thêm rằng: Trong công phu tu mạng, không phải là không có phần tu tánh. Nhưng trước phải tu mạng, thì nhiên hậu tánh mới đặng kiên cố. Thầy Trình tử tuy là Nhà Nho mà cũng có nói: “Luận tánh bất luận khí bất bị, luận khí bất luận tánh bất minh”. Nghĩa là: Nếu luận tánh mà không luận khí là còn thiếu sót. Còn luận khí mà không luận tánh là chưa đặng rõ ràng. Cuốn Tánh mạng khuê chỉ nói: “Đạo là phải diệu hiệp tánh mạng (tức là âm dương). Hiềm vì ít người biết diệu hiệp. “Có kẻ tu tánh mà lại sót mạng, luôn cả cái khiếu diệu của tánh cũng không biết nữa, thì làm sao mà giữ tánh được ? Nếu kẻ ấy không phải là cuồng đảng, thì cũng hảm vào phái không tịch (ngoan không). Kẻ chẳng biết mạng mình rốt cuộc mới qui về đâu ? “Còn có kẻ tu mạng mà lại sót tánh, luôn cả cái công phu tạo mạng cũng không biết nữa, thì làm sao mà giữ mạng được? Nếu kẻ ấy không chấp hữu tác, thì cũng lạc đường vô vi. Kẻ chẳng biết tánh mình, làm sao tránh khỏi kiếp vận ? “Có lẽ nào hai nhà tông giáo lớn (ám chỉ Thích và Đạo), mà lại sơ suất quên sót như thế ?” [26] Có một bài thơ rút trong cuốn Ngộ chơn thiên chỉ rõ tánh mạng chẳng phải thuốc uống hữu hình, xin dịch nôm ra như sau nầy: Chớ luyện ba hoàng [27] với bốn thần [28], Nếu tìm cây cỏ lại càng lầm. Âm dương đồng loại cùng giao cảm, Nhị bát bằng nhau tự hiệp gần. Nhựt chiếu đáy hồ, âm tuyệt quái, Nguyệt soi đầu núi, thuốc sanh mầm. Người đời muốn rõ chơn diên hống, Chẳng phải phèn sa với thủy ngân. 2/ Nghĩa theo Thánh ngôn của đạo Minh Lý. Nguyên tắc Kim đơn (Nguyên văn chữ Pháp, có phụ in phía sau) “Cái nguyên tắc trường sanh chẳng phải ở trong một huờn thuốc, mặc dầu ai ai cũng mơ mộng như thế: thuốc nào có hình chất là một huyển tưởng ; rượu trường sanh không thể lấy con mắt phàm mà thấy nó được. Đây là chơn lý về sự bí mật này: “Đối với những kẻ biết kềm chế tiềm lực, thì thay vì làm tổn tinh để thỏa thích nhục dục, họ lại đem ngược tinh trở về theo con đường cựu lộ phát sanh. Hết thảy các hạch theo đường huyết quản giao tiếp với nhau và lập thành một tổ khiếu chứa khí tiên thiên như một cái bao vậy. Khí nầy là linh hồn ta, tánh chất ta, chơn ngã ta. Hễ có nó thì sống, mất nó thì chết. “Cái chất hơi đó chủ về sự sanh hóa còn đang lúc phôi thai, sự phát triển cái thai bào. Toàn thể sanh khí đó ở trong một khu vực riêng, tụ kết nên một cái khiếu độc nhứt và sanh một thể thứ hai, mà người ta gọi là Thánh thai [29]. Khi Thánh thai đặng hoàn toàn cứng cát rồi, thì nó không còn chịu ảnh hưởng vật chất nữa và nó có thể xuất hiện ra ngoài, tùy theo ý muốn. “Chư nhu có đủ khả năng trong mình để đạt tới mục đích mà chư nhu định tìm tòi đó. Chư nhu đã vào con đường giải thoát rồi và, khi chư nhu tập luyện tới cảnh mà các luồng sống thô bỉ ở trần gian không còn ô nhiểm đến mình nữa, thì chư nhu sẽ thấy hiện ra nơi mình đóa hoa huyền bí (viên quang) ở trên đảnh đầu của người siêu việt (siêu nhơn). “Trên con đường giải thoát, phải chăng là chư nhu đã nghe hương vị của nó rồi ? Con đường nầy lúc ban sơ rất cực nhọc, nhưng nó dịu bớt lần lần, và trở nên sáng tỏ (một khi thấy ấn chứng rồi), chư nhu sẽ gặp sự vui vẻ. “Đó vừa là cái sở y (chỗ nương dựa), vừa là cái phần thưởng cho chư nhu. Nó rất cần ích cho chư nhu để chiến thắng một tên thù địch độc nhứt đến phá hại chư nhu, là sự thối chí. “Ai là kẻ muốn tu Kim đơn thì phải trở nên một người khác hẳn khi trước, phải tự tìm hiểu trong mình các khả năng của mình, các chỗ nào thiếu mất điều hòa mà dẹp trừ và càng ngày càng phải thêm hòa nhịp cùng trời đất. “Chừng nào sự điều hòa đến tuyệt đích, con người mới là trọn xong sự tiến hóa của mình. “Muốn lọc nấu các loài khoáng kim, phải nhúm lò Kim đơn, lấy lữa chánh định của Nguơn thần mà đốt vật chất, làm sao cho nó, nhờ sự trui rèn chậm rãi đó, mà đuổi cho hết các bợn nhơ, các cặn cáu. “Muốn trở nên một cao đồ của một giáo phái, không phải làm một việc lưng chừng mà dám đem trình lên đức Thượng đế và người đời phán xét. Thứ lửa trong chánh định, nhờ sự luyện thân và sự tinh tiến, đốt tiêu cái gì nhơ bẩn, nưng cao cái chi thấp hèn, cho tới khi tất cả đều trở nên sáng chói, để thay thế cho cái chi trước kia nặng nề, buồn bã và đen tối. “Các việc thay đổi nầy không phải một ngày một bữa mà làm xong được. Phải cần có thời gian và một sự cố gắng không ngừng. Luyện kim đơn luôn luôn phải chẫm rãi, dầu nơi phòng khảo nghiệm, hay là trong thân thể con người, cũng y như thế.” III- Nho trị thế, dạy luân lý. Chữ Trị nầy lấy nghĩa là sửa trị, hóa dân, hiệp chung mà nói là: trị hóa. Vậy thì trị thế đồng nghĩa với chữ “thành vật”, ghi trong sách Trung dung. Thành vật đồng với chữ thành nhơn, nghĩa là dạy luân lý, khiến cho ai ai cũng vụ tròn bổn phận làm người. Sách Trung quốc Luân lý học sử, cuốn thứ hai, trương 3, của ông Thái-nguơn-Bồi có nói: “Tam giáo tịnh tồn, nhi Nho giáo chung vi luân lý học chi chánh tông”. Nghĩa là: Ba giáo hiệp lại thì đều nhận luân lý học của Nho giáo là chánh tông. Lại nên biết: Trị thế là phép xử sự ở đời, là phần hậu thiên, công truyền, dễ nghe. Còn trị tánh, trị mạng nói trước, là phần tiên thiên, biệt truyền, huyền bí. © 1) Nhân : Giáo lý của đức Khổng Tử căn cứ trên một chữ Nhân, mà giải thích mọi sự mọi vật. Nhân nói đây chẳng phải là lòng nhân từ bác ái mà thôi, nghĩa của nó rộng lớn bao la. Chữ nầy cũng có nghĩa là : nhơn cách, nhơn phẩm, bổn phận làm người sao cho xứng đáng, cho cao thượng. Sách Luận ngữ có chép: Nhiều người hỏi về chữ Nhân, thì đức Khổng Tử đều trả lời khác nhau, tùy theo trường hợp của mỗi người. Nhan Uyên hỏi Nhân, Ngài đáp: “Trị mình theo lễ là Nhân”. Nhan Uyên hỏi tiếp: “Xin Ngài giải rõ thêm chi tiết ”, Ngài nói: “Chẳng phải lễ chớ xem, chẳng phải lễ chớ nghe, chẳng phải lễ chớ nói, chẳng phải lễ chớ làm [30] . Trọng Cung hỏi Nhân, Ngài đáp: “Ra khỏi cửa nhà như gặp khách quí, khiến dân như chăm lo một đám tế lớn, cái mình không muốn (ai làm cho mình), thì đừng đem làm cho kẻ khác, ngoài nước không người oán, trong nhà không kẻ thù [31]. Tư mã Ngưu hỏi Nhân, Ngài đáp: “Người nhân thì lời nói phải khó khăn”, nghĩa là: Trước khi nói ra thì phải dè dặt, xét nét kỹ càng [32]. Phàn Trì hỏi Nhân, Ngài đáp: “Ăn ở phải khiêm cung, làm việc phải kính cẩn, đối với người phải trung thành” [33] . Cuốn Trung quốc Triết học sử của ông Hồ Thích nói: “Trên đó là bốn câu đáp của đức Khổng Tử, mà nào phải hoàn toàn nói về nghĩa ái nhơn (thương người) đâu! Xét ít điều đó, thì biết Nhân tức là đạo lý làm người, nên các điều nào đúng theo nhơn đạo cũng có thể gọi là Nhân cả”. Cuốn Trung dung và sách Mạnh Tử đều nói: “Chữ Nhân ấy là người vậy” [34], nghĩa là: Nhân là đạo làm người vậy. Người học Nho, phải biết nghĩa rộng của chữ Nhân nầy, là: Phàm làm con người thì phải giữ tròn nhơn đạo, theo đúng nhơn cách. Ai giữ tròn nhơn đạo, làm đúng nhơn cách, tức là thiệt hành theo nghĩa chữ Nhân, tức là “thành kỷ”, hai chữ ghi trong sách Trung dung. Ông Châu Hi, một danh Nho đời Tống, có nói: “Người Nhân không có tâm riêng tư, ý nói hiệp đúng với Thiên lý” [35]. Có người không hiểu Thiên lý nầy là Thiên mạng chi tánh, là tâm linh, tánh chơn của mình, vụt nói lên rằng: Đó là bọn Tống Nho ức thuyết, chớ không phải bổn ý của đức Khổng Tử. Nói đức Khổng Tử không phải dùng chữ Lý thì đúng, còn nói không phải bổn ý của Ngài là sái. Vì trong sách Trung dung Ngài có nói: “Suất tánh chi vị Đạo”, nghĩa là: Đạo là noi giữ bổn tánh vậy. Hiệp với Thiên lý không phải là: Noi giữ bổn tánh sao ? Đức Khổng Tử chọn người quân tử làm mô phạm cho nhơn sanh. Chữ quân tử, theo nghĩa xưa, chỉ hạng quí tộc, thuộc về giai cấp xã hội. Ngày nay, nghĩa ấy đã lần lần biến cải, thành ra nghĩa nầy: Bực người có tài đức, phẩm cách cao thượng hơn người, có đạo đức, ít lắm là một phần của nhơn đạo. Cho nên Ngài nói: “Người quân tử mà bất Nhân, thì cũng có thể được. Chớ chưa từng có tiểu nhơn mà giữ đạo Nhân” [36]. Ý nói: Quân tử tuy chưa chắc là ai ai cũng giữ trọn hết nhơn đạo, còn tiểu nhơn là hạng người quyết chẳng thế nào y theo nhơn đạo được. Đức Khổng Tử có nói với thầy Tăng rằng: “Sâm ôi ! Đạo ta chỉ có một, mà nó suốt thông tất cả” (Nhứt dĩ quán chi), ấy là Ngài muốn nói về nguyên lý căn bổn của Nho giáo đó. - Cái nguyên lý căn bổn là gì ? - Cái nguyên lý căn bổn của Nho giáo, cứ theo lời thầy Tăng tử nói, khi đáp lại câu hỏi của các môn nhơn khác, là: trung thứ. Trung là hết lòng, thứ là suy ta ra người, hết lòng suy ta ra người, đặt mình trong hoàn cảnh của người, coi người như ta, là phương pháp để thiệt hành đạo Nhân đó. Vì muốn các môn nhơn khác dễ hiểu, nên thầy Tăng dùng hai chữ Trung thứ, để giải chữ Nhân, là mục đích tối cao của đức Khổng Tử. Kỳ thiệt, trung thứ chỉ là phương pháp để thiệt hành đạo Nhân đó mà thôi. Thầy Châu tử cho chữ một nói trên là Nhứt lý (Một lý), nên nói rằng: “Cái tâm của Thánh nhơn chỉ có một lý bao trùm hết cả, ứng khắp muôn vật, mà riêng đối với mỗi vật, đều theo lẽ phải cả; công dụng của nó vào mỗi trường hợp đều là khác nhau [37]. Đó là cái lý tư tưởng căn bổn của đạo Nho, tức là chữ Nhân. Vì nó gồm thâu tất cả mọi đức tánh khác, nên gọi là suốt thông tất cả. Những người ở Trung hoa, thì có ông Lưu Xướng; còn ở Nhựt thì có ông Vật-tồ-Lai (coi Luận ngữ trưng), ông Nhân Trai, ông Y-dàng, quyết cho rằng : “Nhân là đạo Nhứt quán của đức Khổng Tử” [38]. © 2) Nhân nghĩa. Đức Khổng Tử tuy nói rộng chữ Nhân, mà thiệt là hàm có chữ Nghĩa ở trong đó. Là vì ngoài chữ Nhân, thỉnh thoảng Ngài cũng có giảng đến chữ nghĩa nữa. Vậy hai chữ: Nhân và nghĩa quan hệ với nhau như thế nào ? Trả lời cho câu hỏi nầy, ông bác sĩ Nhựt-bổn Phục-bộ Vũ-chi-Cát, giáo thọ trường Đế quốc Đại Học Đông kinh, là một nhà nghiên cứu về triết học nước Tàu rất thâm thúy, có nói rằng: “Xét về sự quan hệ Nhân và Nghĩa, tất cả các học giả về sau đều cho rằng Khổng Tử nói Nhân là bao hàm có chữ nghĩa ở trong. Các nhà ấy chủ trương như thế, là có hai lý do như sau nầy: “Lẽ thứ nhứt là nói rằng: Nhân là một cái lý tưởng tuyệt đích, Nghĩa chẳng qua là cái thủ đoạn để đạt cái mục đích đó mà thôi. Thế là Nhân có bao hàm Nghĩa ở trong. “Muốn giải cho tường tế, thời Khổng Tử nói Nhân là chỉ cái lòng “yêu” (ái) bình đẳng, không sai biệt, tức là lòng bác ái; mà Khổng Tử nói nghĩa là chỉ một nguyên tắc có sai biệt, như trong những câu “do thân cập sớ ”, “do cận cập viển”, v.v. . . Xét một lượt, thời hai chữ tựa hồ không dung nhau, nhưng kỳ thiệt không phải thế. “Khổng Tử đặt ra Nghĩa – là cái nguyên tắc sai biệt, chẳng qua là một cái thủ đoạn để thiệt hiện Nhân– là cái nguyên tắc bình đẳng. Cho nên Khổng Tử chủ trương sự sai biệt, không phải vì sai biệt mà định sai biệt: Vì cớ đó, nên nhứt ban học giả nói rằng: Khổng Tử nói Nhân là bao hàm Nghĩa ở trong. “Lẽ thứ nhì là Khổng Tử chỉ nói Nhân là thiên tánh của nhơn loại. Nhưng cái Nhân ấy đem ra làm qui phạm cho sự đạo đức ở đời không đủ, tất phải lấy Nghĩa để làm cái qui tắc bổ sung. Vì làm sao vậy ? “Nhân vốn là thiên tánh của người. Nhưng mà thiên tánh của người không phải chỉ hạn ở Nhân: Ngoài Nhân, còn có cái bổn năng về động vật (instinct), không thể không nhận là thuộc về thiên tánh. Cho nên nếu ta chỉ nói Nhân thiệt hiện ra, tức là thiên tánh thiệt hiện ra, nhưng nói như thế có bất tiện to. Vì rằng Nhân thì nên thiệt hiện ra, mà đồng thời cái bổn năng về động vật (cũng là thiên tánh) không thể đem thiệt hiện ra được. “Nói tóm lại, trong cái “bản ngã” (tức tiếng Hy Lạp gọi là go, tiếng Pháp là moi) của ta gồm cả Nhân và cả cái bổn năng về động vật, tức như Tống Nho gọi la “thiên lý” và “nhơn dục”. Hai cái ấy thời Nhân là “đại ngã”, “chơn ngã”, mà cái bổn năng về động vật la “tiểu ngã”, “giả ngã”. “Trong luân lý thông thường gọi là “tự do”, ấy là nói ta đem cái đại ngã, chơn ngã của ta mà thiệt hiện ra, và đem cái tiểu ngã, giả ngã, nhứt nhứt phải áp phục. Nếu không thế, thì không thể nào gọi là tự do chơn chánh được. “Cho nên giữa lúc cần cho Nhân thiệt hiện ra, ta phải đối với Nhân và bổn năng về động vật khu biệt cho rõ ràng mới được. Nhân là cái ta phải nên thiệt hiện ra, bổn năng về động vật là cái ta không nên để cho thiệt hiện ra. “ Nhân đã là cái ta thiệt hiện ra, thời câu “Nên thiệt hiện” ấy tức là thuộc về phạm vi của luân lý, tức là cái bổn nghĩa của chữ Nghĩa vậy. Bởi thế nên các học giả chủ trương rằng: Khổng Tử nói Nhân là bao hàm cả Nghĩa ở trong. “Khổng Tử nói Nhân và Mạnh Tử nói nghĩa, hai bên quan hệ thế nào, tưởng kiến giải như thế cũng là thỏa đáng vậy.”. Đức Khổng Tử nói Nhân, nói Nghĩa, mà không khi nào gọi luôn một lượt hai chữ Nhân Nghĩa. Nói dính liền hai chữ đó, chỉ có thầy Mạnh Tử mà thôi. Dụng ý của thầy là cốt để phản đối với mấy thuyết tân kỳ lúc ấy, như thuyết Mặc địch, thuyết Dương châu, v.v. . . Vì một đàng chủ trương kiêm ái, tức là “Nhân”, là bình đẳng, mà bỏ “Nghĩa” là sai biệt. Còn một đàng khác lại bỏ Nhân, mà chủ trương vị ngã sống riêng, tức là “Nghĩa” sai biệt. Cho nên thầy Mạnh Tử, vì muốn chống lại với bọn đó, mới kết chung hai chữ Nhân Nghĩa lại làm hiệu cờ, để tỏ ra rằng: Trong hai chữ đó, không thể bỏ ra một chữ nào được. Thầy Mạnh Tử yết kiến vua Lương huệ Vương. - Vua hỏi: “Cụ chẳng quản xa xuôi ngàn dặm mà đến đây, chắc cũng có thuật gì để làm lợi cho nước tôi chớ ?” - Thầy Mạnh đáp: “Nhà vua hà tất phải nói đến lợi, chỉ nên luận Nhân Nghĩa mà thôi.” Lại nói: “Chưa từng có người Nhân mà quên cha mẹ mình bao giờ, chưa từng có người Nghĩa mà bỏ vua chúa mình bao giờ ? [39] Thầy giải thích hai chữ Nhân Nghĩa, có nói rằng: “Người ta ai cũng có lòng thương xót chẳng nở. Nếu hay đem cái lòng chẳng nở đó, cho tới những việc mình đang tâm dám tính (thì tự sanh thương xót), tức là lòng “Nhân” vậy. Người ta ai cũng có việc chẳng làm, nếu hay suy cái việc chẳng làm đó cho tới những việc dám làm (thì tự sanh hổ thẹn), tức là lòng “nghĩa” vậy. [40] “Người ta hay khoách sung cái lòng chẳng nở toan hại người như thế, thì cái lòng “Nhân” càng ngày càng lớn, có nghĩ điều gì mà chẳng phải là Nhân. Người ta hay khoách sung cái lòng chẳng dám khoét vách, trèo tường như thế, thì cái lòng “Nghĩa” càng ngày càng to, có làm việc gì mà chẳng phải là Nghĩa. Người hay khoách sung cái thiệt tâm không chịu nổi những tiếng mày tao( tiếng khinh khi mình), thì làm việc gì cũng chánh đáng, không đi đâu mà chẳng phải điều nghĩa vậy[41]. © 3) Tam đức và Ngũ luân. Đức Khổng Tử lại nói: “Đạo của người quân tử có ba điều, mà ta chưa làm được điều nào: 1/ Người nhân chẳng ưu phiền, 2/ Người trí chẳng mê lầm, 3/ Người dõng chẳng sợ hải.” [42] Tề cảnh Công hỏi đức Khổng Tử về chánh trị. Ngài nói: “Vua phải đạo vua, tôi phải đạo tôi, cha phải đạo cha, con phải đạo con. Cảnh Công nói: Hay thay ! Giá như vua chẳng giữ đạo vua, tôi chẳng giữ đạo tôi, cha chẳng giữ đạo cha, con chẳng giữ đạo con, tuy có lúa thóc đó, mà thử hỏi ta dễ ăn được không ?” [43] Sách Trung dung nói: “Các đạt đạo trong thiên hạ có năm. Phương pháp để thi hành năm đạt đạo nầy thì có ba. Vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bằng hữu, là năm đạt đạo của thiên hạ. Còn trí, nhân, dõng là ba cái đạt đức của thiên hạ. Phương pháp để thi hành ba cái đạt đức này, chỉ có Một là Thành” [44] Giảng lý: Đạt đạo tuy là con đường mà ai ai cũng phải noi theo, nhưng nếu không có ba đạt đức thì không thể noi theo được. Đạt đức tuy là cái lý ai ai cũng có thể có, nhưng nếu có một chút bụng không thành thiệt, thì bị nhơn dục gián cách, đức cũng hết còn là đức nữa. Tóm lại, năm đạt đạo gốc ở ba đạt đức, ba đạt đức gốc ở Một lòng thành thiệt. Thế thì nói về phần tổng quát, ta phải hiểu chữ Nhân theo nghĩa rộng, vì Nhân là nguyên lý căn bổn của Nho giáo. Còn nói về phần chi tiết, ta có thể nói đạo Nho có: Năm đạt đạo hay là ngũ luân, ba đạt đức là tam đức; mà sở dĩ để thi hành ngũ luân và tam đức đó, thì cần phải có Nhứt thành (một lòng chơn thiệt). Về chữ nhân ở trong tam đức là: trí, nhân, dõng, ta nên lấy nghĩa hẹp là phải hơn. Chữ nhân ở đây có nghĩa là bác ái, thương rộng đến mọi người thiên hạ. Nhưng thương rộng, mà thiếu trí, nghĩa là thiếu sự sáng suốt, không thông rõ thời cơ, thì khó mà làm tròn phận sự bác ái. Còn có trí sáng suốt, mà thiếu lòng bác ái, thì thiếu kẻ đồng tâm, ít người giúp việc, làm sao cử đồ đại sự cho kham? Có nhân, có trí, lại cần phải có dõng, là sự bền chí, sốt sắng, gan dạ thì mới có thể lướt qua các điều trở ngại, mà đi thẳng tới mức thành công rực rỡ. Cách phân loại tam đức và ngũ luân như nói trên, tuy là theo thuyết của đức Khổng Tử dạy, có ghi trong sách Trung dung, nhưng mà sau ông Tử Tư , trong sách Nho giáo, ít thấy đâu nói đến tam đức. © 4) Tứ đức (tứ đoan) và ngũ thường. Theo sở kiến của thầy Mạnh Tử : Người ta ai cũng có lương tâm, tự Trời phú cho bốn đức : nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn đức nầy vốn sẳn có mối ở trong tâm, quyết không phải nhờ kinh nghiệm bên ngoài mà có. Nhưng các mối ấy phải cần có kinh nghiệm bên ngoài mới phát triển hoàn toàn. Thầy lại nói rõ cơ sở của bốn đức, cho rằng: Cái tâm thương xót của mỗi người, tức là cái đầu mối lòng nhân; cái tâm biết hổ thẹn, tức là đầu mối lòng nghĩa; cái tâm biết nhún nhường tức là đầu mối điều lễ; cái tâm biết phải trái, tức là đầu mối điều trí. Hay khoách sung bốn cái tâm ấy tức là bốn đức : nhân, nghĩa, lễ, trí, là luận về công phu khoách sung bốn đức, thiệt là lời bàn rất xác đáng. Thầy Mạnh Tử, tuy cũng có nói đến: nhân, nghĩa, trung, tín mà không nhập chữ tín với bốn đức nói trên. Đời sau, có ông Đổng trọng Thư thêm chữ tín vào, mới thành ra ngũ thường, là : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Sách “Trung hoa Luân lý học sữ” có nói: “Về đường tư tưởng luân lý, họ Đổng xướng ra cái đạo ngũ thường đó không phải là không có công. Đạo ngũ thường là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ở Trung dung nói có ba đức; Thầy Mạnh Tử chỉ nói bốn đức; đến Trọng Thư mới nói đủ cả ngũ thường, thì Nho giáo luận về năm đức mới là hoàn bị. Phân loại về năm đức như thế, thiệt là có thế lực về lịch sử tư tưởng luân lý của Nho giáo lắm vậy.” Ông Châu liêm Khê cũng theo thuyết nầy có giải năm điều ngũ thường như vầy : 1/ Ái (thương xót) gọi là Nhân ; 2/ Nghi (xứng hạp) gọi là Nghĩa ; 3/ Lý (nhằm lẽ) gọi là Lễ ; 4/ Thông (thấu suốt) gọi là Trí ; 5/ Thủ (giữ chắc) gọi là Tín. 5) Tam cang. Chữ cang nghĩa là sợi giây lớn làm giềng cho một tay lưới. Tam cang nghĩa là ba giềng mối chánh của Nho giáo, tức là quân vi thần cang, phụ vi tử cang, phu vi thê cang, nghĩa là: Vua là giềng mối của tôi, cha là giềng mối của con, chồng là giềng mối của vợ. Ấy là ba phần rút trong ngũ luân ra mà lập thành giềng mối. Trong ngũ luân, đức Khổng tử chỉ nêu ra sự quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ mà thôi. Có người ngờ rằng: Đời sau, Tống Nho lập ra thuyết Tam cang là có ý muốn nói: Tôi phải nghe lời vua, con phải nghe lời cha, vợ phải nghe lời chồng, phân biệt ra có giai cấp lớn nhỏ, nghĩa là: buộc hạng nầy phải chìu theo ý kiến của hạng kia, để tránh sự ganh đua, xung đột bất chánh. Lại đối với thầy (sư), các bậc tiền bối sắp thầy ngang hàng với cha, nghĩa là đối với thầy, cũng phải kỉnh như cha. Nếu học trò thiếu sự cung kỉnh đối với thầy mình, thì sự học hỏi khó đặng kết quả tốt đẹp. Vậy thì bực thầy ở trong Tam cang. Cái thuyết Tam cang của Nho giáo, chúng tôi chưa biết rõ ai đề xướng ở đời nào, nhưng thấy ông Đổng trọng Thư đời Tây Hán, trước kỷ nguơn Tây lịch, đã nói đến hai chữ Tam cang rồi, chớ không phải đợi sách Tánh lý của Tống nho mới có nói đến. Dường như đó là một pháp xưa của các Thánh vương truyền lại [45] nào phải đâu hậu thế bày ra. Tóm lại, hai chữ Nhân nghĩa là phần cốt yếu của nền luân lý đạo Nho, để dạy người đời cho biết đối đải cư xử cùng nhau, cho thành nhơn cách. Các điều khác chỉ là phần phụ thuộc, để giải nghĩa thêm rõ hai chữ Nhân nghĩa đó cho dễ thi hành. Cho nên cũng có người gọi Nho giáo là đạo Nhân Nghĩa. B. MỖI GIÁO ĐẶNG VÍ KHÁC NHAU I/ Theo Bố cáo của đạo Minh Lý. Cuốn Bố cáo của đạo Minh Lý mở đầu bài như sau nầy: Tam Tông giáo tuy là khác chủ, Minh Lý rồi phải đủ cả ba. Thí như lập đặng tòa nhà, Thiếu tay chủ quỉ, ai mà đởm đương ? Lại còn cần kẻ lo lường, Nhọc công bồi bổ, mới thường ấm no. (Do Văn Tuyên Khổng Thánh giáng bút). Hai câu đầu rất dễ hiểu, khỏi cần phải giải nghĩa thêm nữa. Đó là các câu vừa nêu ra, vừa giải nghĩa đại lược hiệu chùa và hiệu đạo của chúng tôi. Thí như lập đặng tòa nhà Đây tỉ dụ Nho giáo như cái nhà, là chỗ đụt mưa, đụt nắng, vì Nho giáo dạy luân lý là nền tảng của gia đình, xã hội. Nếu con người quên bổn phận làm người, thì khó tiến bước đi xa trên con đường đạo đức. Cũng như không có nhà ở, cơm ăn, thân mình còn chưa yên, thì còn mong mỏi làm việc chi khác nữa. Đức Tây Phương Phật Tổ giải nghĩa: “Nho giáo tỉ như cái nhà, mà nhà vô chủ. Vì Nho chẳng luận luân hồi, thì ai sợ tội phước mà giữ gìn chính chắn theo lời dạy, muốn làm chi thì làm”. Thiếu tay chủ quỉ, ai mà đảm đương ? Tay chủ quỉ [46] là người đàn bà lo việc nước bếp núc, cơm nước, vụ bề nội trợ tề gia. Đây tỉ dụ Phật giáo như người đàn bà. Người đàn bà nói đây, chẳng phải chỉ hạng người yếu ớt, không làm nên việc lớn, mà có ý muốn nói : Phật giáo dạy tu tâm, mà tâm chủ tịnh, nên gọi như thế. Đức Tây phương Phật tổ giải nghĩa: “Phật giáo thuộc tâm, là âm, là người đàn bà, là tay chủ quỉ lo coi sóc, dọn dẹp việc trong nhà. Nhà mà không ai coi chừng, thì không đặng có nghi tiết, phải lộn xộn”. Lại còn cần kẻ lo lường, Nhọc công bồi bổ, mới thường ấm no. Còn kẻ lo lường, nhọc công bồi bổ, là người đàn ông ra ngoài làm công cực khổ, mới có của đem về bồi bổ trong nhà. Đây tỉ Đạo giáo như người đàn ông, vì Đạo giáo dạy luyện khí, mà khí chủ động, nên gọi như thế. Đức Tây Phương Phật Tổ giảng nghĩa: “Đạo giáo thuộc khí là dương, tỉ như người đàn ông lo bề ngoài, lo bồi bổ giao thiệp với ngoài. Nhà mà không có người lo bề ngoài, thì nhà đó không thế nào đặng vẹn đủ. “Chư nhu rõ lý gồm Tam giáo chăng? “Nếu trong ba phần ấy mà thiếu một phần, thì không đặng nên việc. Chư nhu phải lấy sự nhà của chư nhu mà đối thì rõ lý Tam giáo qui nhứt là vậy. Bởi một giáo dạy một khoảng, nói rõ khúc nầy, không nói rõ khúc khác, như việc nhà, ai có phần việc nấy. Phải hiệp các sự lo của mỗi người, thì nhà mới đặng yên”. (Coi Thánh ngôn ngày 7-5-27). II/ Theo Qui nguơn trực chỉ của đạo Phật . Vô tận cư sĩ viết cuốn Hộ pháp luận có nói: Nho trị bì phu (ngoài da), Đạo trị huyết mạch, Phật trị cốt tủy. Mà bì phu, huyết mạch, cốt tủy, không thể bỏ chỗ nào đau mà chẳng trị, thì luận về ba giáo cũng thế, không thể bỏ ra một giáo nào mà chẳng hành được. Ông Vô tận cư sĩ nói như thế, mà không giải cho biết tại lý do nào. Nếu chúng tôi hiểu không lầm, thì ý ông muốn giải bày thứ tự sâu cạn, cao thấp mà thôi. Như nói: Nho trị bì phu, nghĩa là: ngoài da, thì đó là phần cạn cợt hơn hết. Đạo trị huyết mạch, làm cho mạch máu lưu thông, tức là đi sâu lần vô trong tâm địa. Còn Phật trị cốt tủy, nghĩa là: trị tạng thận, bổ mở xương, lại càng đi vào chỗ sâu kín của thân thể con người hơn nữa. Ngoài ra, cuốn Qui nguyên trực chỉ còn có nhiều tỉ dụ khác như sau nầy: 1) Tỉ Tam giáo như Tam quang (Phật nhựt, Đạo nguyệt, Nho tinh) ở trên trời, như Tam cang ở tại thế, như Tam túc của một cái đảnh ba chưn. 2) Tỉ Nho như giày, Đạo như mủ, Thích như áo. Như một ông quan sắp đi chầu vua, thử hỏi có thể thiếu một món nào trong ba món đó được không ? III/ Theo Thánh ngôn của đạo Minh Lý. Đức Thái Thượng Lão Quân dạy rằng: “Các ngươi hay nói câu: Vạn thù qui nhứt bổn, mà sao không thấy đi tìm các món thuốc để thí nghiệm theo hóa học, đặng ngày sau có biết mà giảng giải ? “Ta lựa ba món rất có ý vị: a) Băng phiến (camphre), b) Rượu thuần chất (alcool pur absolu) c) Lục thuần thủy hóa (chloral hydraté). (Hãy mua) bấy nhiêu đó là đủ dùng. “Băng phiến thì phải tán cho nhỏ, mà trước khi tán, phải lấy rượu nhểu lên băng phiến, chớ khá nhểu nhiều lắm. Còn lục thuần thì cũng phải tán nhỏ như vậy. Khi bỏ ba món ấy vào chai, thì bỏ một lớp lục thuần, kế một lớp băng phiến, cứ vậy mà bỏ vào cho được nửa chai. Rồi lắc, thì nó sẽ tan lần ra nước. “Ta hỏi: Băng phiến trị về gì ? Rượu giúp đặng những sự gì ? Còn lục thuần là chất gì ? Có ích gì cho người ? Băng phiến trị về khí não. Còn rượu, theo đông y, thì nó dẫn huyết; theo tây y, thì nó khử độc. Và lục thuần là một thứ thuốc mê, có chất vôi, làm cho bớt đau đớn. “Băng phiến tỉ như Nho giáo mở trí. Rượu tỉ như Phật giáo thức tỉnh người, trừ phiền não và dẫn đến cõi Cực lạc. Còn Lục thuần tỉ dụ Đạo giáo là chất vôi ở trong xương, do tủy sanh ra, tủy lại do thận mà có. Thận chủ về tiên thiên là mạng, là Đạo phải không ? “Vậy trong ba món đó, cái gì là rường cột ?” - Bạch: Món có chất vôi. - Ngài tiếp: “Cái thân không xương, thì đứng đặng không ? “Chư nhu chưa biết sức nóng của lục thuần ra sao? Nếu nó dính vào da non, thì da phỏng liền. Trong ba món, thì nó dữ hơn hết. Ba món đều nóng, bị xao lắc mà hiệp lại một, là nghĩa gì ? - Bạch: Tam giáo qui nhứt - Ngài tiếp: “Muốn cho Tam giáo qui nhứt, thì phải xao lắc nhiều lần, ý nói: phải công lao khó nhọc. Còn sức nóng của ba vật, là có ý nói: phải sốt sắng làm việc”. Lại nói: “Trên thế nầy có chi gọi là khó, làm không thành công kết quả. Khó là tại không bền chí ra công, không thành tựu là tại không hết lòng gắng sức” . Đức Thái Thượng Lão quân lại còn cho một cái tỉ dụ khác nữa. Ngài dạy rằng: “Chư nhu chớ có lầm tưởng rằng lập đạo là dễ. Cái đạo lập ra, chẳng phải cho một đôi nhà, hoặc vài trăm người. Chẳng phải có vài bộ kinh, tựu tập ít chục người, rồi cũng xưng là Đại Đạo. Không phải vậy đâu ! “Lập Đạo rất khó, phải có căn bổn mới kham. Lập chẳng phải trong một tháng, một năm, mà rồi được. Muốn lập đạo đặng vớt người nơi chốn trầm luân bể khổ, thì cũng phải lập như nhà y lập phương chữa bịnh cứu người vậy. “Nhà y có ba phương thuốc, là: a) HUỜN để chữa bịnh huởn, tăng tiến ẩm thực, điều hòa dinh vệ (khí huyết). Đạo đức thì có Nho (chẳng phải chỉ Nho là Hán học, chẳng luận học chữ gì). Nho để phá ngu, mở trí con người, lấy đó mà làm căn bổn, để giúp cho dễ nghiên cứu, tìm tòi. b) Nhà y có THANG là để chữa bịnh trọng, đản địch tạng phủ, khai thông kinh lạc. Cũng như Thích để thức tỉnh người mê, độ cho khỏi chốn trầm luân khổ hải, dắt người từ chỗ tối cho tới chỗ sáng. c) Nhà y có phương thuốc TÁN, là để cứu bịnh gấp, khai thông trường vị, công kích tà khí. Cũng như Đạo để minh rõ chơn lý, công kích bàng môn vậy. Theo phép làm thuốc, thì phải có quân, thần, tá sứ. Sứ giúp tá, tá giúp thần, thần giúp quân. Trong đạo thì cũng vậy, phải theo thứ tự đó mà tu học. C. CỰC CÔNG CỦA TAM GIÁO Cuốn Qui nguyên trực chỉ nói: “Tam giáo tuy ưu liệt (cao thấp) chẳng đồng, nhưng không thể nào thiên phế được (nghĩa là: bỏ ra một đạo nào cả). “ Vì mỗi người có tâm khác nhau, mà tâm khác nhau thì kiến giải cũng khác. “Người mộ Đạo giáo thì nói: Phật không cao bằng Đạo. Người tin Phật giáo thì nói: Đạo không lớn bằng Phật. Còn ai học Nho giáo thì cho chỗ mình theo là chánh, lại bài xích Đạo và Phật là dị đoan. Họ thị thị phi phi, nhiều điều rối loạn, đã cả ngàn cả trăm năm rồi. “Vậy nay tôi đem vấn đề nầy ra mà minh biện, không bao giờ lấy tư tâm mà luận, lấy tâm thương ghét mà bàn, chỉ giữ một tâm niệm bình đẳng. Hãy xét đến cực công của mỗi giáo, thì băng giá kia tiêu tan ra nước (hết sự khó khăn). “Cực công là nghĩa gì ? – Nghĩa là: Cái thâu viên kết quả cùng tột, tối thượng. “Phàm sự sự, vật vật trong thiên hạ đều có cực công. Thân thể mồ hôi, chơn tay bùn lấm, là việc của nông phu. Chừng lúa thóc đầy bồ, đó là cực công của nông phu. Còn chải gió dầm sương, tảo tần khuya sớm, là việc của thương gia. Chừng vàng bạc đầy rương, đó là cực công của thương gia. “Cực công của Tam giáo thì cũng y như thế đó. Nho có cực công của Nho, Đạo có cực công của Đạo, Phật có cực công của Phật. Theo cực công mà xét đoán chỗ ưu liệt, thì chẳng cần phải biện luận nhiều, mà cũng hiểu được rõ ràng. Vậy thử xét như sau: I/ Nho đặng: Công thành thân lão, danh tạc sử xanh. “Nho gia dạy: Từ một thân con người xét rộng tới một nhà, từ một nhà xét rộng tới một nước, từ một nước xét rộng tới bốn biển, tràng dãy sáu hướng, có thể gọi: phần giữ thì ít, mà phần thi ra lại nhiều. Nếu xét rộng nữa, ra ngoài bốn biển, nhắm thẳng sáu hướng, thì mới thấy ra làm sao ? “Thuyết Nho nói: Sang đông qua tây, tới bốn biển là cùng. Đó là chỉ chỗ thiệt xa, chẳng qua là tới bốn biển mà thôi. Nói cùng là tới đó, phải dừng chơn, hết đi xa hơn được. Nho gia chỉ dạy như thế đó. “Cho nên người học Nho phải tồn tâm dưỡng tánh, giữ nhân do nghĩa, mới đúng là một người vẹn đạo trọn lành, mà ai ai cũng có thể thấy trong cử chỉ, trong việc làm của họ. Nhờ đó mà trên thì trí trung với vua, dưới thì phục vụ cho dân, nhờ đó mà an quốc gia và lợi xã tắc, nhờ đó mà phò trì thế giáo, đi đến cảnh thái bình. Đặng như vậy, công thành thân lão, danh tạc sử xanh. Cái cực công của Nho giáo là như thế mà thôi ”. Ông Tịnh Trai cư sĩ dường như không để ý tới mục đích tối cao của Nho giáo ghi trong sách Trung dung, nhứt là công hiệu giáo lý cực cao: “ Trời đất yên ngôi, muôn vật thỏa sống”. Phải nào chuyên chú có một sự ích kỷ như ông nói trên đó mà thôi đâu ! II/ Đạo đặng: Tuổi sống vô cùng, khoái vui tự tại. “Đạo gia dạy: Từ thân thể ta xét rộng tới chốn u minh (Địa ngục), từ nhơn gian mà vượt lên tới Thiên đường, từ rừng núi, động hang, phi tới tăm tăm Đại la cảnh, nguy nguy Bạch ngọc kinh, thế thì gọi là siêu phàm nhập thánh. Còn ra ngoài vòng thiên đạo tạo hóa, thì thấy ra làm sao nữa ? “Thuyết Đạo nói: Lớn là Châu thiên giới (vòng quanh cõi Trời ?[47]), nhỏ là vào trong mảy bụi cát. Thế thì hết sức lớn chẳng qua là Châu thiên giới. Phàm nói giới (cõi) là có hạn định rồi. Ra ngoài cõi đó, thì không còn biết chi được nữa. Đạo gia chỉ dạy như thế đó. “Cho nên người học Đạo tinh thần chuyên nhứt (tập trung một chỗ), động hiệp vô hình (việc làm không chấp tướng), ước mong vào cảnh thanh tâm quả dục, thường thổ cố nạp tân (hà hơi cũ mà hít hơi mới), bồi công chứa đức, có thể thi giải (bỏ xác nầy vào xác khác), có thể phi thăng, có thể sai khiến quỉ thần và kêu mưa hú gió, có thể trợ cơ tạo hóa và lập nên huyền công. Tuổi sống vô cùng, khoái lạc tự tại, là cực công của Đạo gia, chỉ có bao nhiêu đó mà thôi ”. “Kinh Huỳnh đình nói: “Sống lâu, thấy đủ (mọi việc đời), rồi phi thăng lên trời[48]. Thế thì tới bực trường sanh là cùng tột ”. Ông Tịnh Trai Lưu học sĩ viết bài nầy tỏ ra rằng mình có đọc bài Đại la thiên đế của Đạo giáo (như nói: Tăm tăm đại la cảnh, , nguy nguy Bạch ngọc kinh), nhưng không hiểu tại sao không để ý tới câu: “Thượng chưởng tam thập lục thiên, tam thiên thế giái”. Tam thiên thế giái nói đây, tức là Tam thiên đại thiên thế giái của nhà Phật (kế sau đây sẽ nói giải). Cõi nầy gồm thập ức ( tức là một tỉ ) thế giái, thì cảnh giới của Đạo giáo chẳng phải là nhỏ. Cõi Ta bà (Saha) của Phật Thích ca giáo hóa, thì cũng là một cõi Tam thiên đại thiên thế giái đó mà thôi. Thuyết Tam thiên đã có từ xưa, trước khi Phật ra đời. Rồi ngoài cõi Tam thiên nầy, lại có không biết bao nhiêu cõi Tam thiên khác nữa, minh mông khó nghĩ tới được. Người học Đạo giáo chứng năm bực tiên, là: Kim tiên, Thiên tiên, Thần tiên, Địa tiên, Nhơn tiên. Thi giải nói trong bài nầy chỉ là bực Địa tiên mà thôi, chớ không phải là bực cao tột. Còn bực Kim tiên là ngang hàng với Phật, cho nên vua Huy Tông đời Tống xưng Phật là Đại giác Kim tiên. Thiết tưởng nên hiểu Đạo giáo rộng lớn, đúng với kinh sách của nó, để cho nó đủ sức làm tròn phận sự trung gian giữa Nho giáo và Phật giáo và hiểu thêm rằng trường sanh bất tử [49] không phải ở trong xác thân hữu hình mà thiệt ở trong pháp thân, ở Đạo, mà Đạo là vô cùng tận. Xác thân khéo dưỡng chỉ đặng sống lâu, hoặc một trăm năm, hoặc hai trăm năm, nhiều lắm là 800 năm như Ông Bành Tổ, chớ không thể giữ hoài được xác thân chẳng chết. (Sống hoài chẳng chết gọi là siêu sanh). III/ Phật đặng: Đoạn dứt sanh tử, rốt cuộc Niết Bàn. “Phật gia dạy: “Một vị Phật ra đời, lấy một cõi Tam thiên Đại thiên thế giới làm Báo sát (quốc độ của Phật cư trú và giáo hóa)”. “Nếu chỉ nói một thế giới, thì trong cõi thế giới đó, có núi Tu di, nổi lên trên mặt biển cả, chót vót lên khỏi cửu tiêu. Mặt trăng, mặt trời, chạy xung quanh lưng núi, mới phân ra có ngày đêm. Bốn bề của núi Tu di là bốn bộ châu: đông là Phất vu đải (tức là Đông thắng thần châu), tây là Cù-da-ni (tức là: Tây ngưu hạ châu), nam là Diêm phù đề (tức là: Nam thiệm bộ châu), bắc là Uất-đơn việt (tức là Bắc cu lư châu). Trong bốn châu lớn kia, mỗi châu có ba ngàn châu nhỏ. Thế giái ta ở bây giờ đây là Diêm phù đề. Còn nước Trung hoa bây giờ là một châu nhỏ trong ba ngàn châu nhỏ nói trên. “Đức Thích Ca hạ sanh tại nước Thiên trúc (Ấn độ), là chính giữa đất Nam châu. Bốn phía ở triền núi Tu di, gần với mặt trời mặt trăng, gọi là Tứ thiên vương. Trên chót núi thì gọi là Đế Thích thiên. Còn lên nữa, trên hư không sáng rỡ, có bốn từng trời khác trên không trung. Cộng hết là 6 từng trời, thì gọi là Dục giới. Lên nữa, cũng ở trên không, có 18 từng trời , gọi chung là Sắc giái. Lại lên nữa, trên không trung, có 4 từng trời, gọi chung là Vô sắc giái (Tổng cộng là 28 từng trời) . “ Bọn chúng sanh ở trong tam giới, có sanh, lão, bịnh, tử, đó gọi là một thế giới. Một ngàn thế giới như thế hiệp lại gọi là một Tiểu thiên thế giới. Một ngàn Tiểu thiên thế giới hiệp lại gọi một Trung thiên thế giới, tức là bá vạn thế giới (một triệu). Một ngàn trung thiên thế giới hiệp lại gọi là một Đại thiên thế giới, tức là bá ức thế giới[50].Vì đây nói ba lần ngàn, nên gọi là: Tam thiên Đại thiên thế giới. Kỳ thiệt Tam thiên Đại thiên thế giới chỉ là một cõi Đại thiên mà thôi. “Trong một Đại thiên, có bá ức núi Tu di, bá ức mặt trời, mặt trăng, bá ức Tứ thiên vương. Như kể mỗi thế giới là một đồng tiền, thì phải đủ bá vạn quan tiền[51] mới phải là một Đại thiên thế giới. Đó là Báo sát của một vị Phật. “Hễ có một vị Phật ra đời, thì trong bá ức thế giới, có bá ức thân phật đồng thời thị hiện. Mỗi vị tiếp độ chúng sanh như bụi trần nhỏ. Đó gọi là thiên bá ức hóa thân. Dùng thiên bá ức hóa thân mà hóa độ một thiên bá ức thế giới, Phật khiến tất cả đều đặng độ thoát. Phật giáo dạy như thế đó. “Cho nên người học Phật biết năm uẩn đều là không, lóng lục căn đặng thanh tịnh; lìa xa mười điều ác, tu hành mười điều lành; quán bốn niệm xứ, hành bốn chánh cần; trừ 62 tà kiến [52] thì tà ngụy không còn chỗ nương dựa, đoạn 88 kiết sử [53], thì là phiền não hết làm náo loạn; ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, không chi chẳng gìn giữ; bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật, thường dùng mà xông ướp (huân tu Chơn như bổn tánh). “Theo phép nầy, vị pháp vong xu, thì rạch da lấy huyết chép kinh, chặt tay đem thân cầu tổ, mà lòng không sợ kinh, không ngờ vực; vì người quên mình, là chịu khổ cắt thịt nuôi chim ưng, bỏ mạng đem thân cho cọp ăn, chẳng e ngại, chẳng dật lùi; tiền tài châu báu, thành quách vợ con, xem như chiếc dép rách; thủ túc chi li, mắt đầu tuỷ nảo, bỏ ra như da rắn lột. “Từ đời nầy qua đời khác, trải qua bá thiên vạn ức đời, mà tâm nầy không thối chuyển. Từ kiếp nầy tời kiếp nọ, trải qua bá thiên vạn ức kiếp, mà tâm nầy càng tinh tiến. Đặng vậy, ba kỳ quả mãn, muôn đức công viên ; lìa bốn câu kệ, dứt trăm điều quấy ; thông đạt pháp môn vô lượng vô biên . . . Thiệt là Trời ở trong trời, thiệt là Thánh ở trong thánh, thiệt là vua pháp không chi cao hơn, thiệt là Chánh đẳng Chánh giác. Vượt ra ngoài các phương tiện, tu nên thập lực[54], lại độ hết chúng hữu tình trong Pháp giới. Cực công của Phật giáo là như thế đó. “Kinh Pháp hoa nói rằng: Như Lai vì một đại sự nhân duyên mới hiện ra trên đời, muốn cho chúng sanh khắp nơi, cũng đồng đặng cái Đạo đó. Bởi đại nguyện đại lực của Ngài, thệ độ hết các hàm linh đều chứng vô thượng Niết bàn diệu quả. “Cho nên kẻ nào muốn biện minh Tam giáo, chẳng khá lấy tâm tư riêng mà luận, chẳng khá lấy tình thương ghét mà bàn, chỉ nên giữ một tâm niệm bình đẳng. Kẻ thế học Phật, đi đến chỗ kết quả, thì có thể đoạn dứt sanh tử, rốt cuộc Niết bàn, phổ độ chúng sanh, đều thành Chánh giác. Thế thì chỗ ưu liệt của Tam giáo chẳng phải hiển nhiên dễ thấy đó sao ?” Giáo lý của Phật rất cao thượng, chúng sanh không dễ thiệt hành, trừ ra một số rất ít mà thôi. Cho nên Phật giáo cũng phải dùng quyền giáo, để tiếp độ hạng trung căn và hạ căn. Đạo giáo dạy tu mạng trước khi tu tánh, là cốt để trợ tu tánh theo Phật pháp , tưởng không phải là không bổ ích. Thế thì Tam giáo tuy có cao thấp khác nhau, mà vẫn bổ cứu lẫn nhau, thành một thống hệ có trật tự và có cấp đẳng, cho chúng sanh tiện bề tu học. Xét như thế, thì chư độc giả mới thấy sự lợi ích về thống hệ của đạo Minh Lý sẽ bày giải sau nầy. [1] Coi chữ : “Pháp Phật vô nhị” trong cuốn Phật học đại tự điển. [2] Theo một định nghĩa khác (coi Phật học tự điển) thì chữ Pháp thân chỉ Pháp tánh (hay là Phật tánh) mượn xác thịt đi đầu thai. Một khi đã giải thoát vật chất và cứu cánh tiến hóa, Pháp tánh thị hiện ra sáng rỡ và trái với các pháp tạm thời, lại thoát ra ngoài vòng sanh tử luân hồi, mà thành bất sanh bất diệt. Thành thử chữ thân, theo định nghĩa nầy, là thị hiện. Vậy Pháp thân tức là Pháp tánh hiển hiện rốt ráo, sau khi gọt đổ hết các thứ ô trược, các tánh xấu xa của người trần thế. [3] Phái Thiên Thai tông của Phật giáo gọi cái Pháp thân nầy là Tì lư già na (Vairocana), nghĩa là : Biến nhứt thiết xứ, là Đại nhựt như lai, tức là nguồn sống của muôn vật. [4] Buddhatâ ou dharmatâ est le nom donné par les mahâyânistes à ce qui n’est pas le moi et qui pourtant est dans le moi. En vertu de cette idéee, des mahâyânistes parviennent la conscience du péché et en même temps la possibilité de l’illumination : La buddhâtâ est l’essence de l’état du Bouddha, sans laquelle cet état ne peut jamais être atteint dans le monde. Le Bouddha conçu d’une façon impersonnelle ou objective est le Dharma – loi, vérité, réalité - ; et la dharmatâ est ce qui constitue le Dharma. Dharmatâ et Buddhatâ sont interchangeables, mais l’exprience mahâyâniste est plutôt décrite en termes de Buddhatâ. [5] “Avec la conception de Buddhatâ, le Bouddha historique devient un Bouddha transcendant ; il cesse d’être simplement le “Muni des Shâkyas”, il est désormais une manifestation du Bouddha éternel, une incarnation de la Buddhatâ. Comme tel, il n’est plus un personnage individuel limité dans l’espace et le temps ; sa spiritualité déborde de lui, et tous les pouvoirs qu’il possède influencent ses semblables dans leur développement ou leur progression vers l’état du Bouddha ”. [6] “Il serait inexact de penser que le Bouddhisme n’a point de Premier principe, d’Etre suprême. Son Nirvana finit pour se confondre exactement avec le Brahman du Védantisme”. Le Brahman (neutre) est analogue Brahm, source de toute existence. Brahma (abref) est identique au Parabrahma védantin l’Absolu. Brahma . . . ( à accentué) est le pouvoir créateur, la Soi-conscienne universelle, première personne de la Trimourti, première écarnation de Brahma. [7] KHỔNG ĐỨC CHI DUNG, DUY ĐẠO THỊ TÙNG. [8] Cố Đạo sanh chi, Đức súc chi, trưởng chi, dục chi, thành chi, thục chi, dưỡng chi, phú chi, sanh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng nhi bất tể, thị vị huyền đức. [9] Le Brahma, de même que le Đạo, est la négation de l’existence phénominale et, par conséquent, il est désigné comme Néant. Inversement, il est la cause première de toute existence, et que, par conséquent, il n’est pas un Néant, mais un être transcendant. (Coi cuốn “Les 5 grandes religions du monde”). [10] Le juste et l’injuste, le beau et le laid sont des apparences humaines qui n’ont aucune valeur au point de vue absolu, mais, par delà ces apparences, se trouve l’immuable Tao dans lequel le Sage peut trouver toute vérité et toute béatitude . . . La vraie vertu, le Te, au contraire, est une sorte d’émanation, de manifestation du Tao dans les créatures, et comme dans le pont qui les rattache à la divinité. [11] Kinh Dịch, hàm có ba nghĩa lớn, là Biến dịch, Bất dịch và Giản dị. Nghĩa thứ nhứt là : Biến dịch. Vì rằng kinh Dịch thuật những hiện tượng trong vũ trụ thiên biến vạn hóa vô cùng, và những sự thiệt trong xã hội thường thay đổi luôn, cho nên gọi là : Biến dịch. Nghĩa thứ hai là : Bất dịch. Tuy rằng hiện tượng của loài người và trong vũ trụ vẫn thường lưu động luôn, nhưng trong khoảng biến hóa vẫn có cái lẽ nhứt định bất dịch, cho nên gọi là : Bất dịch. Nghĩa thứ ba là : Giản dị. Thông suốt cả các hiện tượng của loài người và trong vũ trụ, mà vẫn là giản dị, minh bạch, cho nên gọi là : Giản dị (Coi cuốn Trung quốc Luân lý học sử, nói về Danh nghĩa kinh Dịch, của người Nhựt là Tam phố Đằng tác). [12] Le docteur L.Wiger a dit : “Un principe premier unique d’abord concentré et inactif, se mit à émaner, à produire. Recuelli, on l’appelle Tao ; agissant, on l’appelle Te ”. ( Voir le livre “Taoisme”, tome I.Introduction). [13] “Thành giả thiên chi đạo dã, thành chi giả nhơn chi đạo dã. Thành giả bất miễn nhi trúng, bất tư nhi đắc, thung dung trúng đạo, Thánh nhơn dã. Thành chi giả, trạch thiện nhi cố chấp chi giả dã”. [14] C’est ce divin Feu Créateur résidant en nous qui consume et expurge de notre nature toute scorie terrestre et nous permet d’accomplir la grande transmutation des niveaux toujours plus élevés, jusqu’à ce qu’enfin subsiste l’or pur de l’Esprit. [15] Chữ Kim, nghĩa là vàng ròng, Đơn là thuốc chín bào chế. Nhưng ở đây, là lấy hình chữ Đơn 丹 , do nhựt nguyệt hiệp mà thành, để chỉ một nghĩa thuộc về tinh thần. Kim đơn do tánh mạng song tu mà thành, huờn lại vàng ròng ở trong bổn tánh (or pur de l’Esprit, theo thuyết Alchimie divine). [16] Tự tại thần thông, nghĩa là : tấn thối vô ngại, tùy ý biến hóa, có diệu lực bất khả tư nghị, muốn làm việc chi cũng đều đặng thành tựu, mỹ mãn, không có một trở lực nào đương đầu nỗi. Du hí tam muội : Tam muội là tiếng Phạm “samadhi”, mà người Tàu dịch nghĩa là chuyên tâm. Chư Phật, bồ tát chuyên tâm cứu tế chúng sanh, lấy đó làm vui sướng như người thường du hí (dạo chơi) thì trong lòng vẫn luôn luôn vui sướng vậy. Chữ hí nói đây cũng đồng nghĩa với chữ tự tại nói trên. [17] Lý tức Phật giả, bất tư nghì Lý tánh dã, Như lai chi tạng, bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, tùy niệm nhứt pháp, vô phi pháp giái; tâm, phật, chúng sanh, tâm vô sai biệt, tại phàm bất giảm, tại thánh bất tăng. [18] Vĩnh gia Thiền sư nói : “Chư phật pháp thân nhập ngã tánh, ngã tâm huờn cọng Như lai (tâm) hiệp”, là có ý chỉ vào phần tuyệt đối nói đây. . . . Ông giáo sư H.De Glasenapp có nói : “Les tres animés ne reconnaissent pas leur nature véritable qui est une avec le Bouddha universel et ne perçoivent pas son action bénie dans les forces du Cosmos et de l’homme. (Coi cuốn “ Les Cinq grandes religions du monde”), thì cũng một ý nói trên. [19] Trong cuốn “Qui nguyên trực chỉ ”, quyển trung, trương 14, có câu: Hiếu Tông hoàng đế chế Nguyên đạo biện viết : “Dĩ Phật trị tâm, dĩ Đạo trị thân, dĩ Nho trị thế. Thành trị tâm dã, thân dã, thế dã, bất dung hữu nhứt chi bất trị, tắc Tam giáo khởi dung hữu nhứt chi bất lập”. [20] Tánh tức viên minh chi Chơn tâm, tự tánh thanh tịnh tâm thị dã (Thuật ngữ ). [21] Xin coi sách “Châu Dịch Xiển Chơn” của đạo Minh Lý xuất bản, trương 69. [22] Xin coi sách “Châu Dịch Xiển Chơn” của đạo Minh Lý xuất bản, trương 69. [23] Hà vị chi tánh ? – Nguơn thỉ Chơn như, nhứt linh hoảnh hoảnh (Coi bài Tánh mạng thuyết, trong cuốn Tánh mạng Khuê chỉ ). [24] Hà vị chi mạng ? – Tiên thiên chí tinh, nhứt khí nhân ôn (Coi bài Tánh mạng thuyết như trên). [25] Vương trùng Dương, một tiền thập nhựt, ngữ đệ tử Mã đơn Dương viết: “Học Đạo vô tha, tại ư dưỡng khí; tâm dịch hạ giáng, thận khí thượng đằng, chí tì nguơn, nhân ôn bất tán, tắc đơn tụ hỉ ”. [26] Thử chi vị tánh mạng diệu hiệp. Nại diệu hiệp chi đạo bất minh, tu tánh giả di mạng, thả tinh suất tánh chi khiếu diệu, bất đắc nhi tri chi, thẩn năng thủ chi hồ ? Phi lưu ư cuồng đảng, tắc thất ư không tịch. Bất tri kỳ mạng, mạt hậu hà qui ? Tu mạng giả di tánh, thả tinh tạo mạng chi công phu bất đắc nhi tri chi, thẩn năng thủ chi hồ ? Phi chấp ư hữu tác, tắc thất ư vô vi. Bất tri kỳ tánh, kiếp vận hà đào ? Tức nhị thị chi sơ, diệc khởi như thị hồ ? [27] Ba hoàng là : lưu hoàng, thư hoàng và hùng hoàng. [28] Bốn thần là : Phàn thạch, châu sa, diên (hác diên), hống (thủy ngân). [29] Cái thể thứ hai nầy mới bắt đầu đặng trường sanh, còn phải trải qua nhiều giai đoạn tu hành nữa, cho nó hoàn toàn hiệp với Hư vô, mới là đặng bất sanh bất diệt. [30] Nhan Uyên vấn Nhân, Tử viết : “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”. Nhan Uyên viết : “Thỉnh vấn kỳ mục”. Tử viết : “Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”. [31] Trọng Cung vấn Nhân, Tử viết : “Xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn. Tại bang vô oán, tại gia vô oán” [32] Tư mã Ngưu vấn Nhân, Tử viết : “Nhân giả, kỳ ngôn dã nhẫn”. [33] Phàn Trì vấn Nhân, Tử viết : “Cư xử cung, chấp sự kỉnh, dữ nhơn trung”. [34] Trung dung thuyết : “Nhân giả, nhơn dã”. Mạnh tử nói : “Nhân dã giả, nhơn dã”. [35] Châu Hi thuyết : “Nhân giả vô tư tâm, nhi hiệp Thiên lý chi vị ”. [36] Khổng tử viết : “Quân tử nhi bất nhân giả hữu hỉ phù. Vị hữu tiểu nhơn nhi nhân giả dã”. [37] Luận ngữ (xem lời tập chú của thầy Chu tử) có nói : “Thánh nhơn chi tâm, hồn nhiên Nhứt lý, nhi phiếm ứng khúc đáng, dụng các bất đồng”. [38] Từ Khổng Tử về sau, các học giả trong Nho giáo, thường nói đến chữ nhân, nhưng chỉ hiểu mập mờ là ái hay là thứ, chớ không ai giải rõ cái nghĩa chữ nhân như ông Trình Minh Đạo và Châu Hối Am, và hiểu được đến chỗ sâu sa của chữ nhân như thế. Mà chữ nhân là cái yếu điểm của Khổng học, hễ không đạt được hết các ý nghĩa thì đạo của Thánh nhơn vẫn không được sáng tỏ. Hậu nho cho là họ Trình và họ Châu làm sáng rõ Khổng học cũng là không lầm vậy. (Nho giáo Trần Trọng Kim) [39] Vị hữu Nhân nhi di kỳ thân giả dã. Vi hữu nghĩa nhi hậu kỳ quân giả dã (Lương huệ Vương, chương thượng). [40] Mạnh Tử viết : “Nhơn giai hữu sở bất nhẫn, đạt chi ư kỳ sở nhẫn, Nhân dã. Nhơn giao hữu sở bất vi, đạt chi ư kỳ sở vi, nghĩa dã (Tận tâm, hạ)”. [41] Nhơn năng sung vô hại nhơn chi tâm, nhi Nhân bất khả thăng dụng dã. Nhơn năng sung vô xiêng du chi tâm, nhi nghĩa bất khả thăng dụng dã. Nhơn năng sung vô thọ nhử nhử chi thiệt, vô sở vãng nhi bất vi nghĩa dã (Tận tâm, hạ). [42] Quân tử đạo giả tam, ngã vô năng diên : Nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dõng giả bất cụ. [43] Tề cảnh Công vấn chánh ư Khổng Tử . Khổng Tử đối viết :”Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Công viết : “Thiện tai ! Tín như quân bất quân, thần bất thần, phụ bất phụ, tử bất tử, tuy hữu túc, ngô đắc nhi thực chi chư ?” [44] Sách Trung dung, chương thứ 20 nói : “Thiên hạ chi đạt đạo ngũ, sở dĩ hành chi giả tam, Viết : quân thần dã, phụ tử dã, phu phụ dã, côn đệ dã, bằng hữu chi giao dã, ngũ giả thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí, nhân, dõng, tam giả thiên hạ chi đạt đức dã, sở dĩ hành chi giả Nhứt dã”. [45] Sách Tánh lý nói: “Cố giả Thánh vương chế lễ pháp, tu giáo hóa, tam cang chánh”. [46] Cuốn Ấu học Quỳnh Lâm nói : “Phụ chủ trung quỉ, phanh trị ẩm thực chi danh” nghĩa là : Đàn bà coi về bếp núc, nấu ăn trong nhà, nên gọi như thế. Nói tắt là “chủ quỉ ”. [47] Châu thiên thế giới là vòng quanh cõi trời, chớ không có cõi nào gọi là cõi châu thiên. Lại chữ Đạo không kinh sách nào nói. [48] Kinh Huỳnh đình ngoại cảnh quyển trung nói : “Phò dưỡng tánh mạng thủ hư vô, điềm đạm vô vi hà sở lự ? Võ dực mồ kỷ chánh phò sơ, trường sanh cửu thị nải phi khứ ”. Nghĩa là : Tu dưỡng tánh mạng, giữ lòng không (chẳng ham phú quí, công danh), đạm bạc vô vi (theo lẽ tự nhiên) có lo gì ? Giúp đở mồ kỷ (chơn ý), chống ngay thẳng, sống lâu thấy đủ, rồi bay đi (về trời). [49] Hạo kiếp trường tồn. [50] Theo bản Thống tôn, bá ức là 10 tỉ. Nói thập ức,nghĩa là ba lần ngàn: 1000 *1000 * 1000 = 1.000.000.000 là 1 tỉ, có lẽ đúng hơn. [51] Ở Việt nam xưa, một tiền kẻm có 60 đồng tiền, một quan có 600 đồng tiền. Còn theo bài nầy, có lẽ bên Trung Hoa, một quan tiền có tới 1.000 đồng tiền, thì bá vạn quan mới có đủ số một tỉ đồng tiền : 1.000 * 1.000 * 1.000 = 1.000.000.000, ngang với số thế giới trong một cõi Đại thiên. [52] 62 tà kiến. Đối với pháp ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), mỗi ấm, phái ngoại đạo khởi chấp 4 món tà kiến: 1/ Chấp sắc lớn ngã nhỏ, ngã ở trong sắc ; 2/ Chấp ngã lớn sắc nhỏ, sắc ở trong ngã ;3/ Ngoài sắc chấp ngã riêng ; 4/ Ngã tức là sắc. Sắc ấm như thế, thì các ấm kia cũng thế, cộng thành 20 kiến, trãi ba đời nhơn ra thành : 20 * 3 = 60 kiến, thêm hai phần căn bổn là Đoạn kiến và Thường kiến, thành ra 62 món tà kiến. Vì rừng tà kiến (tà kiến nhiều như rừng) chấp sai lầm ấy, nên người đời không chừa một tội lỗi nào mà không làm. [53] 5 lợi sử (ngã kiến, biên kiến, tà kiến, giới thủ, kiến thủ) và 5 độn sử (ái, sân, mạng, si, nghi), cộng lại gọi là thập sử, cũng gọi là thập kiến, thập đại hoặc, trải qua ba giới “hữu”, có giảm, có hiệp, thành ra 88 sử. (Lấy tứ đế mà tính, thì Dục giới có 32 + Sắc giới có 28 + Vô sắc giới có 28). [54] Mười trí lực của Phật : 1/ Biết rõ điều hiệp lý và trái lý. 2/ Biết rõ nhân quả của chúng sanh trong ba đời. 3/ Biết rõ các pháp thiền định giải thoát tam muội. 4/ Biết rõ căn tánh thấp cao của chúng sanh. 5/ Biết rõ các sự ưa muốn sai biệt của chúng sanh. 6/ Biết rõ các cảnh giái sai biệt của chúng sanh trong thế gian. 7/ Biết rõ chỗ đi đến của tất cả phàm phu, Hiền, Thánh, Thế gian và xuất thế gian. 8/ Biết rõ tánh danh, khổ vui, thọ yểu của tất cả chúng sanh. 9/ Biết rõ sự sống chết qua lại các kiếp trước của tất cả chúng sanh và Vô lậu Niết bàn của Hiền Thánh. 10/ Tự biết mình đã dứt hết nghiệp hoặc tập khí, không còn sanh tử triền phược nữa. Rút gọn
Vertical Divider
|
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |