Theo sử ký của Tư Mã Thiên : Đức Lão Tử người sanh ở nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc nhân thuộc Tỉnh Hà Nam bây giờ.
Ngài Họ Lý, tên Nhỉ, tự Bá Dương, húy là Đam. Ngài làm quan giữ tàng thất nhà Châu.
Trước Dương lịch 50 năm, có một người đàn bà nhà quê ( sử không nói tên ) ở nước Lỗ gặp gở một người bạn trai trong một rừng nước Sở, đêm ấy có xuất hiện một vì sao chổi, bảy sắc hào quanggg rọi vào bực đá khi hai người giao tình tri ngôn.
Rạng đông sao chổi lặng, Ông chồng cũng chết! bà vợ thọ thai quá lâu - đến 80 năm mới sanh vào giờ Sửu ngày 15 tháng 2 năm Canh Thìn. Một hài nhi tóc và râu trắng như tuyết nơi cội cây Lý, Bà lấy tên Lý làm họ, tai dài mỗi cái có ba lỗ ở trong nên đặt tên Nhỉ, gọi là Lý Nhỉ, có chỗ gọi là Lão Đam hay Lão Tử.
Lớn lên, Người cảnh nghèo mẹ già, cha đã chết sớm nên phải rày mai đó khắp nơi để sanh sống. Còn sự học chữ không được học nơi trường, chỉ học lóm với bạn bè, có nhiều khi đi ngang qua các trường lén rình nghe các thầy giáo đang giãng sách. Người đã sẵn khiếu thông minh nên nghe qua đều thâu nhận được hết.
Cảnh sống của Người, đã được Người (len) lõi vào từng lớp dân chúng, của vạn vật núi rừng, nên giao cảm với những cảnh vật thiên nhiên - làm cho Người có tinh thần suy gẩm, trầm tư, mặc tưỡng và Người được đọc quyển sách "Thiên nhiên" vĩ đại của vũ trụ của Thượng Đế, nhờ đó mà Người trở nên một nhà Triết Lý.
Vua Kinh Vương nhà Châu có mời phong Người làm Quan Trụ Hạ Sử và giao sử Tàng Kinh Viện tại Am Hồn Miếu. Nên Người rất sung sướng, sẵn có kinh sách quý được lưu trử ngàn xưa mà đọc, nhờ vậy mà giúp cho Người thêm hiểu biết và nhận xét rõ rệt về khoa Triết Lý Học mà danh đồn Người là một Triết Lý Thánh Nhơn ra khắp thế gian.
Một thời gian sau Người từ quan đi tầm Đạo đến ghé Ải Hàm Cốc viết bộ Đạo Đức giao cho Doãn Hỷ, rồi Ngài đi ngao du luôn, vắng dạng kể từ đó.
Ngài Họ Lý, tên Nhỉ, tự Bá Dương, húy là Đam. Ngài làm quan giữ tàng thất nhà Châu.
Trước Dương lịch 50 năm, có một người đàn bà nhà quê ( sử không nói tên ) ở nước Lỗ gặp gở một người bạn trai trong một rừng nước Sở, đêm ấy có xuất hiện một vì sao chổi, bảy sắc hào quanggg rọi vào bực đá khi hai người giao tình tri ngôn.
Rạng đông sao chổi lặng, Ông chồng cũng chết! bà vợ thọ thai quá lâu - đến 80 năm mới sanh vào giờ Sửu ngày 15 tháng 2 năm Canh Thìn. Một hài nhi tóc và râu trắng như tuyết nơi cội cây Lý, Bà lấy tên Lý làm họ, tai dài mỗi cái có ba lỗ ở trong nên đặt tên Nhỉ, gọi là Lý Nhỉ, có chỗ gọi là Lão Đam hay Lão Tử.
Lớn lên, Người cảnh nghèo mẹ già, cha đã chết sớm nên phải rày mai đó khắp nơi để sanh sống. Còn sự học chữ không được học nơi trường, chỉ học lóm với bạn bè, có nhiều khi đi ngang qua các trường lén rình nghe các thầy giáo đang giãng sách. Người đã sẵn khiếu thông minh nên nghe qua đều thâu nhận được hết.
Cảnh sống của Người, đã được Người (len) lõi vào từng lớp dân chúng, của vạn vật núi rừng, nên giao cảm với những cảnh vật thiên nhiên - làm cho Người có tinh thần suy gẩm, trầm tư, mặc tưỡng và Người được đọc quyển sách "Thiên nhiên" vĩ đại của vũ trụ của Thượng Đế, nhờ đó mà Người trở nên một nhà Triết Lý.
Vua Kinh Vương nhà Châu có mời phong Người làm Quan Trụ Hạ Sử và giao sử Tàng Kinh Viện tại Am Hồn Miếu. Nên Người rất sung sướng, sẵn có kinh sách quý được lưu trử ngàn xưa mà đọc, nhờ vậy mà giúp cho Người thêm hiểu biết và nhận xét rõ rệt về khoa Triết Lý Học mà danh đồn Người là một Triết Lý Thánh Nhơn ra khắp thế gian.
Một thời gian sau Người từ quan đi tầm Đạo đến ghé Ải Hàm Cốc viết bộ Đạo Đức giao cho Doãn Hỷ, rồi Ngài đi ngao du luôn, vắng dạng kể từ đó.
ĐẠO ĐỨC KINH
Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh.
Đây là quyển kinh căn bản của Tiên giáo do Lão Tử (còn được gọi là Thái Thượng Lão Quân) viết ra và người đời sau suy tôn ông là giáo chủ Tiên giáo.
Quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của Lão Tử căn cứ trên hai chữ Đạo và Đức, nên ông theo đó mà lập thành giáo lý.
Quyển Đạo Đức Kinh được dùng làm tài liệu chính trong phần tu mạng của môn sanh Minh Lý Đạo. Sách kinh do HUỲNH NGUYÊN KIẾT tiên sinh chú thích theo tông chỉ Đạo giáo và Ngài Minh Thiện dịch ra Việt ngữ.
Trong phần sau của của quyển sách, Ngài Minh Thiện kết luận như sau:
Cuốn Kinh Đạo Đức là một cuốn Kinh xưa, vừa là sách triết học, vừa là kinh Thiên đạo, là căn bổn cho Đạo giáo hay là Đạo tu Tiên, mà cũng là cho Đạo qui nguyên Tam giáo sau nầy.
Cái Đạo “tu thân”, “xử thế” của Đức Thái Thượng vốn thiệt là nhứt quán (thông suốt cả hai bên), chứ chẳng phải chia riêng biệt hai việc đó. Nếu chẳng giải thích rõ ràng, mà chỉ nói phép tu thân cũng là phép trị thế, thì phần trị thế phải chịu lép đi, chỉ còn phần tu thân mà thôi.
Thánh nhơn chỉ coi thiên hạ chung một nhà, mà cũng coi vạn vật đồng một thể. Đức cả của Thánh nhơn đã phổ cập muôn vật, cho nên chẳng có độc ý gì thương hại một loài vật nào cả.
Cái chủ nghĩa tư tưởng cộng đồng bác ái này, nếu đặng mở rộng khoáng đại, đến lúc người người tư tưởng đều giống nhau chẳng khác, thì không cần nói quốc tộc phân tranh có thể hoàn toàn đánh tiêu, mà cũng có thể hy vọng xã hội đương phiến loạn biến thành xã hội người người tương hòa tương ái. Cho đến muôn vật cũng đặng: “Các toại kỳ sanh, các an kỳ sở”.
Đó mới là cảnh tượng chơn chánh đại đồng, đó mới là con đường tắt đạt đến hòa bình chơn chánh.
Xin kính thỉnh chư đạo hữu, đạo tâm cùng thưởng lãm và thấu nhập.
Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh.
- Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: "Đạo khả Đạo phi thường Đạo". Thượng Kinh luận về chữ Đạo nên được gọi là Đạo Kinh.
- Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: "Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức". Hạ Kinh luận về chữ Đức nên được gọi là Đức Kinh.
Đây là quyển kinh căn bản của Tiên giáo do Lão Tử (còn được gọi là Thái Thượng Lão Quân) viết ra và người đời sau suy tôn ông là giáo chủ Tiên giáo.
Quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của Lão Tử căn cứ trên hai chữ Đạo và Đức, nên ông theo đó mà lập thành giáo lý.
Quyển Đạo Đức Kinh được dùng làm tài liệu chính trong phần tu mạng của môn sanh Minh Lý Đạo. Sách kinh do HUỲNH NGUYÊN KIẾT tiên sinh chú thích theo tông chỉ Đạo giáo và Ngài Minh Thiện dịch ra Việt ngữ.
Trong phần sau của của quyển sách, Ngài Minh Thiện kết luận như sau:
Cuốn Kinh Đạo Đức là một cuốn Kinh xưa, vừa là sách triết học, vừa là kinh Thiên đạo, là căn bổn cho Đạo giáo hay là Đạo tu Tiên, mà cũng là cho Đạo qui nguyên Tam giáo sau nầy.
Cái Đạo “tu thân”, “xử thế” của Đức Thái Thượng vốn thiệt là nhứt quán (thông suốt cả hai bên), chứ chẳng phải chia riêng biệt hai việc đó. Nếu chẳng giải thích rõ ràng, mà chỉ nói phép tu thân cũng là phép trị thế, thì phần trị thế phải chịu lép đi, chỉ còn phần tu thân mà thôi.
Thánh nhơn chỉ coi thiên hạ chung một nhà, mà cũng coi vạn vật đồng một thể. Đức cả của Thánh nhơn đã phổ cập muôn vật, cho nên chẳng có độc ý gì thương hại một loài vật nào cả.
Cái chủ nghĩa tư tưởng cộng đồng bác ái này, nếu đặng mở rộng khoáng đại, đến lúc người người tư tưởng đều giống nhau chẳng khác, thì không cần nói quốc tộc phân tranh có thể hoàn toàn đánh tiêu, mà cũng có thể hy vọng xã hội đương phiến loạn biến thành xã hội người người tương hòa tương ái. Cho đến muôn vật cũng đặng: “Các toại kỳ sanh, các an kỳ sở”.
Đó mới là cảnh tượng chơn chánh đại đồng, đó mới là con đường tắt đạt đến hòa bình chơn chánh.
Xin kính thỉnh chư đạo hữu, đạo tâm cùng thưởng lãm và thấu nhập.
Your browser does not support viewing this document. Click here to download the document.
Giờ tiếp khách
|
Điện thoại
|
Trang web
(Web page) https://www.minhlydao.org
|
Contact: [email protected]
Feedback, please address to: Tam Chon Le (Đại Mạng) E.mail: [email protected] |